*

Album


*

*

D-day, 2011


*

*



*

Circles of Hell

Michael Scammell

Voices from the Gulag
edited by Aleksandr Solzhenitsyn
and translated from the Russian by Kenneth Lantz.
Northwestern University Press, 414 pp., $29.95 (paper)

Gulag Voices: An Anthology edited by Anne Applebaum.
Yale University Press, 195 pp., $25.00

The Victims Return: Survivors of the Gulag After Stalin
by Stephen F. Cohen.
Publishing Works, 216 pp., $22.95

Gulag Boss: A Soviet Memoir
by Fyodor Vasilevich Mochulsky,
translated from the Russian and edited by Deborah Kaple.
Oxford University Press,
229 pp., $29.95

Cái từ "quần đảo", trong cụm từ "Quần đảo Gulag", ở đâu mà ra?

Trước giờ, Gấu cứ nghĩ, từ "quần đảo" này, là để chỉ những đảo nho nhỏ, là những trại tù, ở rải rác trên đại dương lớn lao, là nước Nga khổng lồ.
Thì đúng như thế, nhưng chưa bao giờ Gấu này băn khoăn, ai là người đầu tiên nghĩ ra, vì đinh ninh, Sozhenityn chứ còn ai vào đây nữa.
Michael Scammell, tác giả cuốn tiểu sử Koestler, cũng nghĩ như vậy.

Trong bài điểm một số tác phẩm về Gulag, Những Tầng Địa Ngục, Circles of Hell, trên NYRB, 28.4.2011, ông nghĩ, nó từ trí tưởng tượng của Solz mà ra, để ăn nhịp với từ Gulag.
Từ này cũng rất ư là quái đản, bởi vì không ai có thể ngờ được, cái bóng khủng khiếp của nó phủ lên cả nửa trái đất, còn nửa kia, thuộc về Holocaust, và cả hai, bi giờ, đi vô từ điển, không viết hoa, trở thành 1 từ thông thường, để bao gồm tất cả những hình thức tương tự, những “hậu duệ” của chúng.

Trong bài viết, ông cho biết, chủ nhân đích thực của từ “quần đảo”, trong cái nhịp đầy đủ bằng tiếng Nga của nó, Arkhipelag Gulag, là từ một câu nói phét của 1 ông trùm sa đích, a sadistic boss, tên là Degtyarev, Trùm Solovski, một trại tù Gulag lớn nằm trên quần đảo Solovetsky Islands, Bạch Hải, White Sea, không xa Bắc Cực, Arctic Circle.

Kiệt tác của Degtyarev, là tuyển chọn những tù nhân đích thân hành quyết, và xử bắn. Vì vậy mà hắn có cái nick là “Bác sĩ Phẫu thuật của Trại”, ‘camp surgeon’. Hắn còn nhiều nick khác nữa, [chắc không thua Tướng Givral, bạn của GNV] thí dụ:
Chỉ huy trưởng Lực Lượng Quần Đảo Solovetsky
[Commander of the Forces of the Solovetsky Archipelago].

Khi Solz. nghe được nick này, từ một nhà khoa bảng ngữ văn nổi tiếng, Academician Dmitry Likhachev, một cựu tù Solovski, ông tóm liền vì là một ẩn dụ tuyệt hảo cho đề tài, và đi vào cái tít cuốn sách, thật ăn nhịp với từ Gulag.


*

Khi Xứ Mít được Nobel Toán, Gấu đã tưởng tượng ra cái cảnh trên: NBC, đứng giữa Ba Ðình, một tay giơ quả đấm chỉ chỉ về Lăng Bác [cái này thuổng Kỵ Sĩ Ðồng của Pushkin] (1), một tay cầm cái bửu bối Nobel, phán: DM, cái chế độ khốn kiếp này đi chỗ khác chơi!

Hóa ra, cảnh xẩy ra ở Buenos Aires, dưới sự chứng kiến và ban phước lành của Borges.
Và Bùi Chát, chuyên chửi tục, thì lại ăn mặc rất chỉnh tề, và phán rất là thật nhã nhặn, thật lịch sự!

Tuyệt!

TV sẽ, thay vì chúc anh, và nhóm của anh, thì dịch bài viết trên tờ [báo Tây] Books, vinh danh Lưu Hiển Ba, đúng tinh thần Uỷ Ban trao giải xuất bản sách báo cho Bùi Chát.
Như thế chúng ta có thể coi đây là giải Nobel Hòa Bình của Mít.

