*




*

Chúc Mừng Năm Mới 2011

Thằng Bàu đi tu!


Vài kỷ niệm với Thảo Trường
DTL

GNV không biết TT có về lại Đất Bắc lần nào không, khi đã ra hải ngoại. (1) Nhưng có lần ngồi lèm bèm, hình như Gấu có than, giá mà về được 1 lần dối già, nữa, nhỉ, ông bèn ‘mắng cho’:
Ông về một lần thắp hương cho ông cụ, ở đúng cái chỗ ông cụ ra đi, bên mé sông Hồng, Việt Trì; một lần chụp hình cái lô cốt, vậy là quả đủ rồi!
Ui chao, sao mà bạn Gấu hiểu Gấu, quá cả Gấu hiểu Gấu!

Cái lô cốt trên đê làng Thanh Trì quả là khủng khiếp thật.
Cứ như Cột Đồng Mã Viện ấy, nhỉ!

(1)

Chắc là không. Ông trở lại Sài Gòn, lần bà cụ đau nặng, rồi qua, ông em về thay ông anh, rồi qua, sau đó, ông mất, trước bà cụ.


Thơ mỗi ngày

nhớ em quá Chủ nhật dẫn anh lại con đường cũ
năm trước chưa sữa
giờ tràn sữa
ngộ độc kỷ niệm nặc nồng đêm hẹn
áo thì mỏng trời thì lạnh
tay gầy khua sương nặng
co ro mái hiên tình nhân và đứa bé không nhà
Nguồn DM 

  • Hoàng Đại Dương viết:

Tôi chỉ muốn hỏi hai chữ sữa trong bài thơ là dấu hỏi hay ngã. Cám ơn nhiều.

- 11.01.2011 vào lúc 8:17 am

  • Camillia Ngô viết:

Tôi thấy bạn Hoàng Đại Dương thắc mắc rất có lý. Tôi đoán bạn Trịnh Sơn muốn viết là: 

“nhớ em quá Chủ nhật dẫn anh lại con đường cũ
năm trước chưa sửa (dấu hỏi, vì sau trạng từ “chưa” thì cần một động từ)
giờ tràn sữa” (dấu ngã, vì sau động từ “tràn” thì cần một danh từ)

Trong bài còn có thêm một chỗ sai chính tả nữa:
“thôi, không ghé pharcmacy làm gì” (“pharmacy” mới đúng)

GNV viết:

Tràn sữa, OK, nhưng sữa ở đâu mà lắm thế?
GNV nghi là, hai từ đều là dấu hỏi, câu sau “tràn sửa”, có nghĩa là, sửa tràn lan, hố tử thần búa xua!

Ui chao, lại nhớ 1 cái tít của HHT, “Như hoa trên tóc”, anh thợ ‘mo rát’ sửa là, “Nhũ hoa trên tóc”. 

Thành thử, ở đây, có thể là “tràn sữa” [trên tóc của em], chăng?

Có thể, 'tràn sữa", thật, vì câu sau cho thấy:
ngộ độc…sữa của em!

trịnh sơn viết:

Xin cảm ơn câu hỏi cũng là câu góp ý/nhắc nhở của hai vị độc giả Hoàng Đại Dương và Camillia Ngô. Trịnh Sơn thẳng thắn hầu quý vị như sau :
1) Sữa : Khi viết, tôi dùng/dành dấu NGÃ, ý chỉ HOA SỮA. Việt Nam cho tới bây giờ, hoa sữa tràn ngập tới miền Nam rồi.
2) Phacrmacy : đúng là tôi xài chữ Phacrmacy thiệt, có C.
Ý nghĩa của mỗi từ thế nào, trong ngữ cảnh này ra làm sao, có lẽ, Trịnh Sơn không nên giải thích thêm. Ai hiểu theo cách nấy có khi lại hay hơn.
Kính cáo !

