*

Diary

















“Khi tôi 20” bị Nhà nước VC cấm đem đi đấm nước người, tại Liên Hoan Phim tại Venise.
Nguồn
*
Đời gọi em biết bao lần!

“Khi tôi hai mươi” của đạo diễn Phan Dang Di 32 tuổi, thuật câu chuyện tình hơi đặc biệt trong một Việt Nam hiện đại, của một cặp trẻ, cô gái làm gái, bạn trai biết, để sống và nuôi sống bà của cô.“Hình ảnh mà cô gái chuyển tải, cách sống của cô, những hành xử của cô thì đi ngược lại phong tục, tập quán, truyền thống của người Việt”, Trùm điện ảnh VC tuyên bố, khi cấm đem phim đi đấm xứ người. Phim thực hiện cách đây hai năm. Và đã được kiểm duyệt, khi đó. Thấy giá trị kỹ thuật của phim, chế độ CS cho phép chiếu hạn chế trong giới nhà nghề và sinh viên, đếch cho chiếu tại rạp. Nhưng trong LHP Cannes vừa qua, tay đạo diễn mang cô gái điếm của mình tới  trình diện mong kiếm Mạnh Thường Quân tài trợ chơi một phim dài hơi, và đám sành điệu ở đây ngửi ra liền.
Lần này, tay đạo diễn đồng ý “thiến” cô gái, ở những xen nhạy cảm, để cầu may thêm một lần nữa. Vô ích, Trùm VC phán, “nội dung còn nguyên xi”.
Trần Anh Hùng, nhà đạo diễn Việt Pháp nổi tiếng, người vừa được Murakami chọn mặt gửi vàng, tác giả những cuốn phim hách xì xằng như Xích lô, Mùa hè thẳng đứng, Mùi đu đủ xanh, tuyên bố, chỉ có mấy thằng ngu mới coi những xen “nhạy cảm” đó là “thô bỉ”. “Nhạy cảm”, theo ông, tiếng Tây kêu là “grande sensualité”: Có một sự quyến rũ, một sự khả ái không thể tưởng được, ở trong những nhân vật, và trong cách quay phim”. Tay đạo diễn Phan Dang Di phán, giả như phải làm lại phim, tôi sẽ làm lại y chang.
Theo Hélène Favier
Note:Tin giờ chót, Ban Tổ Chức LHP Venice OK chiếu, đếch thèm biết đến Trùm VC là thằng củ xê nào!
*

Đi về đâu hỡi em,
Khi trong lòng không chút nắng?
TCS
Thì đi dự LHP Venice chứ đi đâu!
Voir Venise et mourir!
Đi Venise rồi về chết với VC!
 


Gấu có nhớ nhà không?
Tứ Tấu Khúc Alexandria
Tứ Tấu Khúc Saigon

Mỗi bài thơ là một khó. Thường xuyên, dòng đầu là quà tặng, tôi không biết, của Giời hay của khả năng bí hiểm mà người ta gọi là hứng khởi. Thí dụ bài Sun Stone, Đá Mặt Trời, của tôi: Tôi viết ba muơi dòng đầu, như có một người nào đó âm thầm đọc cho tôi chép. Tôi ngạc nhiên thấy thơ cứ thế tuôn trào, chúng như ở thật xa, mà cũng như thật gần, như ở ngay trong lồng ngực. Bất thình lình, ngưng! Tôi đọc lại, thấy chẳng phải sửa chữa gì hết. Nhưng đó chỉ là đoạn mở. Và tôi chẳng làm sao tiếp tục. Vài ngày sau, tôi khởi sự tiếp, không phải theo kiểu thụ động, mà là cố đẩy những dòng về hướng này, hướng nọ, và tôi viết thêm được ba muơi, hoặc bốn mươi dòng nữa. Tôi ngưng. Vài ngày sau, lại trở lại với nó. Bằng cách dị mọ như vậy, tôi khám phá ra trọn giọng điệu của bài thơ, và nó hướng về đâu. Nó giống như một cách điểm lại đời mình, một sự tái sinh của kinh nghiệm, nỗi quan hoài, những thất bại, những ám ảnh của tôi. Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và bài thơ, cùng lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu. Octavio Paz
Ui chao, ông này phán về thơ, y chang như Gấu tính phán, về mối tình của Gấu, với BHD:
Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và BHD, cùng lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu. (1)
(1) Tận cùng: Nhiều tận cùng lắm! Tận cùng một cuộc đời, một cuộc chiến, một cuộc tình....
Bắt đầu: Ouvrez-moi cette porte... Cửa sắp mở, Gấu sắp đi, và gặp BHD, và bắt đầu, và biết đâu, cuộc đời sau sẽ rộng lượng hơn cuộc đời này! [mô phỏng Brodsky]:

Give me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former
Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời này
To my daughter

Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo

Tháng 7 năm 1997, chúng tôi sang Mỹ, lại thăm Mai Thảo, có câu chuyện văn chương dang dở với ông. Nay đọc lại những ghi chép thấy cũng nên in ra. Đây là những ý kiến cuối cùng của Mai Thảo về đời sống văn học mà chúng tôi ghi nhận được.
TK
Thụy Khuê: Những tờ báo mà anh đã làm, thì anh có một chủ trương nào chính xác không?
Mai Thảo: Những tờ báo mà tôi đã chủ trương thì nó là cái giàn phóng, cái plate-forme, cái tribune commune, nói chung là như vậy, tụ họp mọi người lại đấy để cho có một chỗ đất đứng rồi thì anh muốn làm gì thì làm. Nó chỉ là một chỗ départ, một chỗ để khởi hành. Bây giờ nếu tôi khoẻ trở lại thì tôi cũng làm y như vậy. Làm một chỗ để đứng. Tôi rất yêu cái tinh thần, tinh thần thật ở Pháp. Camus. Bon. Sartre. Bon. Tôi chịu ảnh hưởng của mấy người đó. Khi sang Paris tôi hay ngồi ở Flore, Aux Deux Magots ở Saint-Germain-des-Prés. Tôi ngồi chỗ ngày xưa hai người đó ngồi. Tôi cho là họ rất hay. Thành ra tờ Sáng Tạo mới có những tiểu đề ở dưới gọi là Diễn đàn văn học nghệ thuật hôm nay - aujourd'hui, chứ không có hiện đại gì cả.
TK: Hôm nay khác hiện đại như thế nào?
MT: Hôm nay là bây giờ. Là cái mình đang sống. Mình không nói cái bây giờ thì nói cái gì? Nhưng nói như vậy thì nó có cái chướng, thành ra người ta ghét mình. Bọn ghét nó gọi chúng tôi là bọn Kiêu binh Tam phủ (người dùng cái danh từ này là Nguyễn Tuân, để chỉ một đám người khác). Nhưng mà bọn vua Lê, chúa Trịnh nó nói như vậy là nhảm.
TK: Bọn vua Lê chúa Trịnh là ai?
MT: Miền Trung.
TK: Tại sao?
MT: Tại vì họ không có bản chất để hiểu.
TK: Nhưng họ có đọc các anh không?
MT: Đọc mà không vào thì sao?
TK: Thế còn những người ở miền Nam ?
MT: Những người ở miền Nam, tôi cho rằng tới lúc nào Thụy Khuê để ý thì sẽ thấy không ai bằng Bình Nguyên Lộc. Có những người như Hồ Hữu Tường hay Tam Ích thì họ quá là politique. Bình Nguyên Lộc đóng vai trò của người viết tiểu thuyết. Còn Hồ Biểu Chánh thuộc thế hệ trước rồi, mình không hiểu được.
TK: Thế còn Võ Phiến?
MT: Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Đại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn học miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.
TK: Anh nghĩ sao về Vũ Khắc Khoan? Anh hay đi chơi với Vũ Khắc Khoan lắm phải không?
MT: Vũ Khắc Khoan thật là nghệ sĩ. Nghiêm Xuân Hồng và Vũ Khắc Khoan thì cứ phải dùng tiểu tư sản để đánh bọn cộng sản. Nhưng mà đâu có đánh được (cười)! Đi chơi ở Sàigòn thì chỉ đi với Mai Thảo, chẳng đi với ai cả. Nhưng chúng tôi cũng chẳng là cái gì ghê gớm cả. Lúc nó chết, tôi có bay sang đưa đám nó. Tôi buồn lắm. Nó cũng giải phẫu hai lần rồi nó chết. Nó đùa nghịch chứ không đứng đắn gì cả.
TK: Hình như lúc đó anh nhiều tiền lắm, anh tiêu vung lên, anh bao bạn bè?
MT: Những bạn văn khác, thường thường họ phải đi dậy học để đưa tiền cho vợ con. Tôi chỉ đi chơi với Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan. Thường thường tụi nó không có tiền, không có phương tiện để đi chơi đêm, tôi thì lúc đó nhiều tiền lằm. Tôi best-sellers mà!
TK: Sáng Tạo thành lập bằng tiền của ai?
MT: Bằng cái hợp đồng tôi ký với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ sống chết thế nào. Đó là cái hợp đồng bán báo, không có điều gì cần giấu diếm hết, đại khái nếu mình in 5000 tờ, thì nó mua đứt cho mình 2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có cái nghiã gì khác hết, và cũng không có điều kiện gì khác hết.
TK: Anh best-sellers từ lúc nào?
MT: Ngay từ cuốn đầu "Đêm giã từ Hà- nội". Lúc đó không phải cuốn sách về nghệ thuật viết mà là cuốn sách chống Cộng cho nên các cơ quan quân đội nó mua để phát cho lính, rồi thì cứ từ đó mà lên... sách Mai Thảo nổi danh như cồn!
TK: Rồi anh trở thành biểu tượng của giới trẻ?
MT: Vừa biểu tượng của giới trẻ, vừa chống Cộng nữa. Mình bèn thôi, mình không chống Cộng nữa, mình biên truyện tình thôi.
TK: Tại sao anh không chống Cộng nữa?
MT: Bởi vì chúng nó cứ bảo mình là xịa (cười)!
TK: Tiểu thuyết của anh ăn khách vì sao?
MT: Hoàn toàn có mục đích viết cho độc giả bình dân coi với những truyện tình tay ba.
TK: Anh có tiếc gì không?
MT: Không bao giờ tôi tiếc cái gì cả. Đối với tôi những cái tôi viết ra không có cái nào được cái nào không được cả, đại khái hết.
TK: Anh đọc gì?
MT: Lecture thì nó lung tung lắm. Bởi vì mình không chủ trương đi theo văn học Pháp gì cả. Bạ cái gì mình đọc cái đó mà thôi.
TK: Về cái ảnh hưởng, cái khuynh hướng, anh có thấy ngay không?
MT: Thấy chứ. Thấy ngay chứ. Thanh Tâm Tuyền là người thơ. Còn tôi chỉ là người romancier, có người đọc. Có nhiều người thích đọc.
TK: Thanh Tâm Tuyền ra hải ngoại thì sao?