Ðúng như vậy!
NQT

(1)

Đây là một trong những "quái vật" của Petersburg. Bức tượng kỵ sĩ đồng đứng trên một cái bệ đá nặng trên 15 ngàn tấn, hàng ngàn người đã mất 3 năm di chuyển nó từ một nơi cách xa thành phố 12 dặm. Đám sĩ quan nổi loạn tin tưởng khi bắt buộc nhà vua phải chia sẻ quyền lực, họ có thể làm cho Peter từ bỏ ý định Âu hóa và để ý đến những vấn đề ở trong nước. Biến cố này đã được Puskhin ghi lại trong trường thi Kỵ sĩ Đồng, 1833. Mở đầu là một ngợi ca vì vua và thủ đô của ông, bài thơ đột nhiên chuyển giọng, kể lại thảm kịch của một viên chức nghèo, Yevgeny, đã mất những người thân yêu trong trận lụt 1824. Như phát khùng vì nỗi nhớ thương, anh nắm chặt tay chỉ về phía bức tượng ông vua, người đã xây dựng thành phố trên mặt nước rồi bỏ chạy, bị dượt đuổi bởi chính "thần tượng" là mình! Cuộc dượt đuổi cứ tiếp tục hằng đêm, và tiếng vó ngựa khủng khiếp vang rền khắp những con phố hoang vắng. Khi anh tự hỏi, phải chăng anh đang mơ, giấc mơ kinh hoàng là trận lũ lụt tàn bạo, thi sĩ ngắt lời nhân vật của mình: Phải chăng đời sống chỉ là một giấc mơ rỗng tuếch, một màn kịch tiếu lâm, được trình diễn với phí tổn của trời và đất?

Nơi Người Chết Mỉm Cười


*

Cái tít, dịch ra tiếng Mít:
Bùi Chát và sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà!
Hà, hà!


LIU XIAOBO ET LA LÂCHETÉ DES ÉLITES CHINOISES

Un recueil d'articles du prix Nobel de la paix permet de découvrir son analyse féroce du contrat social chinois et de l'hédonisme complice de l'intelligentsia.
LE LIVRE: La Philosophie du porc et autres essais, de Liu Xiaobo, traduit par Jean-Philippe Béja, Gallimard, 520 p., à paraître le 24 mars.

Condamné à onze ans de priison en décembre 2009 pour incitation à la subversion, Liu Xiaobo est sans doute aujourd'hui le plus célèbre dissident chinois. C'est avec l'attribution du prix Nobel de la paix à l'automne dernier que l'Occident a découvert ce militant des droits de l'homme, rédacteur de la Charte 08 qui appelait à réformer et démocratiser le régime de Pékin. Les éditions Gallimard traduisent aujourd'hui pour la première fois une quinzaine d'articles, publiés au fil des ans par Liu Xiaobo dans la presse de Hong Kong et sur Internet.
Dans un texte de 2006, intitulé « La crise de gouvernance provoquée par la réforme », Liu Xiaobo revient notamment sur les événements de la place Tiananmen en juin 1989, auxquels il a participé activement. Pour le dissident, non seulement « la légitimité politique du système communiste chinois a alors été profondément ébranlée », mais « les citoyens ont pris conscience de leurs droits. Or, une fois cette conscience réveillée, la naissance d'un mouvement populaire de défense des droits civils était inévitable ». Il dénonce dans ce même article le comportement de la majorité de l'intelligentsia, qui « s'est vite transformée en apôtre de la position officielle de “priorité à la stabilité" et de "priorité à l'économie" ». Avant de conclure que, en Chine, « l'intérêt a remplacé la loi et la conscience ». Telle est la « philosophie du porc », qui donne son titre à l'ouvrage.
Car Liu Xiaobo décrit d'abord dans ce livre la façon dont « les élites se sont laissé acheter par le régime, y compris certaines figures éminentes qui avaient pourtant eu le courage de s'attaquer au système », expliquent Hannah Beech et Ausstin Ramzy, correspondants de Time Magazine à Pékin. Pour Liu Xiaobo, « l'apparition de l'hédonisme chez les élites chinoises » est avant tout « le résultat de la soumission à la terreur institutionnalisée ».
« Ses articles offrent une analyse extrêmement lucide du nouveau contrat social imaginé par Deng Xiaoping après son voyage du Sud pour relancer le développement économique en 1992, explique pour sa part le sinologue et traducteur français de Liu Xiaobo, Jeanlippe Béja, dans un entretien accordé au blog The China Beat. Face à cette critique sans concesssion des élites, Liu fait l'éloge des simples citoyens. » Pour lui, c'est la pression exercée par la société sur le pouvoir qui oblige les dirigeants à faire évoluer leur idéologie et procéder à des réformes. « Liu a par ailleurs toujours insisté sur le fait que les droits et la liberté de ses compatriotes sont garantis par la Constitution et les lois chinoises, qu'il faut à présent appliquer », notait le militant Xu Youyu en 2010, dans sa « Lettre ouverte au comité Nobel », qui demandait l'attribution du prix à Liu Xiaobo. Cet optimisme et cette foi dans la nature humaine touchent profondément le journaliste américain Scott Simon. Commentant les textes du dissident chinois sur le site d'information de la radio publique américaine NPR, l'éditorialiste affirme que « les mots de Liu » sont ceux d'un « homme sensible, qui aspire comme nous tous "non pas à l'amour universel, mais à être aimé seul", comme l'écrit le poète W.H. Auden ». Pourtant, c'est bien « pour ses mots que Liu est derrière les barreaux », note Jonathan Mirsky dans la New York Review of Books. + 

