*
Nhật Ký









Richie @ Canada Day, July 1st 2007

Mấy ngày qua, Tin Văn gặp sự cố, không thể update. Cẩn bạch.

Đối sầu miên
Giây phút nhiệm mầu, theo Gấu, cú sét đánh,và trong những cú sét đánh như thế, có cú, trò gặp thầy!
Một trong ba búa mà ông anh truyền lại cho Gấu, búa thứ nhất, viết văn là phải có thầy, búa thứ nhì, đọc thật nhiều, thế nào cũng có ngày gặp Thầy, búa thứ bam liên quan tới BHĐ.
Gấu gặp Faulkner và Woolf, hoàn toàn là theo kiểu trên, gặp bất ngờ. Trước đó, chưa hề biết.
Nhờ làm cho Mẽo, có đô la, tha hồ mua sách, tha hồ đọc. Và nhờ chương trình IC, Information & Culture, Thông tin & Văn Hoá, của Trung Tâm Văn Hoá Pháp, bán sách Tây đúng giá gốc. Tuy cùng giá, nhưng một phật lăng khó kiếm hơn 1 đồng tiền Việt, thành thử có nhiều gia đình mua sách báo Tây ở Sài Gòn, gửi cho con cái học ở Pháp, theo kiểu chở củi về rừng.
Cuộc gặp gỡ của Gấu với Woolf, cũng tình cờ, cũng "nhiệm mầu", nhưng chưa ghê gớm như của Garcia Marquez. Ông đọc, chỉ một câu, của Woolf, cũng trong Mrs Dalloway, mà nhìn ra, trọn cả tiến trình phân huỷ của Macondo, và định mệnh sau cùng của nó ["I saw in a flash the whole process of decomposition of Macondo and its final destiny"].
Câu văn, sau ông viết lại theo trí nhớ, và thêm vô phần của ông, nhưng độc giả tinh ý, vẫn nhận ra hơi hướng của Woolf.  (Dẫn theo Michael Wood: Garcia Marquez: A Postmodernist Romance, trong Những đứa trẻ của sự im lặng::Về giả tưởng đương đại. [Nhà xb Columbia University Press,1998]

Khi Adorno nói, sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man, ông muốn nói, theo như tôi hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái gọi là thơ đó.
Elfriede Jelinek
Nhật Ký

*
Trân trọng giới thiệu
HÒA ÂM ÂM ÂM ÂM
Thi tập thứ ba
 Nguyễn Lương Vỵ
Thư Ấn Quán xuất bản, tháng 7.2007
302 trang
Liên lạc email
Hay gửi $US. 25 (bằng check ghi tên Vy Nguyen) tới:
VY NGUYEN
12621 Wynant Dr.
 Garden Grove – CA 92841 USA