- 11.01.2011 vào lúc 6:20 pm

*

Nụ cười cuối năm Canh Dần
      Mời đọc,
      TV                   

Quán bia không ôm 

Bốn người khách vào một quán lịch sự . Họ lên lầu cho kín đáo, yên tĩnh. Trong khi chọn món ăn, cô gái chiêu đãi bia tiến lại gần bốn vị khách:
“Em rót bia cho mấy anh nhé?” - Cô nhoẻn miệng cười tươi rói.
Trước nụ cười tuyệt vời ấy, bốn vị khách nhìn qua nhìn lại thăm dò ý kiến lẫn nhau.
Anh A liền nói với cô gái:
“Xin lỗi, em quí danh là gì, ở đâu, anh không nhớ nhỉ ?”
Cô ta lại cười, răng trắng lóa, đều như bắp:
“Hỏi quê…rằng biển xanh dâu
 Hỏi tên…rằng mộng ban đầu đã xa”.
Anh B nghe thế , vỗ đét đùi:
“Úi chà chà ! Lại thuộc cả thơ
Tuyệt vời. Cứ rót bia của em đi”.
“Dạ . Cảm ơn quí anh”.
Và, thế là họ dùng bia của cô gái tiếp thị .
Anh C đon đả :
“Lấy thêm ly. Em cùng ngồi đây uống cho vui”.
“Dạ”.
Thế là bàn có thêm một bông hồng giữa đám sỏi đá.
Anh D mời tất cả cụng ly và nhận xét:
“Coi bộ em học giỏi nhỉ !”.
Cô lại cười. Đúng là cô ta “ăn tiền” nhờ có nụ cười duyên. Nụ cười như thể cái ống bơm, cứ hút người ta té nhào:
“Em cũng học mót. Nói chơi cho vui mà.
Quí anh không phiền chứ ? Chắc quí anh học giỏi lắm thì phải?”
Anh A xoa bụng, ưỡn ngực, cố tình khiêm tốn:
“Cũng đủ xài. Ai hỏi gì nói nấy. Nhất là lãnh vực văn học. Không bao giờ bị kẹt”.
“Thế là quá giỏi rồi. Vậy, em đố các anh về lĩnh vực văn học nhé?”
Nghe thế , cả bàn nhốn nháo hẳn lên, mừng rơn như cá gặp nước. Tại vì họ là nhà giáo, nhà thơ , nhà văn cả … Họ cụng ly chúc mừng thắng lợi, và chờ đợi thử thách từ phía hoa hồng.
Cô gái lại cười, giọng êm ru:
“Nếu có một ông khỏa thân” (trần truồng)
Cô cười cười nói tiếp :
“Ông ta cõng một ông nữa cũng khỏa thân… Về tục ngữ , ông bà ta nói sao ?”.
Bốn khuôn mặt của bốn vị khách đều nhăn nhíu cả lên. Họ không tìm ra câu tục ngữ nói về trường hợp hy hữu này (hiếm có này). Họ bí rị …
Anh C nói dứt khoát:
“Chúng tôi thua. Cô giảng đi. Nếu đạt yêu cầu văn học, chúng tôi uống mãi Tiger cho đến chiều”.
Cô ta bình tĩnh đáp:
“Quân tử nhất ngôn đấy nhá !
Này, một ông khỏa thân, cõng trên lưng một ông cũng khỏa thân… Lúc ấy, tục ngữ nói rằng: “Gậy ông đập lưng ông”.
“Úi trời! Đúng quá đi chớ ”
Cả bàn cười rộ . Quân tử nhất ngôn. Rót thêm bia.
Vừa rót bia, cô tiếp thị vừa đố tiếp:
“Này các anh nhé, cũng cái ông khỏa thân ấy, ông ta nhảy tõm xuống ao, tục ngữ nói sao nào?”
Bốn khuôn mặt của bốn vị khách lại đờ đẫn, vẫn cứ tiếp tục nhăn nhíu. Họ lại bí rị… Họ lại yêu cầu đáp án. Cô ta cười tủm tỉm, đáp:
“Ông khỏa thân mà nhảy xuống ao, tục ngữ bảo rằng: “Chim sa cá lặn”.
Cả bàn lại cười vang như pháo.
“ Úi trời ! Đúng quá đi chớ . Cá trông thấy hãi quá, cá phải lặn là cái chắc !”
Thừa thắng xông lên, cô ta đố tiếp:
“Thưa quí anh, cũng cái ông khỏa thân ấy, ông ta ngồi lên hòn đá, tục ngữ bảo sao nào ?”
Bốn khuôn mặt thông minh kia lại tiếp tục nhăn nhíu trông đến tức cười. Họ lại bí rị … Lại đòi đáp án. Cô gái thong thả trả lời:
“Ông khỏa thân ngồi lên hòn đá, lúc ấy tục ngữ phán rằng: “Trứng chọi đá !”
Cả bàn lại cười như Tết.
Ông D tuy thua nhưng vẫn hăm hở :
“Đúng quá đi chớ . Trứng này không bể được ! Còn nữa không ?
Cô gái cười đáp :
Cũng cái ông khỏa thân đó, ông ta lại ngồi bệt xuống đất không chịu đứng dậy thì theo «tục ngữ» các ông nói sao ?
Bốn khuôn mặt sáng láng lại sáng láng trông thật thảm thương, họ vẫn bí rị…đòi cô đáp án.
Cô gái trả lời :
Cái ông khỏa thân ngồi bệt xuống đất «tục ngữ» gọi là «Đất lành chim đậu» hiểu chưa ?