MT: Bình thường.
Đến đây có khách đến thăm Mai Thảo, câu chuyện tạm ngừng, định hôm sau tiếp tục, nhưng rồi bất chợt sức khoẻ ông kém đi nên câu chuyện bỏ dở.
Trích Da Mầu

Note: Đây cũng là phút nói thật của Mai Thảo. Có vài tiếng lóng, dân trong nghề, cùng thời Sài Gòn với MT mới nhận ra. Rảnh, Gấu sẽ đi một đường Mao Tôn Cương, theo cái kiểu "Còn nợ một thời!"


Một thời để yêu, để hát, và để chết


Bondage

In 1975, at the age of twenty-three, Ian Fleming's only child, heir to the Bond millions, ended his life with a deliberate overdose.
Vào năm 1975, con trai độc nhất của Ian Fleming, cha đẻ 007, chấm dứt cuộc đời bằng một cữ thuốc quá liều lượng.


Tribute
*

Ấu thời của Ông Trùm: Và Joseph trở thành Staline.
Giả như có một tay trong nước viết về thời thơ ấu của Bác, nhỉ!
Và cậu bé Làng Sen ngày nào trở thành Cha Già Của Dân Tộc Mít!
Nhưng ấu thời của Staline quả là khủng khiếp! Bác không thể nào bì kịp!