Những vòng đồng ký ức

Phê
Mượn ngay cả nỗi đau khổ của người nông dân để mà khoe khoang cục kít (1) của mình, thì hết thuốc chữa rồi!
(1): Kít: Phát âm tiếng Việt, của từ kitsch, của Kundera, trong Bức Màn. Theo ông, từ này sinh ra tại Munich vào giữa thế kỷ 19, để chỉ cái cặn bã não nuột của thế kỷ lãng mạn lớn, le déchet sirupeux du grand siècle romantique. Nhưng Kundera cho rằng, Hermann Broch mới là người đưa ra định nghĩa đúng nhất về từ này: cái xấu mỹ học tối thượng, le mal esthétique suprême.
Tiếng Việt, để dịch từ kitsche, có lẽ phải dùng một hình ảnh thật là sống động: chưa chi đã vãi linh hồn ra!
*
Cứ như Edmund Wilson viết, trong Tới ga Phần Lan, chương Marx: Thi sĩ của những tiện dụng, Poet of commodities, thì, Marx đã tiên tri ra được thứ văn chương kiểu thư 9 nút của ông nhà văn nọ!
Wilson viết, Marx là nhà văn châm biếm thuộc loại tổ sư, one of the greatest masters of satire. Và, khởi từ "modest proposal"  [đề nghị khiêm tốn], của một đại biếm gia khác, Swift - ông này đề xuất, để chữa hết sự khốn khổ, nghèo đói, của xứ Ireland, cách tốt nhất, là, cho những kẻ đang đói khổ đó, ăn thịt, chính những đứa trẻ thừa thãi của họ - Marx lý luận: Tội ác, đối với những tên tội phạm, thì cũng giống như tư tưởng đối với triết gia, thơ đối với thi sĩ...  và thực tập nó [sản xuất ra tội ác, tư tưởng, thơ ca, bài văn, trong có thư 9 nút...] thì thật hữu ích cho xã hội, bởi vì vừa giải quyết được nạn nhân mãn, vừa đem việc làm đến cho những công dân bảnh, có giá, thí dụ như ông nhà văn nọ!
*
Bữa trước Gấu này có phán... đại, mượn lời một ông bạn văn, cũng Bắc Kỳ di cư, cuộc chiến Việt Nam không phải cuộc nội chiến Nam Bắc, mà là giữa đủ thứ, đủ loại Yankees mũi tẹt với nhau. Nào là Yankee "di dân" từ đời thưở nào, có thể trước cả thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tới những hậu duệ mãi sau này. Đủ thứ, hầm bà làng, Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Ấn Quang, Việt Nam Quốc Tự, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Duy Dân, Đệ Tam, Đệ Tứ... toàn Yankee mũi tẹt!
Một độc giả thắc mắc, chém giết lẫn nhau như thế, vì lý do gì?
Gấu này ngớ người ra.
May sao, đọc Arthur Koestler, cuốn The Heel of Achilles, mới ngộ ra là, sở dĩ đánh giết lẫn nhau, là vì tranh giành nghĩa cả, great cause: Đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào, và sau đó, giải phóng [ăn cướp, từ đám cút đám nhào đó] Miền Nam.
Koestler còn đi xa hơn, khi chứng mình, đây là một trong những tính chất làm nên con người, từ thoạt kỳ thủy, chứ không như Solzhenitsyn tin tưởng, rằng chỉ có từ thế kỷ 20.

Hai Trầu & NNT
Gấu này sở dĩ cứ nấn ná không dám viết về Nguyễn Ngọc Tư, một phần là vậy.
Nếu viết, là phải làm sao tách văn của bà ra khỏi cái đám rác rưởi đó.
Bởi vì coi Nguyễn Ngọc Tư là 'đặc sản', rồi khen văn của bà, bằng cách choàng cho bà vòng hoa, ông VC nằm vùng VH đã từng choàng cho kỳ nữ KC, thì đúng là quá khốn nạn! NQT

Xâu con mắt luồn kim tìm chiêm bao

Trang NNT
Đọc NNT
Khi anh định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn chương, và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
Mộ Tuyết
*
Hai anh chàng Quentin, một sửa soạn vô Đại học, đang ngồi nghe một bà miệt vườn, kể chuyện Miền Nam Sâu Thẳm, đã chết từ 1865 [này, đừng loạng quạng viết thành 1975]....
The basic idea for the book remained constant: traumatic events from the last  century would be recovered, retold, and confronted in the early part of the 20th century by Quentin Compson.
Ý tưởng làm nền cho cuốn Absalom, Absalom! thì luôn luôn được giữ nguyên, không đổi: những sự kiện đau thương từ cuối thế kỷ vừa qua, được lưu giữ, cưu mang, kể lại, và đối đầu, ở đầu thế kỷ 20 bởi Quentin Compson.
Jay Parini: One Matchless Time: A Life of William Faulkner. [Thời Vô Song: Cuộc đời W. Faulkner]
Liệu, có thể đổi, đầu thế kỷ 20, thành đầu thế kỷ 21, là nhìn ra ý tưởng làm nền cho Cánh Đồng Bất Tận?
*
Nơi dòng sông chảy về phiá Nam.
Uncivil Wars.
Rivers of brown water, rundown mansions, black slaves, equestrian wars – lazy and cruel: the peculiar world of The Unvanquisted is consanguineous with the America and its history.
Jorges Luis Borges đọc The Unvanquited của W. Faulkner
Jay Parini trích dẫn, trong Thời Vô Song.
*