A History Of Reading
Alberto Manguel


Ghi chú trong ngày

Makine: Eden en Enfer

Thiên Đàng ở Địa Ngục

*    *

La Chanteuse vs Le Pianiste
Nữ ca sĩ ghetto vs Nghệ sĩ dương cầm

N. O. - Szpilman, selon vous, n'a pas été un héros?
A. Tuszynska. - Non, il n'a pas été un héros pur. Les héros n'existent pas. La vie n'est pas noire ou blanche. C'est plutôt gris.
N. O. -

Theo bà, S. đếch phải là anh hùng?
Không, ông ta không phải thứ anh hùng vàng ròng. Làm đếch gì có anh hùng. Nếu có thì là thứ anh hùng Lê Văn Tám.
Cứ hỏi ông Nguyên Ngọc thì biết, có bao giờ ông ta dám nhắc tới anh hùng Núp nữa đâu! Hà, hà! Ông ta sợ anh hùng quá rồi!


Nobel Peace


Mémoirs
**

Bởi vì tớ mất cơ may chết vô danh cho nên đành lâu lâu tự thổi mình, sống đếch ai hiểu tớ!
Ui chao lại nhớ câu của Hegel, khi chết than, cả đời tớ, chẳng có ai hiểu, duy chỉ 1 đấng học trò, và, quay qua tên đệ tử mắt sáng rỡ, nhưng, tội thay, hắn lại hiểu sai!

Trong bài viết về Bếp Lửa của TTT, từ năm 1973, GNV này đã phán, ông, do loay hoay hì hục viết đi viết lại mãi, chỉ 1 cuốn BL, mà bỏ lỡ 1 cuộc cách mạng, y chang Sartre, với cuốn La Nausée!
Sartre suốt đời mê làm cách mạng, nhưng khi cờ đến tay, thì lại bỏ lỡ: cuộc cách mạng văn học của Tây, sau Sartre, bắt đầu từ La Nausée.
Phải đến khi về già, Sartre mới nhận ra điều này, và thú nhận, tất cả những tác phẩm đầu đời của ông, chỉ còn lại… La Nausée!
Nhưng bảnh nhất, phải là truyện ngắn Bức Tường, Le Mur. Koestler coi đây là 1 tuyệt tác viết về cuộc chiến Tây Ban Nha.
Truyện này, thú vị nhất, là được 1 giáo sư, triết gia số 1 Mít thuổng, nghĩa là, viết lại, y chang, và cho đăng trên tờ báo VH của NMG!
*

LE ROMANCIER PHÉNOMÉNOLOGUE
Tiểu thuyết gia hiện tượng học

C'est malgré tout dans La Nausée, journal de bord d'« une épave sans mémoire», qu'on trouve sans doute les motifs littéraires les plus marqués philosophiquement. Sans être un roman à thèse, La Nausée est bien une fiction à visée métaphyysique. Sartre ne s'en cache pas : «Je voulais que la philosophie à laquelle je croyais, les vérités que j'atteindrais s'expriment dans mon roman ... » (Carnets de la drôle de guerre).

Mais ce ne sont toutefois pas les thèmes que Sartre « évoque» dans ses romans qui sont le plus significatifs. Ce n'est pas non plus le fait qu'il prête à son héros des intuitions qui préfigurent un certain nombre des développements de L'Etre et le Néant (l'angoisse, !a nausée, l'ennui), ni que l'univers, le «Monde tout nu», lui apparaisse dans son absurde, «effrayante et obscène nudité». C'est bien davantage la manière dont le romancier saisit les choses dans leur mode propre de se manifester.

C'est là que la technique romanesque sartrienne s'apparente à la méthode phénoménologique. Car, pour Sartre, toujours très conscient des procédés des écrivains, qu'il lui arrive de plagier ou de parodier avec une virtuosité sans égale, «une techhnique romanesque renvoie toujours à la métaphysique du romancier» (Situations I). Les situations, dans lesquelles s'ajointent inextricablement les choses et les êtres, sont ainsi vues à travers les postures et les gestes des personnages, et cela sans faire appel à leurs sentiments ou à leur intériorité. C'est

une phénoménologie en situation qui ne tend pas à la description objective, si par objectif on suppose un Narrateur omniscient qui saurait tout le secret des personnages et des situations. Sartre s'efforce, à la manière de Dos Passos, de faire en sorte que le lecteur n'en sache jamais plus que les personnages sur ce qui se passe....
Jean Montenot
*

Những câu phán để đời của Sartre: 

«L'HOMME est une PASSION INUTILE.»
Con người là 1 đam mê vô ích

Cette formule de L'Etre et le Néant doit sa célébrité au fait qu'elle tranche avec la terminologie technique de mise '" dans le livre de 1943. Sartre la jugera, d'ailleurs, plus tard, un peu trop littéraire! En tout état de cause, il faut la resituer dans son contexte: «Toute réalité-humaine est une passion, en ce qu'elle projette de se perdre pour fonder l'être et constituer du même coup l'en-soi qui échappe à la contingence en étant son propre fondement [ ... ]. Ainsi la passion de l'homme est l'inverse de celle du Christ, car l'homme se perd en tant qu'homme pour que Dieu naisse. Mais l'idée de Dieu est contradictoire et nous nous perdons en vain; l'homme est une passion inutile. » CQFD. 