Dọn

Tư tưởng gia tân thiên niên kỷ: Karl Marx

Không phải niềm vui lớn

Bảnh hơn chúng ta


Là tên bài viết của James Campbell, trên TLS May 25, 2007, về Faulkner, nhân tuyển tập tiểu thuyết của ông vừa mới ra lò, Novels 1926-1929, gồm: Lương Lính, Muỗi, Cờ trong Bụi, Âm thanh và Cuồng nộ. 1,180 trang, Nhà xb Library of America. 

Cờ trong Bụi, Flags in the Dust , là cuốn thứ ba sau hai cuốn Luơng Lính  và Muỗi. Bị chừng 12 nhà xb chê, sau ra lò duới cái tên Sartoris. Cuốn này Sartre cũng chê lên chê xuống, sau khi khen lấy khen để cuốn Âm Thanh và Cuồng Nộ, coi đây [Satoris] là nghệ thuật “mà” con mắt người đọc.
Nhưng chúng ta mắc nợ Faulkner, về tính sáng tạo lạ lùng, kinh ngạc của ông, theo cả cái nghĩa "lầm lạc sai sót" mà các nhà xb vin vô đó để chê Sartoris, và chỉ thời gian mới trả lời, và quyết định số phận cho nó: một đại tác phẩm.
Ra lò vào năm 1929, cuốn sách đòi đúng vị trí của nó trong 'thiên tài sai sót', 'thiên tài mà con mắt người đọc", và là cuốn thứ nhất được đặt để khung cảnh trong thiên đàng hoang dại, hoang đường, là miền Yoknapatawpha County. Nó còn tạo dấu ấn thật đậm đà về cái hơi thở dài thòng, là dòng văn 'bè rau muống' (1) của Faulkner: câu dài lê thê, câu nọ cuốn lấy câu kia, [long, flexible sentences constructed on a backbone of declarative phrases, often punctuated insistently by family names - three Bayard Sartoris crop up on one page without any warning that they are three separate people - and frequently wrestling with paradox]. Cái thói quen sau cùng, wrestling with paradox, khoái chơi trò vặn vẹo với nghịch ký, ở lại suốt đời, trong nghiệp văn của ông.
(1) 'Bè rau muống', là lời chê của một độc giả khi cuốn Những Ngày ở Sài Gòn của Gấu ra lò. Tay này tên Lộc, làm manager cho UPI, lo việc văn phòng.
*
Faulkner stated many times that The Sound and the Fury was his favourite among his novels, and that Caddy was the dearest to him of his characters: "I who had three brothers and no sisters and was destined to lose my first daughter in infancy, began to write about a little girl...". As the story begins with the tender image of Caddy climbing a pear tree to look in the window of the family house at the grown-ups attending her grandmother's funeral, so it comes round to Caddy's delinquent daughter Quentin climbing down a rain pipe from the same house, to abscond with a man from a travelling street show and with money her uncle  Jason has been stealing from her. "I seed de beginnin, en now I sees de endin." 

Faulkner nói đi nói lại nhiều lần, cuốn ruột của ông, là Âm Thanh và Cuồng Nộ, và cô bé Caddy là nhân vật đáng yêu nhất của ông. "Tôi, kẻ có ba anh em trai, không có chị em gái, số mệnh bắt phải mất đứa con gái đầu lòng, trong khi mẹ cháu sinh cháu, bắt đầu viết về một cô bé con..."