Absalom, Absalom!
*
Giáo đường
làm Faulkner nổi tiếng, famous, tai tiếng, infamous. Một đại tác phẩm về sự “thờ phụng sự độc địa, tàn ác” [the cult of cruelty], trong cõi văn Mẽo.
Đây là một câu chuyện lùa gái quê vô thế giới ngầm thành phố Memphis, Mississipi. Một câu chuyện u ám, làm phiền toái. Cô gái Temple Drake này còn mang theo, như của hồi môn, một cái gì của riêng cô, về sự mất nết, vô thế giới hư ruỗng đó.
Trong khi với nhiều độc giả, đây là một cú sốc đánh vào cảm tính, bây giờ, hầu như tất cả, cùng lúc, còn nhận ra, có một cái chi rất ư là chi ly, tinh tế, của Eliot, của Freud, ở trong đó. Ngoài ra, còn chất thần thoại, mầu sắc miệt vườn [đặc sản quê ta], và ngay cả thứ tiểu thuyết đen, cứng, giống như mầm đá, nấu hoài không chịu mềm, của Mẽo, cũng tìm thấy chúng ở trong đó.
Được xb năm 1831, Giáo đường của Faulkner có thể được coi như một nghiên cứu, tìm tòi, ác liệt nhất, về "bản chất của cái ác."
Và tất nhiên, đây là một tác phẩm quan trọng bậc nhất của ông.
[Lời giới thiệu ở bìa sau của Giáo đường, Vintage Books]
Bạn đọc Việt Nam có thể coi, đây là lời giới thiệu Cánh Đồng Bất Tận của NNT, cũng được!
Auden: Time that is intolerant
Thời gian sẽ tha thứ cho mi,
Vì mi viết bảnh quá!

Notes on Susan Sontag
("My greatest dream was to grow up and come to New York and write for Partisan Review and be read by 5,000 people.") Her trip to Hanoi in 1968. The mini-skirted babe in the frumpy Upper West Side crowd and her years as the only woman on the panel. The front-page news in 1982 when, after years of supporting various Marxist revolutions, she declared that communism was "fascism with a human face."
Giấc mộng lớn lao nhất của tôi là lớn lên, nhập vào thành phố New York, viết cho tờ Partisan Review và có năm ngàn người đọc mình.
Sau khi hăm hở cổ võ cho những cuộc cách mạng Mác xít, là cuộc vỡ mộng lớn lao nhất: Chủ nghĩa Cộng sản là "chủ nghĩa Phát xít với bộ mặt của con người."

Hôm nay nhân loại nói chung một tiếng nói
*
Có vụ án như thế, là kể như thua rồi. Kafka: Vụ Án
Nhật Ký