«ABATTRE UN EUROPÉEN c'est faire d'une pierre deux coups, supprimer en même temps un OPPRESSEUR et un OPPRIMÉ: restent un homme mort et un homme libre.»
Làm thịt 1 tên Âu Châu, là bắn 1 một mũi tên chết 2 con chim

Lue aujourd'hui, cette phrase de Sartre, proférée dans la préface aux Damnés de la terre (voir p. 58), fait froid dans le dos. Prononcée dans le cadre de la lutte contre le colonialisme - cause qu'épousa Sartre dans les années 1950 -, elle pose la question, qui était déjà celle de la polémique avec Camus, du degré de violence qu'on est prêt à accepter au nom de l'exigence d'émancipation, qu'elle soit anticoloniale ou révolutionnaire. La «violence irrépressible» de Frantz Fanon est celle de «l'homme se recomposant », Ainsi, «le colonisé se guérit de la névrose coloniale en chassant le colon par les armes », et «l'arme d'un combattant, c'est son humanité ». Sartre rêvait sans doute les yeux ouverts lorsqu'il écrivit qu'avec «le dernier colon tué, rembarqué ou assimilé, l'espèce minoritaire disparaît, cédant la place à la fraternité socialiste ». 

«Du moment que je dis la DROITE, pour moi ça veut dire des SALAUDS.» 

Propos un peu raide de L'Espoir maintenant. En fait, Sartre s'en prend surtout à la gauche qui a tout lâché, perdu repères et principes, et qui laisse triompher une droite misérable. Il s'agirait de retrouver de «vrais principes à la gauche». Le salaud est une figure classique de la pensée sartrienne, il désigne celui qui a toujours de bonnes raisons de fuir sa liberté: «Les uns qui se cacheront, par l'esprit de sérieux ou par des excuses déterministes, leur liberté totale, je les appellerai lâches; les autres qui essaieront de montrer que leur existence est nécessaire, alors qu'elle est la contingence même de l'apparition de l'homme sur la terre, je les appellerai des salauds. » (L'existentialisme est un humanisme.)

« La liberté de CRITIQUE est totale en URSS.»

Titre du premier article de Libération, en juillet 1954, au retour de son périple dans la patrie du socialisme. Les propos sont dignes de ceux de Romain Rolland déclarant en pleine collectivisation forcée, qui se traduit dans les années 1930 par la liquidation de centaines de milliers de paysans: «J'ai vu en Union soviétique un élargissement remarquable des droits humains. » Sartre commente, en 1980 (L'Espoir maintenant) : «Romain Rolland n'est pas un penseur remarquable », et reconnaît devant Benny Lévy : «C'est vrai que j'en pensais du bien, moins que tu ne sembles le penser. Mais c'est que je me défendais d'en penser du mal.» Et d'ajouter: «J'ai été très peu compagnon de route, je l'ai été en 51-52, je suis allé en URSS vers 54, et presque tout de suite après, avec les événements de Hongrie, j'ai rompu avec le Parti.» Ce qui ne veut pas dire, bien au contraire, que Sartre a cessé d'être marxiste. 

« L'EXISTENCE précède L'ESSENCE.»

C'est «la» formule célèbre de Sartre. Il tient à la distinguer d'une formule voisine chez Heidegger: «L'existentialisme athée, que je représente, est plus cohérent. Il déclare que si Dieu n'existe pas, il y a au moins un être chez qui l'existence précède l'essence, un être qui existe avant de pouvoir être défini par aucun concept et que cet être c'est l'homme ou, comme dit Heidegger, la réalité humaine. Qu'est-ce que signifie ici que l'existence précède l'essence? Cela signifie que l'homme existe d'abord, se rencontre, surgit dans le monde, et qu'il se définit après. L'homme, tel que le conçoit l'existentialiste, s'il n'est pas définissable, c'est qu'il n'est d'abord rien. Il ne sera qu'ensuite, et il sera tel qu'il se sera fait. Ainsi, il n'y a pas de nature humaine, puisqu'il n'y a pas de Dieu pour la concevoir. L'homme est seulement, non seulement tel qu'il se conçoit, mais tel qu'il se veut, et comme il se conçoit après l'existence, comme il se veut après cet élan vers l'existence; l'homme n'est rien d'autre que ce qu'il se fait.»
 