Chúng ta mắc nợ sáng kiến lạ lùng, làm ra cái mới, của Faulkner, nở rộ từ 1928 tới 1936, theo cái nghĩa thật bảnh, mà trên một chục nhà xb đã quẳng cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông vô thùng rác.
*
Cái sự kiện Gấu gặp Faulkner, rồi, như NMG gặp Dos, thờ Faulkner làm thầy, những ngày đầu mới tập viết, mỗi khi bí, là mang bí kíp của thầy ra tụng, tìm cơ hội, chôm một câu, một ý tưởng làm mồi... mãi sau này, ra hải ngoại, trong một lần trò chuyện, bên ông Tây Martell, với một ông bạn, và nhân nói chuyện trên, ông bạn lắc đầu, phán, cái chuyện mày khám phá ra và mê, và thờ Faulkner làm thầy, tao sợ nó rắc rối hơn nhiều, và chỉ Freud mới giải mã nổi: Trong mi có một tên Yankee mũi tẹt muốn ăn cướp Miền Nam, và mày sợ chuyện đó!
Chỉ đến mãi sau này, khi đọc Sebald, ông này mới nói rõ cái tâm trạng của Gấu, của tất cả những con người đành đoạn phải bỏ chạy quê hương, và không thể nào nói tốt được cho nó.
Sebald, chẳng làm điều gì xấu cho nước Đức, nhưng, sau Lò Thiêu, lúc nào cũng tởm nước Đức, có thể như vậy, và ông coi Hebel, như là tri kỷ của mình, trong bài cảm tạ nước Đức, khi, không những chấp nhận khúc ruột ngàn dậm, mà còn phát cho nó một cái chức ông Hàn:
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald tởm những gì người dân Đức đã làm đối với dân Do Thái. Còn da vàng làm thịt da vàng, thì sao? Đó là lý do người dân Mít thù VC, chứ không phải thù trong nước. Có một sự lập lờ ở đây. Làm gì có bất đồng chính kiến?
Chỉ có sự thù hận cái xấu, cái độc, cái ác mà VC đang giáng lên đầu nhân dân trong nuớc.
*
Lại nói về lừa đảo.
Le Carré suốt đời tởm ông già, vì ông này, là một tên lừa đảo. Và nếu coi ông già là 'father land', thì cũng vưỡn đúng, đối với ông!
Cái tay chuyên viết chuyện gián điệp chiến tranh lạnh này, khi được Liên Xô cấp visa, và khi tới Moscow, được đề nghị gặp Philby, tay điệp viên Hồng Mao phản thùng, đã bực rọc thốt lên: Hôm qua, các ông đón tiếp tôi như là người đại diện nữ hoàng Anh, vậy mà bữa nay, các ông đề nghị tôi đi gặp tên khốn kiếp đó, kẻ thù của nữ hoàng?
Sự thực, Le Carré luôn tỏ ra ưu ái với những người Cộng Sản, thế mới lạ. Mấu chốt, cái mầm đẻ ra Gián điệp từ miền lạnh, là từ niềm tin của ông vào những người CS thứ thiệt này.
Nguồn


NQL: Libido vs Marxism
Cái gọi là sex ở trong những gì được viết ra bởi NQL sự thực không phải là sex, y hệt như khi ông viết về chân dung những con người, thì lại nổi lên chân dung của chế độ: ngón tay chỉ mặt trăng là như vậy.
Một độc giả nhận xét: NQL tả chân quá siêu. Liên minh các chế độ hà khắc tạo ra những con người ẩn ức, để mặc bản năng hướng dẫn, đọc thấy thương, không thấy tục.
Một độc giả khác, cảnh cáo Gấu, để yên cho người ta viết, chưa viết ông đã lật tẩy lên rồi!
Toni Morrioson, nhà văn nữ, Nobel văn chương, trả lời tờ Paris Reiview (Tại sao nhiều nhà văn cảm thấy khó viết về sex?): Bởi vì không biết thế nào là đủ sexy, và cách độc nhất, là đừng viết nhiều. Hãy để phần người đọc đem phần sex riêng của người đó, vào trong bản văn.... Luôn luôn có sự thừa thãi về "information" (thông tin). Một khi bạn bắt đầu tả, "cái bờ môi dưới cong cong..." là bạn biến mình là một nhà phụ sản! Về sex, Joyce là bậc thầy. Ông ta nói thật tục, đủ thứ từ những từ bị cấm. Ông ta nói "cunt", và gây sốc. Từ cấm có thể hung hăng, gây hấn, provocative. Nhưng nói nhiều là thành nhàm, nói ít tốt hơn.
Gấu ít nói tục, không phải vì sợ nhạt miệng, mà chỉ sợ đúng lúc cần đến nói tục, thì cảm thấy lạt miệng!

