*



















Cùng số báo, có bài này, cũng thú: "Xâm Lăng Prague, 68"

*

Viết thêm về… ăn cướp.

Trên Blog THT có giới thiệu cuốn trên, và có lời “cảnh báo”, ai muốn trích lại những entries thì phải nói qua với “khổ chủ”. 
Cho đến nay, trang TV có mặt trên net trên 10 niên, và chưa từng được một ai trích dẫn mà hỏi xin phép “khổ chủ” cả.

Cuốn trên, Miền Nam trước 1975, Lý Quốc Sỉnh đã dịch, là, “Những cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng”.
Ðây là 1 cuốn mà Gấu hơi bị ấn tượng suốt 1 thời mới lớn.
Trong có mấy xen nhớ đến già. Thí dụ, cái xen Nils cố cứu con đại bàng, hay chim ưng Góc Gô [?] gì đó, bị con người săn bắt được, nhốt trong Sở Thú, cho con nít coi, hình như vậy. Và anh đại bàng, thay vì bay trên trời cao, vượt đỉnh trời này tới đỉnh trời khác, khi bị nhốt, cũng vẫn bay, nhưng ở trong những giấc đại mộng, và khi Nils cố cắt lưới, cho anh đại bàng ra được bên ngoài với tự do, thì anh thoạt đầu lắc đầu... Anh Góc Gô đó, là Gấu, cho đến khi ra được hải ngoại.
Xen thứ nhì là Nils lạc vào 1 thành phố ở dưới biển, đi lang thang shopping, và khi thấy 1 món đồ kỷ niệm đẹp quá, tính mua, thì gần như tất cả cư dân của nó mở mắt lớn ra nhìn, nhưng sau cùng Nils lắc đầu, vì quên bóp ở nhà!
Hoá ra đây là 1 thành phố bị Chúa nguyền, vì tha hoá, và chỉ 1 khi có 1 người nào bỏ tiền ra mua, chỉ 1 món đồ, do cư dân của nó lao động làm ra, thì lời nguyền của Chúa mới được gỡ bỏ.

Cả hai xen trên, theo Gấu, đều như nhắm vào cái xứ Bắc Kít, và những con người của nó, không phải đám thứ dân, hay những kẻ nghèo khổ mà là tầng lớp tinh anh, gần như ai cũng có tí mùi chiến lợi phẩm....

Ðể bóp ở nhà mà bắt người khác phải xin phép!

30.4.2010

Si tu lis les premières pages du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những trang đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những trang vinh danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannah Arendt

Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!

Biến cả thế giới thành bãi đánh hàng; “bầy chim bỏ xứ” đếch ai chứa, Mẽo chứa, đến lúc VC giơ bịch tiền đô ra nhử là bỏ về, không 1 tiếng cám ơn; mở blog thì dùng server chùa, ngay đến cái Nobel thì cũng được mũi lõ nuôi nấng dậy dỗ mà có được, vậy mà phải xin phép khổ chủ đấy nhé!
Coi blog của tụi mũi lõ, có thằng nào khốn nạn như thế không? Chúng chỉ yêu cầu, nếu lấy, thì nhớ ghi nguồn.
Tờ NYRB, trước, cho đọc hết tờ báo giấy, sau bị giới báo giấy cằn nhằn, mới thôi.
Chúng muốn nói, thằng nào có tiền, mua, OK, thằng nào muốn đọc free, tha hồ.
 

Cái cuộc chiến vừa qua, ngay đám Bắc Kít, thì cũng chưa có một tên nào nhìn ra cái đẹp thần sầu của nó. Cái đẹp thần sầu này là kết tinh của tất cả những gì làm nên con người Mít, và khiến cho giống dân này còn trường tồn cho đến ngày này, trong khi nhiều giống dân bảnh hơn nó, tạo ra những nền văn minh hiển hách hơn nhiều so với cái thứ văn minh sông Hồng, đỉnh cao của nó là cái Nobel Toán, vậy mà cũng chìm vào quên lãng.
Chính cái làm cho nó không bị tiêu diệt, đến đúng ngày 30 Tháng Tư, trở thành cái tiêu diệt nó, hai mặt của một đồng tiền, là vậy.