« Un ANTICOMMUMSTE est un CHIEN, je ne sors pas de là, je n'en sortirai plus jamais.» 

La formule se lit en 1961 dans un texte d'hommage posthume à son alter ego en phénoménologie intitulé: « Merleau-Ponty vivant» (Situations I). Sartre y fait état, dans le passage en question, des raisons qui l'ont poussé à son compagnonnage avec le Parti communiste. La cause occasionnelle fut l'affaire du procès du quartier-maître Henri Martin, sur fond de guerre d'Indochine et de guerre froide. Malgré les injures staliniennes de 1947 - «hyène dactylographe », «rat visqueux », «vipère lubrique" et « putois déliquescent" -, Sartre avait pris son parti. Il serait du côté des communistes. «Ma vision fut transformée [ ... ] après dix ans de ruminations, j'avais atteint le point de rupture et n'avais besoin que d'une chiquenaude. En langage d'Eglise, ce fut une conversion. » Tandis que Merleau-Ponty avait découvert l'horreur du stalinisme, Sartre se découvrait une haine définitive de la bourgeoisie, «une haine qui ne finira qu'avec moi". 

«Jamais nous n'avons été PLUS LIBRES que sous l'OCCUPATION allemande!»

Phrase paradoxale s'il en est. Il s'agissait de dire (en septembre 1944) que la radicalité de la situation exigeait alors que chacun, résistant ou non, réponde par ses attitudes et ses conduites - de l'engagement à la lâcheté en passant par l'insouciance - de sa liberté de consentir ou non à la situation. Plus tard, il s'autocritiquera : «Quand j'écrivais que, quelle que soit la situation, on est toujours libre, cela me paraît aujourd'hui absurde", concédera Sartre qui, de révisions en révisions de sa propre pensée, admet que la conscience d'être libre ne suffit pas à fonder pratiquement sa liberté. 

«L'ENFER, c'est les AUTRES.»

Il faut citer la réplique de Garcin dans son intégralité, car elle se présente un peu comme la clé de Huis clos: «Alors, c'est ça l'enfer. Je n'aurais jamais cru ... Vous vous rappelez: le soufre, le bûcher, le gril ... Ah 1 quelle plaisanterie. Pas besoin de gril, l'enfer, c'est les Autres.» Garcin et les deux autres personnages de la pièce, Inès et Estelle, sont morts, enfermés et condamnés à se supporter mutuellement pour l'éternité dans un huis clos qui a donné son nom à la pièce, que Sartre avait d'abord voulu intituler Les Autres. Le propos a été mal compris, car il ne s'agit nullement pour Sartre d'affirmer que le rapport à autrui est impossible, ni qu'il faut être pessimiste au point de renoncer à toute forme de bonheur relationnel. La mort symbolise, dans la pièce, les «gens encroûtés dans une série d'habitudes»; et la majuscule dans la réplique, une certaine manière d'hypostasier autrui. Sartre entendait ainsi montrer par l'absurde qu'il est toujours possible, si l'on ne renonce pas à sa liberté, comme les morts de la pièce, de briiser le repli sur soi auquel conduisent la rumination des propos d'autrui et l'intériorisation du regard d'autrui dans le huis clos de notre for intérieur.



Pamuk: Những Sắc Màu Khác:

Độc & Đẹp & Thời Gian:
Về AdaLolita của Nabokov

Có những người viết - mặc dù họ dậy chúng ta nhiều điều về cuộc sống, về viết, về văn chương, và, mặc dù chúng ta đọc họ và sướng điên lên được - ở trong quá khứ của chúng ta. Nếu những năm sau đó, chúng ta trở lại với họ, thì không phải họ vẫn nói với chúng ta, nhưng mà là do hoài nhớ, [“thơ tình đem đọc lại, ôi ngày xưa ngày xưa, phút ban đầu cuồng dại, đâu biết gì gió mưa.” Thơ Quách Thoại], là nỗi vui trở về lại cái thời chúng ta đọc họ lần đầu. Hemingway, Sartre, Camus, và ngay cả Faulkner, thuộc vào bảng phong thần này. Bây giờ, giả như tôi cầm họ lên, tôi chẳng mong lại thấy mình sướng điên vì những đốn ngộ mới, mà tất cả những gì tôi mong muốn, là nhớ lại, như thế nào, họ đã từng có lần ảnh hưởng lên tôi, bằng cách nào họ đã tạo vóc dáng linh hồn tôi. Họ là những nhà văn tôi có thể vẫn lâu lâu ghé thăm, nhưng không phải những nhà văn tôi vẫn cần.