Sơn Nam: Phu Loi's survivor

Flaubert ở Istanbul: Đông, Tây và Giang Mai 

Tháng Mười 1850, bẩy năm sau chuyến đi Istanbul của Nerval, Gustave Flaubert tới thành phố cùng với người bạn nhiếp ảnh viên, nhà văn, là Maxime du Camp, và một trường hợp giang mai  mà Flaubert vừa mới dính phải ở Beirut.
Flaubert ở Istanbul năm tuần lễ, và mặc dù, từ Athens, ông viết thư cho Louis Bouilhet về Istanbul, “Ai mà đến đó thì cũng phải ở ít lắm là sáu tháng”, nhưng chúng ta cũng đừng coi quá coi trọng lời phát biểu chắc nịch của ông, bởi vì Flaubert, vào thời gian này, nhớ đến phát điên tất cả mọi thứ mà ông để lại ở đằng sau ông. Trong những thư từ, ngay đầu thư là cái tên Constantinople, rồi tới ngày tháng và sau đó, ông cho biết, những điều mà ông nhớ nhiều nhất, kể từ khi lên đường du lịch, là căn nhà của mình ở Rouen, sự nghiên cứu của ông, bà mẹ yêu quí đã khóc rất nhiều khi ông lên đường, và, ông chỉ mong trở về nhà liền, khi có thể.
Dò theo lộ trình chúng ta thấy Flaubert đã tới Istanbul qua ngả Cairo, JerusalemLebanon. Cũng như Nerval, ông trở nên mệt mỏi vì sự xấu xí đáng sợ, vẻ Đông phương xa lạ thần bí qua những hình ảnh mà ông nhìn thấy. Thực tại trước mắt còn quái dị hơn, so với những điều mà ông tưởng tượng ra, hoặc thấy chúng xuất hiện, ở trong những giấc mơ. Nói tóm lại, ông chẳng thấy thích thú gì ở Istanbul. (Theo như chương trình du ngoạn lúc thoạt đầu, ông tính ở đó ba tháng). Sự thực, Istanbul không phải là Đông phương mà ông tìm kiếm. Trong một bức thư khác gửi cho Louis Bouilhet, ông nhớ lại chuyến du ngoạn của Lord Byron qua vùng phía Tây Anatolia, và để trí tưởng tượng của ông bay nhẩy khi nhìn thấy “Đông phương Thổ nhĩ kỳ, Đông phương của những cây kiếm cong, của trang phục kiểu Albania, và những cửa sổ có lưới nhìn ra biển xanh”; Flaubert nghĩ, ông mê một Đông phương khác, “một Đông phương bị nung nướng của Beduin và sa mạc, những chiều sâu đỏ chót của Phi Châu, cá sấu, lạc đà và hươu cao cổ”.
Trong tất cả những nơi chốn mà ông nhà văn Tây hai muơi chin tuổi đã nhìn thấy trong chuyến đi Đông phương, Ai Cập đúng là nơi đã đốt cháy trí tưởng tượng của ông, và nó sẽ đốt cháy như vậy, suốt cuộc đời còn lại của ông. Như trong những thư ông gửi cho mẹ và cho Bouilhet, ông giải thích, tâm hồn của ông lúc đó là về tương lai, và về những cuốn sách ông hy vọng sẽ viết ra được (Trong những cuốn sách tưởng tượng đó, có một cuốn tiểu thuyết tên là “Harel Bey”, trong đó, một người Tây phương văn minh và một tay Đông phương man rợ dần dần giống như nhau, và sau cùng đổi chỗ cho nhau). Từ những gì ông viết cho bà mẹ, rõ ràng là, tất cả những thành tố sau đó làm nên huyền thoại Flaubert - từ chối bất cứ một cái gì khác, ngoại trừ nghệ thuật, chán ghét cuộc sống trưởng giả, hôn nhân, và thế giới của những tay làm ăn, chạy mánh - đều có ở trong đó. Một trăm năm trước khi tôi sinh ra, ông ta đã lang thang trên những đường phố sau này tôi trải qua suốt cuộc đời của tôi ở đó. Một ý nghĩ đến với ông, và sau này, ông ghi lên mặt giấy, và nó trở thành một trong những nguyên lý cơ bản của văn chương hiện đại: “Con chẳng màng chi thế giới, tương lai, những gì mà những người khác nói, an cư lập nghiệp, và ngay cả văn chương nổi tiếng, được người đời biết đến; trong quá khứ, con đã nhiều lần nằm dài, trong nhiều đêm không ngủ, lúc nào cũng mơ tưởng về chúng. Con là như là con là. Đó là tính cách của con.”. (Thư của Flaubert gửi mẹ, 15 Tháng Chạp, 1850, Istanbul).