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói như thế [Bảnh thật!]: Tớ mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải chúng!

Gấu đọc ba cái “nhìn lại cuộc chiến” của chúng là thấy tởm, là vậy!

*

"HE GRABBED THE BOY AND TOSSED HIM ... INTO THE AIR."

THE WONDERFUL ADVENTURES OF NILS

… there was a city on this shore, called Vineta. It was so rich and so fortunate, that no city has ever been more glorious; but its inhabitants, unluckily, gave themselves up to arrogance and love of display. As a punishment, says Bataki, the city of Vineta was overtaken by a flood, and sank into the sea. But these inhabitants cannot die, nor is their city destroyed. And one night in every hundred years, it rises in all its splendour up from the sea, and remains on the surface just one hour."
"Yes, it must be so," said Thumbietot, "for this I have seen."
"But when the hour is up, it sinks again into the sea, if, during that time, no merchant in Vineta has sold anything to a single living creature. If you, Thumbietot, had only had ever so tiny a coin to pay the merchants, Vineta might have remained up here on the shore; and its people could have lived and died like other human beings."
"Herr Ermenrich," said the boy, "now I understand why you came and fetched me in the middle of the night. It was because you believed that I should be able to save the old city. I am so sorry it didn't turn out as you wished, Herr Ermenrich."
He covered his face with his hands and wept. It wasn't easy to say which one looked the more disconsolate – the boy, or Herr Ermenrich.

Source

GCC lướt internet, mò ra cái xen nói trên. Hoá ra là anh cu Nils có “mission” cứu thành phố Hà Lội, bị Chúa nguyền phải sa xuống “đáy địa ngục” [chữ này của Tạ Tỵ], nhưng "vấp ngã" [chữ này của cớm & biên khảo gia & nhà thơ], chán thế!
Oe, lần đi Stockholm lãnh Nobel, cứ nghĩ mình đang ở trên lưng một chú ngỗng, như Nils.
Người được trao cho sứ mạng, cứu, không chỉ 1 thành phố Hà Lội, hay Xề Gòn, mà cả 1 dân tộc, đất nước Mít, là ông có cái "bỉu bói" Nobel.
Chỉ ông ta, "đỉnh của đỉnh" của văn minh Sông Hồng, mới làm được điều này.
Nhưng không hiểu sao, Bắc Bộ Phủ biết được, ra đòn trước, bằng cách lấy cái nhà ra nhử, thế là ô hô ai tai.
Trả lời Minh Tran Huy, DTH cho biết, bà cũng được Nguyễn Văn Linh đưa cái nhà ra “dzụ”, nhưng bà lắc đầu.

Cùng số báo, có bài này, cũng thú: "Xâm Lăng Prague, 68"

Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion Prague 68”

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

*

Vào ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..  hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!

Mùa Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.

Tôi rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế? 
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã từng nghe được.

-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.

*

Viết thêm về… ăn cướp.

Trên Blog THT có giới thiệu cuốn trên, và có lời “cảnh báo”, ai muốn trích lại những entries thì phải nói qua với “khổ chủ”. 
Cho đến nay, trang TV có mặt trên net trên 10 niên, và chưa từng được một ai trích dẫn mà hỏi xin phép “khổ chủ” cả.

Cuốn trên, Miền Nam trước 1975, Lý Quốc Sỉnh đã dịch, là, “Những cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng”.
Ðây là 1 cuốn mà Gấu hơi bị ấn tượng suốt 1 thời mới lớn.
Trong có mấy xen nhớ đến già. Thí dụ, cái xen Nils cố cứu con đại bàng, hay chim ưng Góc Gô [?] gì đó, bị con người săn bắt được, nhốt trong Sở Thú, cho con nít coi, hình như vậy. Và anh đại bàng, thay vì bay trên trời cao, vượt đỉnh trời này tới đỉnh trời khác, khi bị nhốt, cũng vẫn bay, nhưng ở trong những giấc đại mộng, và khi Nils cố cắt lưới, cho anh đại bàng ra được bên ngoài với tự do, thì anh thoạt đầu lắc đầu... Anh Góc Gô đó, là Gấu, cho đến khi ra được hải ngoại.
Xen thứ nhì là Nils lạc vào 1 thành phố ở dưới biển, đi lang thang shopping, và khi thấy 1 món đồ kỷ niệm đẹp quá, tính mua, thì gần như tất cả cư dân của nó mở mắt lớn ra nhìn, nhưng sau cùng Nils lắc đầu, vì quên bóp ở nhà!
Hoá ra đây là 1 thành phố bị Chúa nguyền, vì tha hoá, và chỉ 1 khi có 1 người nào bỏ tiền ra mua, chỉ 1 món đồ, do cư dân của nó lao động làm ra, thì lời nguyền của Chúa mới được gỡ bỏ.