Đọc Thomas Bernhard trong Thời Bất Hạnh

Thế giới tiểu thuyết của T. Bernhard

TV sẽ tuần tự chuyển ngữ ba bài trên
*

Nhận định của Pamuk, về 'phong thần bảng', với những tên tuổi lẫy lừng, trong có cả sư phụ ông là Faulkner, theo GNV, không hẳn đã đúng!
Bởi vì, cả ba ông được Pamuk nhắc tới, thì mỗi ông là 1 cá biệt. Hemingway, là của thời lost generation, với đám ‘Mẽo hoang’, chúng tớ chọn Paris, để chết. Camus, là của Mặt Trời Địa Trung Hải, và cái cú bắn 4 phát vào cái thây tên Ả Rập, đúng là cú ‘tiên tri’ của cú 11/9.
Thủng thẳng, trong khi vừa dịch bài viết của P, GNV vừa phán lai rai, về những tác giả P cần, trong có Proust [đọc thêm Kundera, ngay dưới đây, nói về hậu-Proust, cũng có thể hiểu được lý do tại sao]
Trường hợp Faulkner, phải để riêng ra, lèm bèm riêng!
*
Pamuk cũng là 1 trong những đệ tử, thành đạt, của Faulkner. Ông kể cái thời bắt đầu viết, khi trả lời The Paris Review.

Interview : Dòng mở ra The New Life của ông, « Tôi đọc mỗi ngày 1 cuốn mà trọn đời tôi thay đổi. » Ông hãy thử kể ra 1 cuốn gây khốc hại như thế ? 

Âm thanh và Cuồng nộ rất quan trọng đối với tôi, khi tôi 21 hay 22 tuổi. Tôi mua 1 bản của nhà Penguin. Nó thật khó nhá, nhất là với thứ tiếng Anh ăn đong của tôi. Nhưng may quá, có 1 bản dịch tiếng Thổ nhĩ kỳ thật là kỳ tuyệt, thế là tôi bày ra, 1 bên là nguyên tác, 1 bên là bản dịch. Và đọc nửa câu nên này là ngó qua nửa câu ở bên kia. Cuốn sách để 1 dấu ấn lên tôi. Cái còn lại là 1 cái giọng điệu và tôi cứ thế phát triển ra mãi. Tôi bắt đầu viết bằng ngôi thứ nhất, số ít. Hầu hết, tôi cảm thấy dễ thở khi viết bằng ngôi số ít thứ nhất, nghĩa là nhập thân vào 1 người nào đó, thay vì viết bằng ngôi thứ ba. 

Đúng là kinh nghiệm của GNV, khi đọc Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, của Koestler, với bản dịch của Phòng Thông Tin Huê Kỳ, những ngày học Trung Học, ít tuổi hơn Pamuk, vì khi vô Đại Học, GNV 18 tuổi, và cũng là lúc khám phá ra Camus. Faulkner, phải đến lúc đi làm, có tiền, và vớ được cuốn Absalom, Absalom !, bản tiếng Tây, nrf, loại bìa trắng, tại nhà sách Xuân Thu. Hai truyện ngắn ảnh hưởng nặng nề Faulkner, là Mộ Tuyết, Cõi Khác, nhưng khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn, truyện ngắn « có thể nói » là đầu tay, trước hai truyện ngắn trên, thì GNV đã biết, mình, một cách nào đó, đã kiếm ra giọng của mình rồi, nhờ Faulkner.

Cho đến bây giờ GNV vẫn đọc Faulkner, khác hẳn Pamuk, vì ông không thuộc những đệ tử, bị ngay chính cái gọi là số mệnh bám chặt lấy, 1 số mệnh mà đọc Faulkner, là dính trấu ! Cái số mệnh bị trù, bị yếm, bị nguyền rủa, có thể nói như vậy !
Cái số phận nó nói với bạn như thế này này :

It’s because she wants it told : Bởi vì ta muốn mi phải viết ra, nói ra, là nó như thế! (1)

(1) Absalom, Absalom!


Phận lưu vong


Ở hay Về?
Tình Yêu như Trái Phá

*

"Bức Tường Lòng" của Mít, "chỉ" bắt đầu được dựng lên, vào ngày 30 Tháng Tư 1975.

*

Ngày mà Gorbatchev phán:
"Đừng có trông mong vào chiến xa của chúng ta".
Tại làm sao mà mấy chục năm trước đó, chiến xa Liên Xô dẫm nát cuộc cách mạng Prague, 1968, mà 1989, không?
Bí mật này đang được lịch sử khui ra, cũng như bí mật về một cuộc giải phóng biến thành một cuộc ăn cướp!

*

Bùi Tín ôm hôn thắm thiết Big Minh [Hình trên].