Tại sao tôi quan tâm quá nhiều tới những du khách Tây phương, tới những gì họ nói về Istanbul, những gì họ đã làm trong những lần viếng thăm thành phố, những gì họ viết cho bà mẹ của họ? Một phần có thể là do, tôi, trong rất nhiều lần, đã tự đồng hóa mình, với một số trong những người đó (Nerval, Flaubert, de Amicis), và – y hệt như một lần tôi đã từng nhập vào họa sĩ Utrillo để vẽ Istanbul - bằng cách rớt vào quỹ đạo, nằm dưới bùa chú, chịu ảnh hưởng của họ, và trong khi cố tìm cách quật ngược lại, cố tìm cách làm thịt thầy, mà tôi rèn luyện được, cái căn cước của riêng mình. Và cũng còn lý do này nữa: rất ít những nhà văn của riêng Istanbul đã dành cho chính thành phố của họ, một niềm quan tâm, và ưu ái, như họ.
Cho dù bạn gọi cái đó là cái chi chi – ý thức dởm, sự kỳ quặc, lố lăng, ý thức hệ lỗi thời - ở trong mỗi cái đầu của đám chúng ta, có, một bản văn nửa đọc được, nửa bí ẩn không đọc được, và nó làm cho cuộc đời của chúng ta, những gì chúng ta làm trong cuộc đời đó, có một ý nghĩa nào đó. Và đối với mỗi một con người như chúng ta, những cư dân của thành phố Istanbul, một phần lớn của bản văn nói trên, là từ bất cứ những gì mà những nhà quan sát người Tây phương nói về chúng ta. Với những người như tôi, những người dân Istanbul, với một chân ở trong mỗi văn hóa, “du khách Tây phương” thì thường xuyên không phải là người thực: người đó có thể là một sự sáng tạo của riêng tôi, một sự lố lắng kỳ quặc của riêng tôi, và quá nữa, có thể là sự phản chiếu của chính tôi! Nhưng, không thể nào tuỳ thuộc vào truyền thống không thôi, như là bản văn của mình, tôi thật biết ơn người ngoại cuộc, kẻ xa lạ kia, người có thể dâng hiến cho tôi một ấn bản bổ túc cho bản văn của tôi – dù bản văn đó là bất thứ cái gì: một mẩu viết, một bức họa, hay là một cuốn phim. Bởi vậy, bất cứ khi nào tôi cảm thấy sự vắng mặt của những con mắt Tây phương, tôi trở thành một kẻ Tây Phương của chính mình.
Istanbul chẳng hề là một thuộc địa của những người Tây phương, những người đã viết, đã vẽ, đã quay phim về nó, và chính vì vậy tôi chẳng bị bối rối khi  những người Tây phương sử dụng quá khứ, lịch sử của tôi trong những kiến tạo của họ về một miền đất lạ lẫm đối với họ. Thực sự, tôi nhận ra những sợ hãi và những giấc mơ của họ thì lạ lẫm đối với tôi – cũng vậy, những sợ hãi và những giấc mơ của chúng tôi thì lạ lẫm đối với họ - và tôi không chỉ nhìn vào họ để vui chơi, để giải trí, hay nhìn thành phố qua con mắt của họ, nhưng mà còn nhập vào cái thế giới được họ tạo nên, và chẳng thiếu một thứ gì ở trong đó, và trở nên thân quen gần gụi y hệt như đây cũng là cái thế giới của chúng tôi. Đặc biệt là, khi đọc những du khách Tây phương của thế kỷ 19 – có lẽ bởi vì họ viết về những điều quen thuộc bằng những từ thật dễ hiểu đối với tôi – tôi nhận ra rằng thành phố “của tôi” không thực sự là của tôi. Y hệt như là khi tôi ngắm nghía dáng vẻ, và những góc cạnh của thành phố thật quen thuộc đối với tôi - từ cầu Galata và Ciganhir, nơi tôi đang viết những