Cả hai xen trên, theo Gấu, đều như nhắm vào cái xứ Bắc Kít, và những con người của nó, không phải đám thứ dân, hay những kẻ nghèo khổ mà là tầng lớp tinh anh, gần như ai cũng có tí mùi chiến lợi phẩm....

Ðể bóp ở nhà mà bắt người khác phải xin phép!

30.4.2010

Si tu lis les premières pages du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những trang đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những trang vinh danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannh Arendt

Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!

Biến cả thế giới thành bãi đánh hàng; “bầy chim bỏ xứ” đếch ai chứa, Mẽo chứa, đến lúc VC giơ bịch tiền đô ra nhử là bỏ về, không 1 tiếng cám ơn; mở blog thì dùng server chùa, ngay đến cái Nobel thì cũng được mũi lõ nuôi nấng dậy dỗ mà có được, vậy mà phải xin phép khổ chủ đấy nhé!
Coi blog của tụi mũi lõ, có thằng nào khốn nạn như thế không? Chúng chỉ yêu cầu, nếu lấy, thì nhớ ghi nguồn.
Tờ NYRB, trước, cho đọc hết tờ báo giấy, sau bị giới báo giấy cằn nhằn, mới thôi.
Chúng muốn nói, thằng nào có tiền, mua, OK, thằng nào muốn đọc free, tha hồ.



*



Cùng số báo, có bài này, cũng thú: "Xâm Lăng Prague, 68".

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

MOSCOW POSTCARD

A THOUSAND WORDS

On August 21, 1968, in Prague, Josef Koudelka-a man with a camera, received a middle-of-the-night-phone call from a friend.
Soviet tanks had crossed the border into Czechoslovakia. Simultaneously, transport planes were delivering paratroopers, light tanks, and other artillery to Ruzyne airport, on the outskirts of Prague-part of a force that would eventually comprise more than two hundred and fifty thousand Warsaw Pact soldiers, each equipped with a Kalashnikov and the assurance of his commanders that their mission was not an invasion but a response to a Czech invitation to a "liberation." This was how the Prague Spring ended: the down payment on the heavy equipment that would ultimately dig the Soviet Union's grave.