Xong, quay lại, kêu Đại Uý VC Phạm Xuân Thệ, tay lăm lăm khẩu súng:

-Đưa nó đi khuất mắt ta!
*
Gorbatchev vĩ đại vì đã ngửi ra hướng đi của lịch sử.
Bùi Tín vĩ đại, vì đã "nói thật" về cuộc chiến:
Chúng mày còn cái đéo gì mà đòi bàn giao?

Trang Kundera

Tiểu thuyết –Trùm, L'Archi-Roman


Thư ngỏ nhân Sinh nhật Carlos Fuentes.
Mon Cher Carlos,
Sinh nhật của bạn nhưng cũng là của tôi : Bạn ăn mừng 70, thất thập cổ lai hy, và cũng đúng 30 năm đã qua, kể từ khi tôi gặp bạn ở Prague. Bạn tới đó, vài tháng sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, với Julio Cortazar, với Gabriel Marcia Marquez, để tỏ mối lo âu của bạn, với chúng tôi, những nhà văn Tiệp.
Vài năm sau đó, tôi định cư ở Pháp, còn bạn, là vị đại sứ của Mexico. Chúng ta thuờng gặp nhau, trò chuyện. Chính trị thì ít, nhưng tiểu thuyết thì nhiều. Đặc biệt là về cái món tiểu thuyết, cả hai thật gần gụi với nhau.
Thời kỳ đó, chúng ta đều ngỡ ngàng về cái sự bà con giữa xứ sở Châu Mỹ La Tinh lớn lao của bạn, và xứ Trung Âu nhỏ bé của chúng tôi, hai mảnh đất của thế giới đều mang nặng dấu ấn hồi ức lịch sử về 1 thời kỳ baroque, và nó làm cho nhà văn trở nên quá nhạy cảm với sự quyến rũ, mồi chài của sự tưởng tượng mang tính kỳ quái dị, thần tiên, ma mị. Và còn 1 điểm chung nữa : hai phần đất của chúng ta đều đóng 1 vai trò quyết định trong cuộc tiến hoá của tiểu thuyết thế kỷ 20, tiểu thuyết hiện đại, hay có thể nói, thời kỳ sau-Proust : thứ nhất, trong những thập niên 1910, 1920, 1930, nhờ ở nhóm Nhị Thập Bát Tú, là những tiểu thuyết gia lớn của phần Âu Châu của tôi : Kafka, Musil, Broch, Gombrowicz… (chúng tôi ngạc nhiên vì nhận ra 1 điều là đã dành cho Broch một sự ngưỡng mộ lớn lao hơn nhiều, so với những đồng bào của ông ngưỡng mộ ông, và cũng thật khác biệt, so với họ : theo chúng tôi, ông ta mở ra những khả thể mới mang tính mỹ học của tiểu thuyết ; ông ta, trước hết, là tác giả của cuốn Những kẻ mộng du) ; rồi thì, trong những năm 1950, 1960, 1970, nhờ ở 1 chòm Nhị Thập Bát Tú khác, trong phần đất của các bạn, tiếp tục biến đổi mỹ học của tiểu thuyết : Juan Rulfo, Carpentier, Sabato, rồi bạn và những bạn bè của bạn.
Hai điều trung thành xác định chúng ta : trung thành với cuộc cách mạng nghệ thuật hiện đại của thế kỷ 20 ; và trung thành với tiểu thuyết. Hai sự trung thành đó chẳng hề tụ hội. Bởi vì [trường phái] tiền phong (nghệ thuật hiện đại trong ấn bản ý thức hệ hóa của nó) luôn luôn xếp xó tiểu thuyết ở bên ngoài chủ nghĩa hiện đại, coi nó như là đã bị vượt qua, mang tính qui ước không sao chịu đựng nổi, nghĩa là, miễn bàn. Nếu, sau này, vào những năm 1950, và 1960, những đấng tiền phong 'hậu phong' bắt đầu tái sáng tạo và tuyên xưng chủ nghĩa hiện đại dành cho tiểu thuyết, họ đã làm điều này, thuần túy theo 1 đường hướng mang tính phủ định: một cuốn tiểu thuyết không nhân vật, không tình tiết, không câu chuyện, không chấm câu, nếu có thể, thứ tiểu thuyết tự gọi nó, hay để cho mọi người gọi nó là phản- tiểu thuyết [từ này của Sartre. GNV].
Kỳ cục: những người sáng tạo ra thơ hiện đại không có ý làm cái gọi là phản thơ. Ngược lại, kể từ Baudelaire, chủ nghĩa hiện đại thơ ca cố tới gần, một cách thật là triệt để, cái yếu tính của thơ, cái chiều sâu thật đặc trưng của nó. Trong cùng 1 đường hướng như thế, tôi tưởng tượng ra 1 thứ tiểu thuyết hiện đại không phải như phản-tiểu thuyết nhưng mà là tiểu thuyết-trùm, hay tổng-tiểu thuyết, hay tiểu thuyết-vua, an arch-novel. Cái thứ tiểu thuyết-trùm này, thì, thứ nhất, xoáy vô điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói, đám khác đi chỗ khác chơi, cho được việc tiểu thuyết; thứ nhì, nó sẽ làm sống lại tất cả những khả thể bị lơ là, bị bỏ quên, mà nghệ thuật này đã tích luỹ được trong bốn thế kỷ của lịch sử của nó. Hai mươi lăm năm trước đây, tôi đọc cuốn Terra Nostra của bạn: tôi đọc đúng cái thứ tiểu thuyết có tên do tôi phịa ra đó: 1 cuốn tiểu thuyết-trùm. Điều này chứng tỏ, quả có thứ đó, có thể có thứ đó, và sẽ còn có nữa, nữa.
Thứ hiện đại lớn lao của tiểu thuyết. Cái mới thật khó khăn, và thật ngỡ ngàng.
Ôm bạn quí của ta,
Milan

