*





BÀI THƠ THÁNG 12
Trần Mộng Tú 

Tôi ở đâu mà tôi tới đây
Ngày xưa ai đứng ở nơi này
Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay 

Tôi ra đời đã được bao lâu
Sao trái tim tôi nếp gấp nhầu
Mặt đất tôi đi bao ngàn dặm
Sao vẫn chông chênh những bước đầu

 Tôi kết tinh từ mảnh vân hà
Từ báo cọp xưa hay đóa hoa
Bụi phấn tôi mang trên thân thể
Từ tảng đá nào đã vỡ ra

Tôi yêu người yêu thật là xa
Tình trong tiền kiếp tình không già
Giòng sông trăng chẩy vào trái đất
Chẩy lâu rồi hay mới đêm qua
tháng 12
Nguồn

Chờ Noel, chờ Tuyết bằng bài thơ trên, há chẳng sướng sao?
Khổ thơ đầu và chót thật là thần sầu.
Có vẻ như bài thơ chỉ cần vậy?
NQT

Aleksandr Solzenisyn
Đào Tuấn Ảnh chuyển ngữ
MỘT NGÀY CỦA IVAN DENISOVICH

Cái tít bản tiếng Anh có thêm "trong đời".
Không hiểu bản tiếng Việt của ĐTA có bị thiến hay không?
NQT
One Day in the Life of Ivan Denisovich (Russian: Один день Ивана Денисовича) is a novel by Aleksandr Solzhenitsyn, originally published in November 1962 in the Soviet literary magazine Novy Mir. It is set in a Soviet labor camp in the 1950s, and describes a single day for an ordinary prisoner, Ivan Denisovich Shukhov. Its appearance was an extraordinary event in Soviet literary history - never before had such an account of Stalinist repression been openly distributed. The editor, Alexander Tvardovsky, wrote a short introduction for the issue, titled "Instead of a Foreword", to prepare the journal's readers for what they were about to experience.
At least four English translations have been made. Of those, the 1963 Signet translation by Ralph Parker was the first to be released and remains the easiest to find, followed by the 1963 Bantam (Random House) translation by Ronald Hingley and Max Hayward. The 1970 translation by Gillon Aitken was released as a movie tie-in. The fourth translation, the only one authorized by Solzhenitsyn, was done in 1991 by H.T. Willetts, and is generally considered to be the best. Some names differ among the translations; those below are from the Bantam translation.
A 1970 movie based on the book starred British actor Tom Courtenay in the title role.
Wikipedia

Cao Thoại Châu
Hình như tôi vừa tiễn một người
có điều gì mất đi trong tôi
lúc qua đèo tôi nhủ mình như thế
lệ có bào mòn núi cũng không nguôi......

Pleiku 11-05-1969

Ba câu đầu thì cũng... thường thôi.
Nhưng câu cuối của khổ thơ mới khủng khiếp làm sao: Lệ có bào mòn núi cũng không nguôi.
Cứ nghĩ đến lúc BHĐ đi xa, đập cửa khóc ròng,
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant. Apollinaire, núi thương tình thằng Gấu, khóc theo, đến mòn tịt xuống, rồi thành hồ, thành ao, thành sông, thành biển, thì em vưỡn cứ xa.

"giọt mưa trời khóc ngàn năm trước",
"lệ có bào mòn", "rớt xuống đời làm sóng lênh đênh": chuỗi hình ảnh, chuỗi âm thanh, chuỗi thơ, chuỗi nhạc mới đẹp làm sao.

N
gó lại thời gian làm bài thơ: Pờ Lê Cu, 1969. À đúng rồi.
Phải là Pleiku, phải là thời điểm đó, thì mới làm nổi câu thơ thần đó. NQT

cảm xúc trên đường phố Huế

Thương cả hai người, em với bóng,
chiều vàng nghiêng nón lá qua sông.

Nguồn: Đồng bằng SCL


Back into the heart of darkness
John le Carre's 20th novel, The Mission Song, shows that the authors voice is as strong and compelling as ever
Robert McRum
Sunday September 24, 2006
The Observer
In The Mission Song, he has made the heart of darkness his own. If Salvo is not Marlow, the good news is that his master's voice is as strong and compelling as ever.
Trở lại Trái Tim Của Bóng Đen
Cuốn tiểu thuyết thứ 20 của Carré làm nhớ đến hai nhà văn tiền nhiệm của ông, là Greene và Conrad, nhất là về mặt 'văn dĩ tải đạo': Coi đạo hạnh chính trị mới là đỉnh cao mà văn chương hiện đại phải vươn tới: Đây là tiếng thét căm phẫn của tác giả trước nạn bóc lột giống dân da đen tại Phi Châu, ngay trung tâm của Bóng Đen.
In The Mission Song, he has made the heart of darkness his own. If Salvo is not Marlow, the good news is that his master's voice is as strong and compelling as ever.
Trong The Mission Song, Carré đã có riêng cho ông một trái tim của bóng đen, và nếu Salvo, nhân vật chính ở trong đó không phải là Marlow, thì, may mắn thay, giọng của bậc thầy vẫn mạnh mẽ, vẫn trấn ngự, như thời đầu viết văn.
Cuốn thứ 20 làm nhớ những cuốn đầu, Điện thoại dành cho người đã chết, và Tên điệp viên trở về từ miền đất lạnh.
*
Trái Tim Của Bóng Đen: Ông là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy.

