*

TẠP GHI



Absalom, Absalom!

… and he would seem to listen to two separate Quentins now - the Quen­tin Compson preparing for Harvard in the South, the deep South dead since 1865 and peopled with garrulous outraged baffled ghosts, listening, having to listen, to one of the ghosts which had refused to lie still even longer than most had, telling him about old ghost-times; and the Quentin Compson who was still too young to deserve yet to be a ghost but nevertheless having to be one for all that, since he was born and bred in the deep South the same as she was - the two separate Quentins now talking to one another in the long silence of notpeople in notlanguage…
"Because you are going away to attend the college at Harvard they tell me," she said.  "So I dont imagine you will ever come back here and settle down as a country lawyer  in a little town like Jefferson since Northern people have already seen to it that there is little left in the South for a young man. So maybe you will enter the literary profession as so many Southern gentlemen and gentlewomen too are doing now and maybe some day you will remember this and write about it. You will be married then I expect and perhaps your wife will want a new gown or a new chair for the house and you can write this and submit it to the magazines. Perhaps you will even remember kindly then the old woman who made you spend a whole afternoon sitting indoors and listening while she talked about people and events you were fortunate enough to escape yourself when you wanted to be out among young friends of your own age."
"Yessum," Quentin said. Only she dont mean that  he thought. It's because she wants it told.
William Faulkner: Absalom, Absalom!
Đoạn thứ nhất, trích Absalom, Absalom!, là do đọc mấy bài viết, về một thứ ngôn ngữ, tiếng Việt của Miền Nam trước 1975, in the long silence of notpeople in notlanguage…, đã đi mò tôm theo ông Diệm, sau thống nhất đất nước, đốt sách chôn học trò, chỉ còn một thứ chữ của Tân Tần Thuỷ Hoàng! 

Và nhân đọc những bài viết của một số tác giả Miền Nam, như Đỗ Long Vân, Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, và nhất là, bài Một Bông Hồng của Nguyên Sa.
Cụm từ có tên Viên Linh, nhắm nhắc tới bài viết Thằng Lùn Nhà Thơ Đức Bà, của VL đập tay VC nằm vùng Vũ Hạnh, nhưng thực sự là để đánh tên lùn Gấu!
Về chuyện đánh hai nhà thơ nổi tiếng Miền Nam thời đó, Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng, như là một cách để đưa mình lên, theo thiển ý, là nhắm xỏ xiên một nhà thơ mà Nguyên Sa không ưa, và đã từng gọi là Đông Phương Bất Bại, cũng như Gấu được ông ban cho nick là Tên Sa Đích văn nghệ.
Nguyên Sa cũng đã từng phạng Phạm Công Thiện, không thuộc giới khoa bảng. PCT, ngay khi đó, có lên tiếng trả lời. Như Gấu còn nhớ được, PCT, có than giùm NS, [tại sao thi sĩ trong một thời khốn khổ như thế này, và,] tại sao thi sĩ lại vướng vào chốn tục lụy như thế?
NS cũng là người khui ra vụ tờ Sáng Tạo nhận tiền của Mẽo, theo như Gấu còn nhớ.
 Một lần, ngồi cà phê Factory, ở Sài Gòn Nhỏ, có NMT, cũng thi sĩ, phê bình gia, ông trách Gấu này, NS đã mất, tại sao còn đem ba cái chuyện lẩm cẩm ra nói?
Chi tiết lẩm cẩm mà ông muốn nói tới, là kỷ niệm một lần Gấu ngồi cà phê Quán Chùa với ông anh nhà thơ, sau khi vụ đụng độ giữa ông và NS - mà nguyên nhân có thể là do Gấu gây ra một phần, khi đọc tập truyện ngắn Mây Bay Đi của NS - đã chìm vào quên lãng. Ông anh nhà thơ mơ màng nhớ lại ngày mới quen NS, khi ông vừa từ Tây về, và gia nhập nhóm Sáng Tạo. Ông nhắc tới hình ảnh một NS trẻ trung, nhanh nhẹn, đạp xe đạp, với cái nón sau trở thành “thương hiệu” của NS, tới thăm ông, tại căn nhà ở Xóm Gà.
Như thế, nhà thơ đâu có thù hằn gì NS.
Gấu có nghe nói, tuy không được đọc, trong hồi ký, Nguyên Sa có vẻ như ân hận về những sự đụng độ trên. Thành thử cái vụ cho đăng lại bài viết Một Bông Hồng, có được sự đồng ý của người đã khuất hay không.

 *

Đoạn thứ hai, trích Absalom, Absalom!, là để cho thấy, Gấu này đã từng tập viết văn, bằng cách đọc, và thuổng, văn Faulkner.