Note: Bài viết trên là cái thư K viết cho tờ L .A Times, vào năm 1998. Bản tiếng Anh bỏ đi phần Milan Kundera viết thêm, về Broch. TV post cả hai, sau đây; trong vài từ viết thêm này, thú vị là, K có nhắc đến Annah Arendt, và bài viết của bà về Broch, và thú vị hơn nữa, bài này TV đã ‘đi’ (1) rồi !

(1)    Thế còn cậu, có ‘đi’ không ?
- Không, tôi không ‘đi’ !
Đây là cái mẩu đối thoại, giữa GNV và 1 mắm mì, lần đầu tiên theo mấy đàn anh Nam Bộ, là bạn quí HPA, dân biểu DVB lên xóm. 

Cuốn tiểu thuyết-vua mà K muốn vinh danh, là cuốn « Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố », tức cuốn La Peau [Làn Da] mà GNV này đã chuyển ngữ, từ những năm trước 1975, của Malaparte, một nhà văn Ý, mà K coi là 1 tiền khuôn mẫu, pré-modèle, của nhà văn dấn thân. Một tay ở trong nước tính ‘đi’ lại cuốn này, và GNV có đề nghị, nếu đi, thì phải đi trọn gói, nghĩa là dịch toàn bộ cuốn truyện, vì khi GNV dịch, bỏ đi đến 2/3 cuốn sách, theo đề nghị của ông Nhàn chủ nhà xb Vàng Son.

Có 1 giai thoại về bản dịch này. Khi GNV dịch xong, ông Nhàn đem trình [chắc thế] cho tay Khoát, hay Quát, là chủ nhà xb Sóng Mới, chủ đích thực của nhà xb VS của ông Nhàn. Tay chủ SM bèn đưa cho tay NL, tác giả Đôi Mắt Người Xưa [ ?] kiểm tra ; theo ông Nhàn kể lại với Gấu, tay này mê quá, nhưng tiếc hùi hụi, bản dịch tuyệt cú mèo, nhưng bỏ đi nhiều quá !

Bạn phải đọc cuốn La Peau, thì mới hiểu được cái sự tiếc hùi hụi của NL. Cuốn truyện miêu tả những ngày Yankees mũi lõ giải phóng đất Ý, và có rất nhiều nét y chang cái cảnh quân đội Mẽo, những năm có mặt tại Miền Nam ! GNV không hiểu tại làm sao mà ông Nhàn, rất ư là cù lần, mà thật là tốt bụng, lại kiếm ra cuốn này, và đưa Gấu dịch !

**

*

Mon, June 21, 2010  

Anh Tru than,
Lau qua khong nhan duoc tin tuc tu anh. Thinh thoang van vao TAN VIET doc bai.
Suc khoe anh dao nay ra sao?
Anh con nho hinh anh nay khong? Saigon 1972 tai quan Huong Xua quan GoVap. 
Nguyen Dinh Thuan hoi tham anh
Dia chi e-mail cua NDT:
Than,
Ng Tr Khoi

Hi, bạn ta!
Cái hình, luôn cả website của bạn, có trên TV rồi.

NTK

Gấu nhớ hoài không ra hình chụp khi nào, ở đâu, chỉ nhớ, thời gian làm cho ông Nhàn.

Cả 1 đoạn đời của GNV, những ngày ‘hard times’, còn lại, là nhờ bức hình trên đây. Còn 1 cái nữa, chụp đúng vài ngày sau 30 Tháng Tư 1975, tại Sở Thú, cùng với Cậu Tư, Tư Long, của Gấu Cái. Không có Cậu Tư, chắc là chết trong trại cải tạo Bà Bèo, năm 1985, sau chuyến vượt biển tại Bãi Vàm Láng.


Khi Đỏ là Đen