Koudelka spent the next week in the streets, breaching barricades, climbing aboard tanks, and witnessing the peaceful outrage and incredulousness of his compatriots, the sporadic violence of the invaders (more than a hundred Czech citizens died), and the peculiar bewilderment of those invaders. The resulting images established his reputation as one of the most gifted photographers of his time. Friends smuggled his film out of the country, and facilitated its publication. Still, it would be sixteen years-until the death of Koudelka's father, who had remained in Czechoslovakia after his son immigrated to London-before he considered it safe for the work to be identified as his. And it would be forty-three years-until earlier this month-before all the photographs could be seen by anyone in Moscow with some free time and fare for the Metro.
Three years ago, 'Invasion 68 Prague," an exhibition organized by the Aperture Foundation, opened, in Chelsea. It has since travelled to five countries. The show in Moscow, reconfigured for the Lumiere Brothers Center for Photography, had been more than a year in the planning, yet it seemed to catch Koudelka- white-haired, live-wired, a hopeful skeptic in perpetual motion-in his own state of mild incredulousness. "I never believed this exhibition could be in Moscow," he said. ''1' d like the young people who come to see it to see their own faces in the faces of these young Russians, who were their fathers or grandfathers, and to do everything in order to never be invaders."
In several photographs, this metaphor repeats-unarmed citizens eye to eye, at times debating, with soldiers who, even as they grip their weapons, appear disarmed by circumstance. "These soldiers were a little bit younger than me," Koudelka continued, "and I felt that it could have been me in their place. I lived in the same system. I could have been awakened one night, put on a plane and then on a tank with a machine gun in my hands. We talked with the Russian soldiers and they started to understand. But a soldier is a soldier. He has to obey orders."
Among the luminaries in the crowd was Natalya Gorbanevskaya, the Polish-Russian poet, whose decision, four days into the invasion, to participate in a protest in Red Square earned her twenty-six months in a Soviet psychiatric prison.
Meanwhile, an unheralded attendee was Boris Valentinovich Shmelyov, a Moscow pensioner who had heard about Koudelka's show from Josef Pazderka, a Czech journalist and editor of an oral history of the invasion, “Invaze 1968. Rusky Pohled" ("Invasion 1968. The Russian View"), published this year. Two days after the opening, the two of them returned to the gallery for a quiet second look. In the summer of 1968, Shmelyov, then twenty, was a paratrooper, based in Lithuania. He arrived in Prague during the first wave of transport flights. Like Koudelka, he owned a camera, which he used to photograph his fellow-soldiers and, on occasion surreptitiously, his commanders. The camera was confiscated, but he hid the film inside a radio. Several Shmelyov photographs illustrate his chapter in "Invaze 1968."
The first image in the gallery that he approached was among Koudelka's bleakest: bloodstained pavement, flowers, a sign declaring that on that spot a Soviet soldier had shot and killed a fourteen-year-old boy. 'When I saw that the other day, I remembered having seen it before," Shmelyov said. As he proceeded through the exhibit, he recognized archetypes. The flat gaze of a solitary soldier, holding a rifle, wearing a helmet. 'This is a country boy," Shmelyov said. "He's afraid, he doesn't know what to do, and he knows it."
A Czech in a black leather jacket confronts a soldier standing atop a tank. Two other soldiers are either clambering from the hatch or escaping inside. Dense black smoke rises from burning vehicles nearby. The man in the jacket spreads its lapels, exposing his chest, perhaps daring his opposite to shoot. 'They're defending the tank," Shmelyov said. "They're responsible for it and might be punished for letting it burn. They're chaotic and scared."
He continued, "I left the Army in December, 1969. I returned to Moscow by train. It was nighttime. We arrived at Belorussky Rail Terminal and walked along Tverskaya Street in the direction of the Kremlin. We were drunk and boisterous. We saw an old man, a veteran, an officer from the Second World War. Why do you shout?' he said to us. One of the fellows with me said to him, 'Get lost, old man. I was liberating Prague.' The old man replied, 'Shut up, you idiot. You don't know what you're talking about.' And that was the most honest appraisal of the Prague invasion that I ever heard."
-Mark Singer

Note: Ðọc bài này thì lại phải đọc bài thơ của TTT, mới đủ bộ!

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim, em một trái tim
Chúng kéo đầy đường, xe tăng, đại bác...

Khúc cuối bài viết, đọc, GCC lại nhớ đến bạn văn VC Bảo Ninh, và cái xen nhân vật của anh bị 1 đấng ăn mày Hà Nội xin đểu:
-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?

GCC trả lời thay tay cái bang Hà Lội:
-Không! Ðảng chỉ dạy cách ăn cướp!

Hà, hà!

Bài thơ của TTT, là về cuộc nổi dậy Hung. Như vậy, có lẽ nên đọc Kundera viết về Mùa Xuân Prague, so sánh nó với Mai 68, và bắt chớn, đọc bài viết của nhà thơ Adonis, người Syrie, về Cách Mạng Ả Rập, trên tờ Books, Oct 2011: Làm đếch gì có! Một vài cái đầu rớt xuống, cơ cấu quyền lực còn nguyên, sao gọi là cách mạng được. Chỉ là thay đổi bề mặt. [Nous n’avons assisté qu’à des changements de façade, dit-il. Si des têtes sont tombés, les structures du pouvoir restent intactes]. Tay thi sĩ này, cũng bắt chước NN, gửi thư ngỏ cho Tổng Thống Bachar el-Assad.

Ðược hỏi, có khi nào Trùm VC đọc thư thi sĩ, và nghe theo lời khuyên?
-Liệu có b
ất cứ thằng cầm quyền nào, VC hay không VC, mà nghe 1 tên thi sĩ?