 Khi anh định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn chương, và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
Mộ Tuyết
*
Hai anh chàng Quentin, một sửa soạn vô Đại học, đang ngồi nghe một bà miệt vườn, kể chuyện về một Miền Nam Sâu Thẳm, đã chết từ 1865 [này, đừng loạng quạng viết thành 1975].
*
The basic idea for the book remained constant: traumatic events from the last  century would be recovered, retold, and confronted in the early part of the 20th century by Quentin Compson.

Ý tưởng làm nền cho cuốn Absalom, Absalom thì luôn luôn được giữ nguyên, không đổi: những sự kiện đau thương từ cuối thế kỷ  vừa qua, được lưu giữ, cưu mang, kể lại, và đối đầu, ở đầu thế kỷ 20 bởi Quentin Compson
Jay Parini: One Matchless Time: A Life of William Faulkner.
[Thời Vô Song: Cuộc đời W. Faulkner]
*
Nơi dòng sông chảy về phiá Nam.
Uncivil Wars.
Rivers of brown water, rundown mansions, black slaves, equestrian wars – lazy and cruel: the peculiar world of The Unvanquisted is consanguineous with the America and its history.
Jorges Luis Borges đọc The Unvanquited của W. Faulkner
Jay Parini trích dẫn, trong Thời Vô Song.
*

“Như” Brodsky, tiếng Anh của Gấu là tự học. Và ‘như’ bất cứ một người viết, những bài viết, kiểu viết như tạp ghi, tiểu luận, điểm sách, phê bình.. đều tự học. Khi viết chúng, Gấu chẳng có một bài mẫu nào ở trong đầu.
Nếu có, thì thường là một… ‘viễn ảnh’. Nhìn thấp thoáng đâu đó, bài viết sẽ chấm dứt như thế nào, nghĩa là: nó, chắc chắn sẽ mở ra một bài viết khác. Khi nào Gấu cũng, chỉ, có thể kết thúc một bài viết từ một viễn ảnh đó.
Thành thử, chưa từng có người nào khen Gấu tuyệt như là ‘bà chủ quán’, tại một ‘chợ cá’: Anh chỉ cho tôi thấy, một bài viết nào của anh, mà anh cho là… hoàn tất?
Mấy anh chê Gấu, viết chẳng giống ai, đều đếch biết viết văn, làm thơ. Thực sự là vậy. Có ông chê Gấu, anh không biết chấm câu! Cái dấu phẩy anh dùng kỳ quá !
Có một nhà văn thành thực nói, lần đầu đọc bài ông viết về VP, nhà văn Bình Định, cứ nghĩ, thằng cha này đang viết một bài, lộn qua một bài khác. Nhưng đọc kỹ, mới nhận ra cái bố cục ‘xen lẫn’ của nó.
Thật sự, đây cũng là từ Faulkner. Gấu nhớ, lần khoe với ông anh, Gấu khám phá ông thầy của mình, và cuốn sách gối đầu giường của Gấu, cuốn Absalom, Absalom!, ông gật gù, tao khoái cuốn Les Palmiers Sauvages, Những Cây Sồi Dại, hơn. Cuốn này quái dị lạ, là hai cuốn, chẳng mắc mớ gì với nhau, vậy mà viết song song, in chung trong một cuốn.
Tất cả những bài viết của Gấu là mong được như thế, nó luôn luôn có phần âm bản của nó, hoặc chưa viết, hoặc viết song song, hoặc chẳng bao giờ viết, nhưng vẫn có nó đâu đó, như là một ‘viễn ảnh’.
Về cái sự tự học của Brodsky, Coetzee, thật thú vị, khi nhận xét những bài tiểu luận của nhà thơ Nga.
Liệu mấy ông phê bình gia có bằng cấp học được gì ở Brodsky?
Tôi [Coetzee] sợ không.
Để thao tác [operate] ở mức độ như ông, người ta phải sống kề cận vói những nhà thơ lớn lao của quá khứ, và có lẽ, còn được Nữ Thần Thi Ca thăm viếng nữa.
Liệu Brodsky học được gì ở họ?
Chắc có đấy. Đừng có viết tùm lum tà la như… thằng cha Gấu (1).
(1): Nguyên văn: not to publish your lecture notes verbatim, unrevised, and uncondensed, quips and asides included. The lectures on Frost, Hardy, and Rilke could with advantage be cut by ten pages each.
[Đừng cho in ba cái notes chưa được coi lại. Những bài về Frost, Hardy và Rilke hay hơn nhiều nếu thiến đi mỗi bài chừng 10 trang].