Bị kết án 11 năm tù Tháng Chạp 2009 vì tội xúi giục lật đổ nhà nước, Lưu Hiển Ba hiện là nhà ly khai nổi tiếng nhất ở TQ. Và nhờ cái vụ trao giải Nobel Hòa Bình vừa rồi,  thiên hạ khám phá ra nhà chiến đấu cho nhân quyền, còn là người soạn thảo Hiến Chương 08, kêu gọi đổi mới, và dân chủ hóa chính quyền Bắc Kinh.
Nhà Gallimard cho xb lần đầu tiên chừng mười lăm bài viết của ông, tuần tự viết theo ngày tháng, trên báo chí Hong Kong, hoặc trên net.
Trong một bài viết năm 2006, nhan đề, “Cuộc khủng hoảng chính quyền do đổi mới gây ra”, Liu nhấn mạnh tới biến cố Thiên An Môn mà ông trực tiếp tham dự một cách tích cực. Với con người ly khai này, qua sự kiện TAM cho thấy, không chỉ “tính hợp pháp của chính quyền bị lung lay trầm trọng”, mà còn là, “những công dân ý thức ra quyền của họ. Và 1 khi ý thức ra được điều này, sự ra đời của một lực lượng dân chúng nhằm bảo vệ quyền công dân, là chuyện không thể tránh được”. Trong cùng bài viết, ông tố cáo thái độ của đa số tầng lớp trí thức, liền lập tức trở thành cái loa rao giảng của nhà nước về “ưu tiên ổn định”, “ưu tiên kinh tế”. Tại TQ, “lợi nhuận thay thế luật pháp và lương tâm”, và đây là “triết lý của con lợn" ông kết luận bài viết, từ đó là cái tít của cuốn sách.
Trong cuốn sách, Liu miêu tả cách thức mà tầng lớp tinh anh để bị mua chuộc bởi chế độ; trong số đó, có cả một vài khuôn mặt nổi tiếng đã từng can đảm lên tiếng chỉ trích nhà nước, Hannah Beech và Austin Ramzy, ký giả của tờ Time Magazine ở Bắc Kinh, giải thích.
Theo Liu, sự xuất hiện của “chủ nghĩa hoan lạc ở đám tinh anh TQ” thì trước hết, là “kết quả của sự hạ mình, thần phục trước sự khủng bố được hiến pháp hóa”.
Những bài viết đưa ra một nghiên cứu sáng suốt cái khế ước xã hội mới, được Đặng Tiểu Bình vẽ ra, sau chuyến đi thực tế về phía Nam, để tái phát động cuộc phát triển kinh tế vào năm 1992. Trong khi chỉ trích hết lời đám tinh thèm hoan lạc, Liu biểu dương những "công dân bình thường". Ông nhấn mạnh sự kiện, quyền công dân và sự do của họ được bảo đảm bởi hiến pháp và luật pháp TQ, và vào lúc này, phải áp dụng. Trong Thư Ngỏ gửi Uỷ ban Nobel đề nghị trao giải cho Liu, Xu Youyu, một nhà ly khai nhắc tới điều này.
Sự lạc quan và niềm tin của Liu làm ký giả Mỹ Scott Simon thực sự xúc động. Trên phương tiện truyền thông là đài phát thanh NPR, ở Mỹ,  ông đưa ra nhận xét, những “từ ngữ của Liu” thì là của một người mẫn cảm, như của tất cả chúng ta, nhưng không phải để cùng hướng về một tình yêu phổ cập, mà là để được yêu thương đơn độc, như nhà thơ W.H. Auden phán.
Tuy nhiên, “chính là do những từ ngữ như vậy, mà ông đi tù”,  theo Jonathan Mirsky, trên tờ NYRB.