Hồn thiêng thành phố

*
...các tài liệu thư khố của CIA, Bộ ngoại giao Mỹ, Nhà Trắng, cũng như hồi kí của đại sứ Ba Lan Maneli, tôi biết phải đến sáng ngày 2.9.1963 mới có cuộc nói chuyện đầu tiên và duy nhất giữa Ngô Đình Nhu và Maneli (ngay buổi chiều, ông Nhu lại đi khoe ngay với sếp của « CIA station »). Quá muộn rồi.
Nguồn
Viết như thế này, về một ngưòi đã chết, nhằm vinh danh một người đã chết khác, thì tởm thiệt.
Người được vinh danh chắc cũng chẳng sung sướng gì.
*
Người vinh danh PXA 'nhất nhất', phải nói là Nguyễn Khải.
Ông này có hai tác phẩm thật là tuyệt vời, và đều từ giấc mơ giải phóng, theo ý nghĩa tuyệt đẹp của nó, trước khi Con Bọ xuất hiện, và, người hoàn thành giấc mơ đó, chỉ với một bức điện chấm dứt cuộc chiến, là PXA.
Tất cả cái gọi là giấc mơ PXA, đã được NK viết ra.
Giấc mơ thật là tuyệt vời và thật là ngắn ngủi của PXA, nếu có thể nói như vậy, đã trở thành hiện thực, ở trong hai tác phẩm giả tưởng của Nguyễn Khải, là Thời Gian Của Người, và Vòng Sóng Đến Vô Cùng.
Tay nhà văn VC này, cũng chỉ có hai tác phẩm tuyệt vời đó thôi, theo Gấu.
Sau ngày 30 Tháng Tư, trước khi Con Bọ xuất hiện.
Những điều trên là một phần nội dung của bài viết, cho một tờ báo hải ngoại của nhà nước VC. Câu chuyện thú vị này, Gấu đã kể lại trong:
Gấu, từ Vườn Thú Sài Gòn, viết báo VC ở hải ngoại. (1)
*
(1) Nhà Gấu ở ngay kế bên Sở Thú, Sài Gòn:

Nhà tôi ở chân cầu Thị Nghè
*
-Sơ Dạ Hương, tại sao?

Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch. Trong đó chỉ có một từ, là thực.
-Nhân nhắc tới những nhận xét của người bạn mới quen, ông hãy nói thêm về Lần Cuối đi.
Nếu có điều cần nói, đó là khoảng cách giữa nó với Những Ngày Ở Sài-gòn: 1970-1998, hai mươi tám năm! Đúng là ba mươi năm, vui sao nước mắt lại trào!
-Sau 1975, ông ở lại, gần như mút mùa lệ thuỷ, hết mùa vượt biên mới bỏ đi. Nhân nói đến chuyện vui sao... xin ông cho biết về văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa ở trong nước.
Câu hỏi rộng, và căng quá. Theo tôi, cùng với sự kiện 1975, thoạt đầu, một số người viết Miền Bắc coi đây như là một đổi đời đối với họ. Hay một cơ hội để có được những tác phẩm hiện thực đúng nghĩa, tương xứng với sự kiện thống nhất đất nước, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có thể nhận ra điều này trong tác phẩm, thí dụ của Nguyễn Khải (Thời gian của người, Vòng Sóng Đến Vô Cùng...), nhưng dần dần họ nhận ra, nếu cứ tiếp tục viết như vậy, những tác phẩm của họ chỉ là đồ dởm. Họ nhận ra, chỉ có thể nói về thất bại của chiến thắng, thay vì ca ngợi nó. Nhưng việc này họ không làm được, phải đợi những người viết khác, thí dụ như Nguyễn Huy Thiệp.
-Ông không nghĩ sự kiện 1975 là một chiến thắng, và cùng với nó, thống nhất đất nước?
Xin cho tôi mượn những nhận định của nhà văn Đức, Gunter Grass, về chuyện thống nhất nước Đức. Ngài mai là ngày hôm qua, Grass nói như vậy, với phóng viên báo Đọc (Lire), nhân cuốn Tất cả câu chuyện của ông được dịch ra tiếng Pháp. Về câu hỏi quan trọng tại sao cuốn sách của ông bị chụp mũ chống thống nhất, ông trả lời: chuyện thống nhất đúng ra là đã có thể xẩy ra vào năm 1989 (xin đừng lộn với năm 1975). Chính vì vậy nên đây là một câu hỏi đau thương, nhức nhối. Thống nhất đã khả hữu mà không cần đến một tiếng súng. Tất cả ngon lành, rồi đùng một cái, mọi chuyện rối bung lên, hỏng bét. Đến lúc đó, tôi đưa ra lời giải thích, rằng chẳng có chi là tự nhiên, bình thường, khi Tây Đức tự coi như sức mạnh thực dân, chiếm cứ cả nước, rồi hè nhau nắm trọn cả đất nước...
-Liệu có một thống nhất khác?
Cái tay phóng viên Lire cũng hỏi Grass một câu na ná. Grass trả lời, phải chấp nhận thực tế hiển nhiên, là chúng tôi đã gây chiến, phạm những tội ác, và phải trả giá... tổ quốc làm tôi đau, đau nhiều lắm. Theo nghĩa đó, tôi hiểu câu nói của Adorno: Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man. Đây không phải chuyện ngăn cấm làm thơ, mà là một lời cảnh cáo. Vẫn phải tiếp tục viết, nhưng sau Auschwitz, người ta không làm thơ như trước nữa. Kẻ nào muốn thống nhất nước Đức, kẻ đó phải ôm riết lấy Auschwitz. Tất cả câu chuyện về Việt Nam hình như cũng tương tự như vậy. Mỗi người phải ôm riết lấy một cái gì đó. Thất bại của chiến thắng, trại tù... thí dụ vậy.
Gấu trả lời báo Văn
*
Tay nhà văn Do Thái, Amos Oz kể chuyện, một buổi chiều sương mù Anh Quốc, Pinchas Lavon [Bộ Trưởng Quốc Phòng Israel] khuyên một anh chàng thanh niên, nên từ bỏ môn chính trị thực hành, pratical politics và dâng hiến đời mình cho học vấn, nghệ thuật, hoặc ý thức hệ. Pinchas nói, chính trị là một business mà 'không ai ra khỏi mà còn nguyên vẹn".

Anh thanh niên hỏi lại, ông tính nói, chính trị là dirty business, nếu một ai dính vô, chẳng chóng thì chầy, tay sẽ bửn? "Không, ngược lại", Pinchas nói, với nụ cười mỉm chi. Ông nói tiếp. Chính trị là một môn rất sạch. Quá sạch là đằng khác. Phải nói là, sạch đến nỗi trở thành "hết sạch hết bẩn", tức là trở thành "vô sinh, khử trùng" [sterile]. Dính vô nó, là sau cùng bạn hết còn nhìn thấy người ta [stop seeing people], hết còn muốn sờ vô tha nhân, sờ vô những nỗi khốn cùng của con người, và bạn chỉ 'deal' [chơi] với những factors, data, problems [yếu tố, dữ kiện, vấn đề]. Những sự vật thực bị thay bằng những cái bóng [silhouettes].
Cái từ "factor" chính là từ chìa khoá [Oz dùng chữ key symptom: triệu chứng chìa khóa: khi một nhà chính trị không còn gọi "con người", man, "đồng chí", và bắt đầu nói về yếu tố tích cực, hay yếu tố tiêu cực, đó là dấu hiệu ông ta đã đạt tới giai đoạn vô sinh, khử trùng.
Chúng ta thử áp dụng công thức của Oz vào thực tế Việt Nam.

Coetzee viết về Oz.
Trong những tự thuật về thời thơ ấu, cơn khủng hoảng đạo đức đầu tiên thường xẩy ra, khi đứa trẻ, lần đầu tiên phải chọn lựa, một bên cái xấu, một bên là cái tốt . Sự chọn lựa sẽ ảnh hưởng suốt đời, sẽ tạo nên vóc dáng con người của nó sau này.
Với Jean Jacques Rousseau, thời điểm đó xẩy ra, khi cậu bé chôm một cái ruy băng, và, thay vì thú nhận, lại nín thinh, để cô tớ gái gánh tội, và bị đuổi. Nhưng chính một tí mặc cảm tội lỗi ăn mãi vào chú bé, khiến chú bé thành người, và thành nhà văn, viết ra cuốn Thú Tội, và kể chuyện đó ở Cuốn số 2.

Tưởng niệm
Cách Mạng Hung

Trả hết cho người !
Trả hết đôi môi nụ cười!
Sự cứu rỗi cuối cùng
Hai ông Yankee, một mũi tẹt, một mũi lõ, ông mũi tẹt tìm đủ mọi cách nhử ông mũi lõ nhẩy vô Miền Nam, để "activate" chân lý nước Việt Nam là một, còn ông mũi lõ, cũng chẳng tốt lành gì, khi nhất định nhẩy vô.

Lá Khô Vì Đợi Chờ

Nòi Tình