*
Nhật Ký









*
[Độc giả Tin Văn tặng]
*
12.12.07

Má lỡ lấy tiền của thằng cha chệt đó rồi!
Thời gian ông viết cho điện ảnh đã cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài Mỹ châu La tinh phải đem biển cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu của Trưởng Lão (L'Automne du Patriarche).
Tình yêu và những quỷ dữ khác


Bọ chữ


The people in Sebald's books are for the most part what used to be called melancholies. The tone of their lives is defined by a hard-to-articulate sense that they do not belong in the world, that perhaps human beings in general do not belong here. They are humble enough not to claim they are preternaturally sensitive to the currents of history - in fact they tend to believe there is something wrong with them - but the tenor of Sebald's enterprise is to suggest that his people are prophetic, even though the fate of the prophet in the modern world is to be obscure and unheard.

Những con người trong những cuốn sách của Sebald phần lớn là những gì thường được gọi là buồn bã. Âm điệu "tủi thân" ở trong những cuộc sống của họ thì được định nghĩa, bằng một cảm quan thật khó diễn đạt, rằng, họ không thuộc vào thế gian, rằng, có lẽ, những con người này không thuộc vào nơi chốn này. Họ khiêm tốn đủ, để không "vỗ ngực xưng tên", rằng họ có một năng lực siêu phàm trong cảm nhận những dòng lịch sử - thực sự, họ thiên về cái sự tin tưởng, rằng, có cái gì trật trìa, loạng quạng với họ - nhưng cả một cái công trình đồ sộ của Sebald bèn cất cao giọng mà phán rằng, những con người của ông thì đều mang tính tiên tri, mặc dù số phận của tiên tri trong thế giới hiện đại xem ra u ám, và chẳng được biết tới.

What is the basis of their melancholy? Again and again Sebald suggests they are labouring under the burden of Europe's recent history, a history in which the Holocaust looms large. Internally they are racked by conflict between a self-protective urge to block off a painful past and a blind groping for something, they know not what, that has been lost.

Nhưng nền tảng của nỗi buồn của họ là do đâu, là cái gì? Lại nữa, lại nữa, Sebald đề xuất rằng, họ hì hà hì hục dưới gánh nặng của lịch sự mới rồi của Âu Châu, một lịch sử rợp bóng Lò Thiêu. Quằn quại ở bên trong họ, là cuộc giằng co, làm sao cố bảo vệ cái thân mình, bằng cách đóng chặt cánh cửa dĩ vãng, khoá chặt nỗi đau quá khứ, và, mù lòa tìm kiếm một cái gì đó, không biết cái gì, đã mất rồi!
*

Ui chao, chôm những dòng trên đây, Coetzee viết về Sebald và nỗi buồn của ông, để gán cho Miền Nam, và văn NNT, mà chẳng thú sao!
Chôm thế mới đáng chôm chứ!
... Những con ngườI của NNT cứ làm như thể là có điều gì trật trìa ở nơi họ, nhưng bằng một cái giọng tenor, Sebald bèn phán rằng: những con người này đều mang trong họ chất đạo gia, tiên tri, mặc dù số phận của một ông Đạo Dừa tiên tri ở trong thế giới hiện đại này xem ra có vẻ u ám, và chẳng ai nghe nói tới.
*
Je suis un homme qui s'éveille, guéri d'une longue, amère, douce folie.
Jean-Paul Sartre
Tôi là một người, thức giấc, ra khỏi cơn điên dài, cay chua, và dịu dàng.
Khi Sartre mang bản thảo đến nhà xb Gallimard, ông đề nghị cái tít cho cuốn sách của mình: Buồn.
Nhưng khi ra lò, thành: Buồn Nôn.
Cuộc chiến đấu, và, thành công của cuốn sách không làm mất đi nỗi buồn Sartre, là cái nền của nó, le fond mélancolique sartrien, như 25 năm sau, cuốn Les Mots, Những chữ, chỉ ra điều này.
Ở cuối cuốn Les Mots, ông thú nhận, ông trở thành Roquentin.


Faulkner: Nhà văn tuyệt đối
Đúng là thầy nào trò đó!


Chuyện chớp
Couriers
They were offered the choice between becoming kings or the couriers of kings. The way children would, they all wanted to be couriers. Therefore there are only couriers who hurry about the world, shouting to each other—since there are no kings—messages that have become meaningless. They would like to put an end to this miserable life of theirs but they dare not because of their oaths of service.
Franz Kafka
Những người đưa thư
'Nhân loại' được chọn lựa, hoặc làm vua hoặc làm người đưa thư cho vua. Vốn [ngây thơ] như con nít, họ bèn chọn làm người đưa thư. Kể từ đó, đâu đâu cũng thấy rặt những người đưa thư hối hả, vội vã, gấu ó lẫn nhau - kể từ khi không còn vua - về những thông điệp đã trở thành không có nghĩa. Họ muốn chấm dứt cái cuộc đời khốn nạn của họ, nhưng làm sao dám, bởi vì đã lỡ mở miệng thề bồi, rằng, đây là cái nghiệp của lũ chúng tôi, rồi.
Jennifer Tran


Champion of ambiguity

  • Guardian, Monday March 20 2006
  • Terry Eagleton
Samuel Beckett was an artist with so jaundiced a vision of human existence that he managed to be born not only on Friday the 13th, but on one that coincided with Good Friday. Later, he would allude to the day of Christ's death in an immortal quip in Waiting for Godot: "One of the [Calvary] thieves was saved. It's a reasonable percentage." This year's calendar to celebrate...
*
Gấu lại nhớ đến cái vụ lùi ngày tới Thái Lan, để không trùng với ngày sinh của Bác!
Biết đâu, do Beckett xui khiến. Bởi vì chính ông cũng chọn ngày ra đời cho mình: Không chỉ là Thứ Sáu 13, mà phải trùng với Good Friday!
*
Một thằng Gấu được cứu thoát, vậy cũng đủ rồi!
Có lẽ Nguyễn Quốc Trụ không để xảy ra cái cảnh như người Việt thuở ấy, không, chắc ông cứu được ‘địa linh nhân kiệt’. Hẳn là thế.
Đáp lời NQT
*

Gide được Nobel, cho kịp, trước khi chết. Còn Camus?
Phản ứng đầu tiên của ông: Malraux chứ, sao lại tôi?
Liệu mấy ông Hàn, cũng cảm thấy, cho nó mau lên, không nó bị sao quả tạ giáng xuống bi giờ?

« Lorsque Camus reçoit, en 1957, à l’âge de 44 ans, le prix Nobel, sa première réaction publique sera pour proclamer: "C’est Malraux qui aurait dû l’avoir." »
« Les jurés du prix Nobel ont-ils eu la prescience que leur jeune lauréat mourrait trois ans après ? »
« Il avait 44 ans, le plus jeune lauréat après Kipling, lorsqu’un accident de voiture sur une route déserte, droite et sèche ne mit un terme à une vie lumineuse et mutila ainsi un destin. »
Y aurait pas comme un problème dans cette dernière phrase — pas seulement grammatical ou stylistique s'entend ?
*
Ui chao sắp đi rồi, lèm bèm vài hàng, trong khi chờ Godot.