*

**

Cái tít này, “Dịch là nghệ thuật buôn lậu”, được gợi hứng từ của Gấu,
bài đầu tiên viết cho SCN, talawas: "Dịch là cướp"!

*

Roberto Bolano: Lèm bèm lần chót


*

Âu Châu trong mơ của Kundera

Bài viết về Kundera trên tờ Books, số mới nhất, Tháng Ba 2011, [tờ này theo Gấu, bảnh nhất hiện giờ, vượt biên cương Pháp, vì giới thiệu không chỉ văn Tây, không như tờ Magazine Littéraire, thí dụ], thật tuyệt.

Bài viết, nhân Kundera vô Pléiade, ngay từ khi còn sống, nhân ở quê hương của ông cho xb một tác phẩm tập thể, [ouvrage collectif], về ông, nhưng hơn hẳn thế, đưa ra 1 cái nhìn thật là bảnh về Âu Châu! 

Ông ta hết còn là 1 tác giả của 1 cái xứ ở dưới đó, một xứ CS!

Trung Âu là 1 ám dụ về phía âm u, une allégorie du côté sombre, của thế kỷ 20, thông qua, via, sự vinh danh của cái “căn cước thật” của nó.

Tiểu thuyết, một biểu hiện sáng suốt, une expression lucide, của thế giới.

Nếu tiểu thuyết là 1 nghệ thuật, thì sự khám phá ra văn xuôi, la prose, là nhiệm vụ của nó, và không có 1 thứ nghệ thuật nào khác làm được điều này.


The Invisible

People here still tell stories
About a blind old man
Who rolled dice on the sidewalk
And paid children
In the neighborhood
To tell him what number came up. 

When they were away in school,
He'd ask anyone
Whose steps he heard,
The mailman making his rounds,
The undertakers loading a coffin in their black wagon,
And you, too, mister,
Should you happen to come along.

Kẻ Vô Hình

Người ở đó vẫn truyền tụng
Về một ông già mù
Thẩy xúc xắc bên lề đường
Và giúi tiền cho mấy đứa con nít
Để chúng cho ông biết
Con lục, hay con nhất. 

Khi chúng ở lớp học
Ông hỏi bất cứ một người
Khi nghe tiếng chân
Anh đưa thư đi lòng dzòng
Đám nhà hòm đưa hòm lên xe tang
Hay chính ông, Thưa Ngài
Nếu ông lớ ngớ mò tới đó

Note: Bài thơ dài này, của Charles Simic, GNV cảm thấy có 1 cái gì đó, như là 1 ẩn dụ, móc tới "người vô hình" đột nhiên biến thành hữu hình, là Bùi Chát, “khăn đóng áo dài, đứng trên đài cao, nhận giải Tự Do Xuất Bản".
Vinh danh thêm bạn, bằng những dòng viết về Brodsky
của David Remnick

Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ. Ông không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ ngồi làm những bài thơ "xấu xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả" từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã làm ông "ngộ" ra:

Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique, 

Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet. 

Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp, 

Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng. 

Auden 

Ông bị xúc động không hẳn bởi cách mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó ra như trong dân ca - nhưng bởi ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này: Ngôn ngữ là trên hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả thời gian cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky coi đây là đề tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của ông, và là nguyên lý trung tâm của thơ xuôi và sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu đầy như thế đó, ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng, áo choàng, ông bước lên bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương, nói về tính độc đáo của văn chương không như một trò giải trí, một dụng cụ, mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác phẩm của ông là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng mà văn chương bày tỏ trước nhà nước, tự bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái thường hằng - cái vô cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu hạn. Một cách ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn tự cho phép can dự vào những công việc của văn chương, khi đó văn chương có quyền can thiệp vào những vấn đề của nhà nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống nào nói chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá khứ muốn áp đặt chính nó lên hiện tại, và nhiều khi luôn cả tương lai."

Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy



*

Khánh Trường & Nguyễn Ðức Quang @ Viễn Ðông Magazine cc 1990


Tỏa Sáng Ðộc Ác  

*

Quản giáo, cai tù Pol Pot, giống như của Stalin, có cái thú trước khi làm thịt ai thì cho chụp hình làm kỷ niệm

"Who are you who will read these words and study these photographs, and through what cause, by what chance, and for what purpose, and by what right do you qualify to, and what will you do about it?"

"Perhaps the camera promises a festive cruelty", Judith Butler has suggested, of the images of Abu Ghraib; she writes provokingly of "the moral indifference of the photograph, coupled with its investment in the continuation and reiteration of the scene as a visual icon". Thus are Sontag's theories dealt with. Butler's are still current. Linfield joins a select company.


Thời sự qua Hình ảnh

Japan Crisis & Liz Taylor đi xa & Kundera vô Pléiade

*

Lịch Sử Lập Lại - Bài học về Hiroshima
Tác giả: Kenzaburo Oe
[Bản tiếng Việt của Hải Hà]
*

Mười tám tuổi, Oe làm chuyến du lịch thứ nhất trong đời, bằng xe lửa, tới Tokyo; nơi ông bắt đầu cuộc đời sinh viên, và nhà văn. Ông viết những truyện ngắn đầu tiên khi đang học văn chương Pháp tại Đại học Tokyo, và tiếng tăm nổi như cồn vào thời gian ông tốt nghiệp, khi được trao giải văn chương Akutagawa Prize, cho truyện ngắn "Prize Stock", vào năm 1958. Cũng năm này, ông cho xuất bản tiểu thuyết đầu tiên, Nip the Buds, Gun the Kids, viết về cuộc di tản trong thời gian chiến tranh mười lăm học sinh trai thuộc trường reform-school tới một nơi rất giống làng Ose.

"Thuở thoạt đầu, tôi là một nhà văn khá hạnh phúc," ông nói, bằng một thứ tiếng Anh rõ ràng nhưng ngần ngại. "Có bóng dáng của chiến tranh và sự chiếm đóng của người Mỹ, điều này gây nhức nhối ở giới trẻ, nhưng nói chung, tôi cảm thấy hạnh phúc. Tới năm hai lăm hoặc hai sáu tuổi, tôi mất hết mọi ý nghĩa về căn cước của mình, mất luôn cả cái cảm giác, hoặc ý nghĩ, rằng mình ổn định, của thời gian trước đó. Mấy năm liền tôi luẩn quẩn với ý định tự tử. Rồi thì, vào năm 1963, con trai tôi ra đời. Một cách nào đó, đứa nhỏ là hiện thân của nỗi bất hạnh của tôi. Do sọ phát triển quá khổ, nó giống như một đứa bé với hai cái đầu. Đây là thời gian khủng hoảng ghê gớm nhất trong đời tôi. Những vị y sĩ cho biết, quyết định giải phẫu đứa trẻ, hay không, là tùy thuộc vào vợ chồng chúng tôi. Nếu không giải phẫu, Hikari sẽ chết ngay sau đó. Giải phẫu, đứa bé có thể sống, nhưng với rất nhiều, rất nhiều khó khăn. Con trai tôi ra đời ngày 13 tháng Sáu, và tôi đi Hiroshima vào ngày Một tháng Tám. Hiraki vẫn còn ở trong bệnh viện. Tôi chạy trốn đứa bé. Đây là những ngày nhục nhã, tủi hổ của tôi, mỗi lần nhớ lại. Tôi muốn chạy trốn, tới một chân trời nào khác. Tôi được yêu cầu thực hiện một phóng sự về Hiroshima, và tôi bỏ đi, chạy trốn tới đó thì đúng hơn, với ý định gặp gỡ những chính trị gia, bác sĩ, và những nhà hoạt động tại một cuộc hội họp quốc tế chống vũ khí nguyên tử. Chán ngán chính trị gia, và ba câu chuyện của họ, tôi bỏ đi liền, tới một bệnh viện, nơi những nạn nhân sống sót trái bom được chữa trị. Ở đó, tôi gặp giám đốc, một vị bác sĩ lớn, Fumio Shigeto, và chúng tôi nói chuyện hàng giờ đồng hồ. Đêm hôm đó, tại căn phòng nơi khách sạn, tôi soạn lại những gì ông đã nói, về chuyện làm cách nào gìn giữ, bảo vệ những nạn nhân của bom nguyên tử, tôi bắt đầu nhìn ra ở trong tôi, một hình ảnh mới về con người. Thật khó mà cắt nghĩa, giải thích, nhưng suy nghĩ của tôi bắt đầu thay đổi."