Bởi thế GCC mới gọi trò gửi thư, phản đối là trò hề.

*
Nhà thơ Syrie, Adonis, chụp tại tư gia ở Paris, 2004


Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em nhà Skvorecky

1

Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris dưỡng thương vài ngày. Josef và Zdena Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh niên trở lại với tôi, và 1 giọng điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các người, thực sự muốn gì? Bộ tụi mi quá chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”
Cũng trong những ngày đó, chúng tôi lèm bèm đã đời với một nhóm bạn Tẩy, và họ, mắt sáng ngời khi nói đến nổi dậy, vùng lên, đến hai mùa Xuân, một của Tây và một của Tchèque. Nghe thì sướng thật, nhưng có sự khác biệt.
Cú vùng lên Mai 1968, bất ngờ, không ai đợi chờ, trong khi Mùa Xuân Prague, là một thành tựu của một chặng đường dài, cắm rễ trong  Khủng Bố Stalin vào những năm đầu sau 1948.
Mai 1968, khởi động do những người trẻ tuổi, mang dấu ấn của một thứ cách mạng trữ tình, đẹp như thơ [như mơ thì cũng được, lyrisme révolutionaire]. Mùa Xuân Prague, hứng khởi của nó, là từ chủ nghĩa bi quan hậu cách mạng của đám người lớn.
Mai 1968 phản đối lại - bằng 1 cuộc nổi dậy do ham vui mà ra - văn hóa Âu Châu, mà đám trẻ này coi là bực bội, công chức, cứng ngắc. Mùa Xuân Prague, phản đối, cùng thứ văn hóa đó, nhưng trong bao năm bị nghẹt thở dưới sự ngu dốt đần độn ý thức hệ, và nhằm bảo vệ tính Ky Tô nhiều hơn là vô tín ngưỡng phóng đãng, l’incroyance libertine, của nghệ thuật hiện đại (tôi nói hiện đại, không phải hậu hiện đại).
Mai 1960 dán cho nó tấm biển, chủ nghĩa quốc tế.
Mùa Xuân Prague muốn, lại đem đến cho 1 quốc gia nhỏ bé nguồn gốc và sự độc lập của nó. 

2 

Cái sự khởi đầu của Mùa Xuân Prague được ghi dấu ở trong tôi bằng cuốn tiểu thuyết đầu tay của Sk., Những kẻ hèn nhát, xb năm 1956, và được đón nhận bằng những đợt pháo bông lớn lao của lòng thù hằn của những VC cầm quyền Tchèque, [VC thì ở đâu cũng mắm xốt, Bắc Kít, Chếch Kít, Mao Ít….]. Cuốn tiểu thuyết đánh dấu bước đi đầu tiên của văn chương thì nói về bước đi đầu tiên của lịch sử: một tuần lễ của Tháng Năm 1945, trong thời gian đó, sau 6 năm bị Đức đô hộ, nở ra cái gọi là Cộng Hòa tchécoslavique.
Nhưng, tại sao thù hằn như thế?
Cuốn tiểu thuyết cực chống VC?
Không phải. Tuyệt không, cực không.

Sk kể câu chuyện 1 chàng thanh niên 20 tuổi, yêu đến phát khùng nhạc jazz (cũng như Sk), và phát khùng lên vì thành quả cách mạng, về một vài ngày chấm dứt cuộc chiến, quân đội Đức quỳ gối, lực lượng kháng chiến tchèque vụng về xoay sở, nhận ra họ, và, sau cùng là sự xuất hiện của quân đội Nga.
Chẳng có tí chống cộng điên cuồng ở đây, nhưng thay vì vậy, thì là một không khí, một thái độ không chính trị: nhẹ như mây, thoáng như khí trời, “không-ý thức hệ một cách cực kỳ vô lễ” [impoliment non-idéologique]!

Kundera: Une Rencontre

 Không ý thức hệ cực kỳ vô lễ: Tuyệt!
Chắc cũng giống như ị một bãi cực bự, ở nơi ta đã từng ở, rồi.. về.
Về đâu?
Hà Nội chứ còn đâu nữa! 