dòng này – và cũng vậy, khi tôi nhìn thành phố qua những từ và những hình ảnh của những người Tây phương đã nhìn thấy, trước tôi; những lúc như vậy, tôi phải đối diện với những điều không chắc chắn của riêng mình, về thành phố và vị trí mỏng manh của tôi ở trong đó. Tôi thường xuyên cảm thấy mình trở thành một với du khách Tây phương, cùng với anh ta nhào xuống khối đậm đặc, là cuộc sống, rồi đo, đếm, phân loại, phán đoán, và trong khi làm như vậy, thường chiếm đoạt những giấc mơ của anh ta, để ngay lập tức trở thành khách và chủ của cái nhìn chằm chằm Tây phương. Và trong khi tôi làm tới làm lui, đôi khi tôi nhìn thành phố từ bên trong, và đôi khi từ chẳng đâu, tôi cảm thấy như những lần lang thang trên đường phố, bị tắt nghẹn giữa những luồng tư tưởng trồng chéo, nghịch ngược, trơn trượt, không hoàn toàn tùy thuộc vào nơi chốn này, mà cũng không hoàn toàn thuộc về một nơi chốn nào khác, không hoàn toàn là một kẻ xa lạ. Đó là tình cảnh, tâm trạng mà những người dân thành phố Istanbul cảm nhận trong 150 năm vừa qua.
Cho phép tôi minh họa tình trạng trên đây, bằng một câu chuyện về thằng nhỏ của Flaubert, nó làm khổ ông rất nhiều trong những ngày ông viếng thăm  Istanbul. Trong một lá thư gửi cho Louis Bouilhet, về ngày thứ nhì ông tới Istanbul, vị tác giả xốn xang của chúng ta thú nhận, bẩy vùng bị sưng đỏ lên, ở trên thằng nhỏ của ông do bịnh giang mai, bây giờ chúng tụ lại thành một. “Tội nghiệp thằng nhỏ! Sáng chiều đều phải băng bó cho nó!”, ông viết.
Thoạt đầu, ông nghĩ, mình dính nó từ một em Maronite, hay “có thể, một phu nhân nho nhỏ người Thổ nhĩ kỳ. Thổ hay Ky tô?”, ông hỏi, và vẫn trong giọng điệu nhạo báng như thế, ông đưa ra nhận xét, “Vấn đề! Thức ăn của tư tưởng. Đây là một khía cạnh của ‘Nan đề Đông phương’ mà tờ ‘Tạp chí của hai thế giới’ chẳng hề bao giờ mơ tưởng tới!”. Cũng vào khoảng thời gian này, ông cũng viết cho bà mẹ, con sẽ chẳng bao giờ lấy vợ, nhưng quyết định này không liên quan gì tới chuyện ông dính giang mai.
Mặc dù phải chống trả với căn bệnh khiến tóc ông  rụng, đến nỗi bà mẹ nhận không ra ông con, khi ông trở về, nhưng bệnh thì bệnh, ông vẫn mò tới xóm chị em ta ở Istanbul. Tuy nhiên, khi, một trong những dragomen [thông dịch viên, người dẫn đường] vẫn thường đưa du khách Tây phương tới những xóm quen ở khu Galata, người này đưa Flaubert tới một chỗ thật là dơ bẩn, với những người đàn bà thật là xấu xí, ông tỏ ý muốn rời nơi đó liền lập tức. Đúng vào lúc đó, theo như chính ông kể lại, bà chủ nhà bèn đề nghị chính cô con gái của bà ta cho ông khách người Pháp. Một cô gái mười sáu hoặc mười bẩy tuổi, mà theo Flaubert, rất quyến rũ. Nhưng cô gái từ chối đi với ông khách. Những người ở trong nhà đã  bắt cô phải đi – cái vụ này thì người viết đành để quí vị độc giả tự tìm hiểu coi họ đã làm thế nào khiến cô gái xiêu lòng – và khi chỉ còn hai người, cô gái hỏi Flaubert bằng tiếng Ý đại lợi, hãy cho cô kiểm tra thằng nhỏ coi nó có bị bịnh hay không. “Bởi vì thằng nhỏ của tôi vẫn còn vết chai khi nổi hạch, và tôi sợ cô gái nhận ra, thế là tôi từ trên giường nhẩy xuống la lớn, nè cô bé, cách xử sự của cô như vậy là sỉ nhục một bậc văn nhân phong nhã như tôi,” và sau đó, ông rời khỏi nơi đó, Flaubert viết.