Oe ngưng nói, đưa mắt nhìn con trai, lúc này đang ngồi tại một cái bàn ở trong phòng. Kikari nhấc chén trà đưa lên gần mặt, chăm chú quan sát từ mọi góc cạnh, nhìn cái bóng phản chiếu của mình ở trên đó, giống như trên một tấm gương lồi. Anh loay hoay một lúc, rồi ngước mắt nhìn bố, mỉm cười. Và ông bố mỉm cười lại, rồi quay đi, tiếp tục câu chuyện của ông.

Thế là vào bữa Thứ Bẩy, như tôi còn nhớ được, tôi trình bày tình trạng đứa con trai với Bác sĩ Shigeto Ông nói với tôi về một vị bác sĩ nhãn khoa trẻ làm việc dưới quyền ông. Như bạn biết, ở Hiroshima, nhiều người mắt bị tổn thương, do ánh sáng chói lòa của trái bom nguyên tử, hoặc do những miểng kính. Vị bác sĩ trẻ này, sau tự tử, lúc đó đang trong cơn chán ngán cùng cực. Anh nói với ông thầy: "Làm sao bây giờ? Chúng ta đâu biết gì về hậu quả của phóng xạ? Tôi không biết chữa trị họ như thế nào." Bác sĩ Shigeto bảo anh: "Với những người bị thương, nếu họ đang đau đớn, chúng ta phải làm một điều gì cho họ, cố gắng chữa trị họ, cho dù chúng ta không có một phương pháp nào." Nghe ông nói tôi cảm thấy thật là xấu hổ. Tôi đã chẳng làm gì cho con tôi – con trai của tôi, nó câm lặng, chẳng thể biểu tỏ nỗi đau đớn, chẳng thể làm điều gì cho chính nó. Và tôi hiểu, tôi phải đối mặt với con tôi, yêu cầu bệnh viện thực hiện ca giải phẫu, và cố gắng đủ mọi cách để chăm lo nó. Tôi trở về Tokyo, và con trai tôi trải qua cuộc giải phẫu.

Cha và Con

Gấu biết tới Oe, là nhờ bài viết của David Remnick, ký giả Mỹ. Bài trên đây là chuyển ngữ bài viết của ông, Cha và Con, A Father and His Son (Feb, 1995), trong "Vấn đề Quỉ Ma và những chuyện thực khác, The Devil Problem and other true stories", nhà xb Vintage, Nữu Ước. Ông là ký giả của tờ Người Nữu Ước, và đã từng được giải thưởng Pulitzer, với cuốn Ngôi mộ của Lênin: Những ngày cuối cùng của Đế quốc Xô viết.

Bạn không thể tưởng tượng ra được, khi đọc bài viết, Gấu sợ hãi đến như thế nào đâu.

Một độc giả TV, chắc cũng cùng một nỗi chấn động thê lương như thế, viết, “…Ui chao, cả một trời hiểu biết mà không hiểu biết thêm về Cha và Con là cả một thiếu sót lớn trong cuộc đời!”

…. Tôi có gửi lên một trang mạng nhưng vị quản lý trang mạng không mặn lắm, vị bảo là tác giả chê việc dùng năng lượng nguyên tử nhưng không có đề nghị cách nào tốt hơn và hiện nay năng lượng nguyên tử là cách sạch nhất và ít tốn kém nhất.

HH

Tôi sinh ra ở phiá mấy kẻ tật nguyền

Tôi là người bị phỉ nhổ nhiều nhất tại Nhật Bản

Nhân dịp cho ra lò tập truyện viết từ hồi còn trẻ, một trong những nhà văn lớn lao nhất của Nhật, Nobel văn chương 1994, Kenzaburô Oé, tâm sự.