Và rồi thì là chỗ nào cũng tưng tửng, têu tếu, một thứ khôi hài không đúng lúc. Điều này làm tôi [Kundera] nghĩ, tất cả những nơi khác trên thế giới, người ta không cười như thế. Làm sao mà chê được cảm quan về cái cười, ý nghĩa của sự khôi hài ở Bertolt Brecht? Nhưng sự chuyển thành kịch tác phẩm “Anh bộ đội can đảm Chveik” [Brave Soldat Chveik] cho thấy, ông chẳng hiểu tí chó nào về chất tếu của Hasek. Tính tếu của Sk (như của Hasek hay của Hrabal), là thứ tưng tửng bất cần đời [giống của GNV?] của những kẻ ở cách xa quyền lực hàng ngàn cây số, và giả như có vời họ tới để mà dâng hiến quyền lực thì họ cũng đếch thèm, và còn điều này, họ coi lịch sử là 1 con mụ phù thuỷ già, mù, và những lời phán đạo đức của nó làm họ bật cười, thí dụ,"lước Việt Lam nà một"! Và tôi nhận thấy 1 điều thật ý nghĩa, đúng là cái tinh thần không nghiêm trọng, chống lại đạo đức, chống lại ý thức hệ, chính nó đã bắt đầu vào lúc rạng đông của những năm 1960, một thập niên lớn của văn hóa tchèque (vả chăng, có thể nói, đó là lần cuối cùng, nó được coi là ‘lớn’) 

3 

Ui chao, thập niên 1960 mới đẹp, mới đáng yêu làm sao [Câu này thì Kundera nói giùm GNV]. Tôi có thể nói, có tí đểu giả trong đó: một chế độ chính trị, thứ lý tưởng, là 1 chế độ độc tài đang rã ra, c’est une dictature en décomposition, cái bộ máy kìm kẹp của nó, tuy ngày càng rệu rạo, nhưng vẫn còn có đó để mà tạo những cú hích cái tinh thần phê phán và nhạo báng của nhân dân! Vào mùa hè 1967, bị quê bởi đại hội táo bạo của Hội Nhà Văn, và có thể nghĩ, sự trâng tráo đã đi quá xa, Bắc Bộ Phủ bèn ra lệnh bóp chặt chim và cu và bướm của chúng lại, đi 1 đường chính trị cứng rắn, durcir leur politique. Nhưng tinh thần phê phán đã nhiễm tới cả Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng, và vào Tháng Giêng, họ đưa ra 1 ông VC vô danh ra làm Chủ Tịt: Alexander Dubcek. Mùa Xuân Praque bắt đầu: Thú vị nhất, xứ sở bèn từ chối cách sống được Cẩm Linh đặt để: Những biên cương, cửa ải, hải quan.. đều mở toang, và những cơ quan tổ chức xã hội (nghiệp đoàn, hội đoàn, tổ chức, cơ sở), vốn được thành lập để thông báo, và tuân theo đường lối của nhà nước, trở thành độc lập, biến thành những dụng cụ, cơ cấu không chờ đợi của một thứ dân chủ không ngờ. Một hệ thống ra đời (chẳng hề có 1 phương án dự trù có trước, sans aucun projet préalable), và có lẽ phải nói, trước đây chưa hề có: một nền kinh tế nhà nước hoá, nationalisée, 100%, một nền nông nghiệp ở trong tay tiểu điền chủ, không phải những người quá giầu, cũng không quá nghèo, trường học, và y tế, free, khỏi phải trả tiền, và còn điều này: chấm dứt quyền lực thuộc về cớm, chìm cũng như không chìm, chấm dứt đàn áp, bách hại chính trị, tự do, tha hồ viết, bãi bỏ kiểm duyệt, khởi đi như thế, làm sao mà không có trăm hoa nở rộ: văn chương, nghệ thuật, tư tưởng, tạp chí. Tôi không biết những viễn ảnh trong tương lai của 1 hệ thống như thế; trong một vùng địa lý-chính trị như ở đó, làm gì có, nhưng ở một khu vực địa lý chính trị khác?, ai mà biết được, nhưng trong bất cứ trường hợp, chỉ nội nghĩ đến nó, vào cái giây phút đầu tiên 1 hệ thống như thế hiện hữu, cái giây phút đó mới tuyệt vời làm sao.