Gấu, nhà văn
Anh đọc, và phán, thằng cha này tội nghiệp thật, thằng cha này thảm quá, thằng cha này yếu xìu, khi nó được yêu, nó còn sợ hơn là không được yêu!
Chỉ sợ mất. Chỉ sợ hết.
Anh ta lôi một đoạn ra để chứng minh.
Quả thế thật.
Tone — sardonic, despair — authentic.
 Always en route, from Mexico to Venice,
 lover and crusader, who campaigned
 ceaselessly for his unlikely party
 (name: Poetry versus the Infinite,
 or PVI, if you prefer abbreviations).
Âm điệu - mỉa mai, chán chường - chân thực.
Anh một đời rong ruổi ,
[Em tay bế tay bồng]
từ Mexcio tới Venice,
người tình, kẻ không ngừng cổ võ cho đảng của mình
[tên là: Thơ Chống Vô Cùng
hay TCVC, nếu bạn thích viết tắt]
Đề tài: Brodsky
*
Hồi nhỏ, Gấu có một cái tật, đi coi phim, gặp phim coi rồi, cứ bô bô kể toáng lên, những gì sắp sửa xẩy ra, một lần bị một anh chàng ngồi hàng ghế sau, nhổm lên phía trước, tóm cổ Gấu, nhắc lên, nói thật nhỏ vô tai, mày mà còn nói ra trước, làm mất hứng của tao, là tao bợp cho mấy cái!
Anh chàng nói thật nhỏ, như không muốn cho ai biết, và đó mới là bài học tuyệt vời của anh ta, rằng, những gì sắp sửa xẩy ra trên màn ảnh, y chang như những gì tao đang nói nhỏ cho mày nghe đây.
Gấu, phải đến già mới ngộ ra được bài học nho nhỏ đó, sau bao lần tự hỏi, tại làm sao đang bực như thế, mà anh chàng lại nhỏ nhẻ nói vô tai Gấu, cái điều mà chỉ mình Gấu mới... cần nghe?
Còn một bài học nữa, là từ ông thầy Xuân, dậy Anh văn, hồi học lớp Đệ Lục trường Nguyễn Trãi, Hà Nội.
Ông đi coi phim. Bữa sau, vô lớp, kể, thầy mới học được một bài học, ở nhà cầu [WC] rạp Majestic. Thầy thấy họ viết một cái bảng: Cấm trẻ con đái bậy!
Ui chao, cái anh chàng nào viết mấy dòng đó mới tuyệt vời làm sao. Cấm trẻ con đái bậy. Người lớn khỏi cấm.
Vì người lớn, làm sao đái bậy được?
Cả hai kỷ niệm trên, sau trở thành kinh nghiệm viết văn của Gấu.
*

Về ông bạn cùng lớp này, tôi có một kỷ niệm thật dễ thương. Số là, ông giáo dậy Anh văn Nguyễn Trãi lúc đó tên là Xuân, dậy đám Đệ Lục chúng tôi, rất vui tính, và cũng rất nghiêm. Một bữa tới lớp, thấy trên bảng nguệch ngoạc vài nét chân dung, với cái tên ở dưới: Mr. Spring, thầy giận dữ truy cho ra thủ phạm. Tính bắt phạt, anh học trò láu lỉnh cãi: Thưa thầy, Spring đâu phải tên thầy! Ông bật cười gật gù, đúng rồi, tên thầy là Xuân, đâu phải Spring. Kỷ niệm dễ thương kia, liên quan đến người bạn cùng lớp. Bữa đó, thầy Xuân gọi anh lên trả bài, hóa ra anh chẳng hiểu tại sao Spring không phải tên thầy, đại khái như vậy. Thầy Xuân bữa đó, thay bài giảng Anh văn sống động, L'anglais vivant, bằng bài học về sự quan trọng của ngoại ngữ (biết thêm một ngoại ngữ là một người biến thành hai người). Giờ Anh văn sau, ông xin lỗi người học trò: Lần trước, tôi có lớn tiếng về anh bạn, thực không đúng, vì sau đó, khi ra về, tôi được anh tặng một tập thơ, anh là tác giả. Thầy nói tiếp, không có vẻ chi chế diễu, theo đó, khi người ta có thiên tài về ngôn ngữ mẹ đẻ, ngoại ngữ có khi không còn cần thiết. Thầy Xuân tiên đoán dúng, về người học trò của mình, sau là một thi sĩ nổi tiếng. Tiếng Anh bây giờ nhà thơ chắc đã rành rẽ. Học ngoại ngữ lúc nào mà chẳng được. Nhưng thơ, đâu bạ ai, bạ lúc nào cũng học được?
Một chuyến đi