Trong Phép Lạ ở [Miracle en] Bôhême, (hoàn tất năm 1970), Sk kể về cả một thời kỳ này, từ 1948 đến 1968. Điều ngạc nhiên, là ông đưa ra 1 cái nhìn bi quan không chỉ về tính ngu si nhảm nhí, la bêtise, của quyền lực, mà còn về những kẻ nghi kỵ, tranh cãi, sự múa may bông phèng nhố nhăng của họ, leur gesticulation vaniteuse, trên sàn diễn Mùa Xuân Prague. Chính vì điều này mà ở Tchécoslavique, sau thảm họa xâm lăng của Nga xô, cuốn sách không chỉ bị cấm, như tất cả những tác phẩm của Sk, nhưng mà còn chẳng được yêu thích ở cả những kẻ chống đối, đám này bị nhiễm trùng, virus, của chủ nghĩa đạo đức, không làm sao chịu nổi sự tự do phóng đãng, l’inopportune liberté, của cái nhìn, tự do phóng đãng của cái cười, tiếu lâm, hài hước, [l’ironie].

4

Khi, vào tháng Chín 1968, ở Paris, đám Sk và tôi đã bàn cãi, tranh luận với những người bạn Pháp, về hai mùa Xuân của chúng tôi, chúng tôi không thoát khỏi những lo lắng: Tôi, về cái ngày trở lại Prague, còn họ, chuyện di trú khó khăn tới Toronto. Đam mê văn chương Mỹ và nhạc Jazz của Josef đã khiến anh chọn lựa thành phố này. (Như thể, ngay từ khi còn trẻ măng, mỗi một trong chúng ta đã chọn lựa cho mình một nơi chốn lưu vong, tôi, thì là xứ Tẩy, họ, Bắc Mỹ). Nhưng, dù là những tha phương tứ xứ, cosmopolites, anh em nhà Sk là những kẻ "yêu nước". Nhưng, tôi biết, bây giờ, dưới những cuộc khiêu vũ được dẫn dắt bởi những kẻ đồng phục, uniformisateurs, thay vì yêu nước [patriote], thì phải nói, (1 cách khinh bỉ, avec dédain), những kẻ quốc gia (nationaliste). Nhưng xin lỗi các bạn, vào cái thời thê luơng này, en ces temps sinistres, làm sao mà có thể nói, "không" yêu nước? Anh em nhà Sk có 1 căn nhà nhỏ ở Toronto, và họ dành 1 phòng lo in ấn, xb những nhà văn tchèques, [y chang nhà văn THT của chúng ta, nhưng ông THT này chỉ in ấn những nhà văn phe của ông mà thôi!], bị cấm tại xứ sở của họ.

Chẳng có gì quan trọng hơn 1 việc làm như thế. Quốc gia tchèque không sinh ra (nhiều lần sinh ra), nhờ những chiến thắng quân sự, mà luôn luôn là nhờ văn học. Và tôi không nói văn học, như là một võ khí chính trị. Tôi nói văn học như là văn học. Vả chăng, chẳng thể có 1 thế lực chính trị, hay một cơ sở, tổ chức chính trị nào lật đổ một nhà xb theo cái kiểu của… THT, ấy xin lỗi, của anh em nhà Sk! Họ là những nhà xb chỉ trông cậy vào sức lực, hoàn cảnh, điều kiện của riêng họ. Và tất nhiên, sự hy sinh, cũng của riêng họ. Tôi chẳng hề quên điều này. Tôi không hề quên họ. Tôi ở Paris, và trái tim quê nhà của tôi, le cœur de mon pays natal, đối với tôi, thì ở Toronto [Kundera lại nói giùm GNV!].

Sự xâm lăng và đô hộ của Nga xô chấm dứt, chẳng có lý do gì để in ấn, xb ở nước ngoài những tác phẩm tchèque. Kể từ đó, Zdena và Josef thỉnh thoảng về thăm Prague, nhưng luôn luôn trở về sống ở trong tổ quốc của họ [là cái xó Toronto. NQT]. Trong tổ quốc của xứ sở lưu vong cũ của họ. Dans la patrie de leur vieil exil.

Source