Một bài học về minh triết. 

Người Quan Sát Mới:
Trong những hoàn cảnh như thế nào, khi ông thai nghén chúng, cách đây năm chục năm, những truyện ngắn “Faste des morts”? (1)

Kenzaburô Oé:

Tôi viết chúng từ những năm mình 23, 25 tuổi. Lúc đó tôi là sinh viên môn văn chương Tây tại đại học. Tôi đọc bản dịch sang tiếng Nhật những tiểu thuyết Tây rất mới mẻ vào thời kỳ đó. Và tôi so sánh từng chữ với nguyên tác. Đúng là một văn phong, khác, thật khác, đến ngỡ ngàng. Nhưng cuốn gây chấn động ở nơi tôi, là “Thời gian của những người chết, Le Temps des morts”, của Pierre Gascar, được giải thưởng văn học Tây Goncourt, hai năm trước đó.

-Những truyện ngắn trong "Faste..." tối tăm, tàn bạo. Chẳng lẽ trẻ như thế, ông đã bị Thần Chết ám ảnh?

Hồi nhỏ, tôi quấn quýt bên bà tôi. Bà truyền lại cho tôi chuyện xưa tích cũ trong làng. Bà mất liền ngay sau bố tôi, vào năm chót của cuộc chiến. Gia đình tôi như thế là được cái chết viếng thăm, nhưng đâu phải chỉ riêng gia đình tôi mà cả nước tôi. Đúng như thế đấy, tôi bị cái chết ám ảnh. Bây giờ, 70 tuổi, cũng chẳng khác. Ông anh em bà con, bạn rất thân hồi trẻ, tự tử. Tại sao mình không noi gương anh ta, tôi đã từng tự hỏi chính mình nhiều lần. Tôi đã viết một bộ ba, cuốn chót vừa mới ra lò tại Nhật, trong đó, tôi để cho tất cả những bạn cũ của mình chết, còn tôi, nửa chết, và trong tình trạng như thế đó, tôi có thể trò chuyện với họ. Bây giờ, thần chết không làm tôi quá ớn như là những ngày nào.

-Tri thiên mệnh?

Mặc dù những nhọc nhằn của cuộc sống, phải nói là, thế giới này có chút ‘khoan dung’ [clément] đối với tôi. Bạn chắc biết câu của Flaubert, nhân nói về cuốn Bà Bovary của mình, đã phán, ta muốn đi tới 'tâm hồn của sự vật', ‘l’âme des choses’. Trong những cuốn sách của tôi, tôi có cảm tưởng, mình muốn đi tới tâm hồn của cái chết. Chính vì thế mà tôi chấp nhận ý nghĩ về nó, với một sự bình thản. Trong “Quatre Quatuors”, T.S. Eliot viết, khi cái chết tới gần, phải “ngọ nguậy nhè nhẹ, và thật là nhè nhẹ.”. Chính là trong sự bình thản, chậm rãi đó tôi đưa đẩy mình về phía cái chết, trong khi giữ cho trạng thái tinh thần của mình luôn luôn tỉnh táo.

-Mấy truyện trong “Faste..” chắc là đụng độ dữ dằn, tôi muốn nói, gây sốc, ngay khi vừa xuất hiện tại Nhật?

Đúng như thế. Chúng gây sốc. Quá mới, quá khác . Chúng như đập vào mặt độc giả, họ cảm thấy tởm. Những suy nghĩ của tôi, kể luôn cả quan điểm về hoàn cảnh chính trị của Nhật - như là một em út của đàn anh Huê Kỳ - chúng luôn gây phẫn nộ, làm ghét cay ghét đắng. Tôi là một con người rất độc ác!

-Vị trí của ông, theo như ông nghĩ, trong toàn cảnh trí thức Nhật?

Khi cuốn tiểu thuyết mới nhất của tôi ra lò, một tiểu thuyết gia lớn của Nhật viết trên nhật báo Asahi, rằng thì là, về mặt chính trị, văn học, xã hội, tôi là kẻ bị phỉ nhổ nhất ở Nhật. Ông ta nói theo kiểu chắc như bắp, y như thật, rằng, ông ta thực tình nghĩ như vậy. Điều này làm tôi không khoan khoái một chút nào.

N. O. Làm sao sách vở đến được tay ông trong ngôi làng nhỏ bé nơi ông lớn lên?

K. Oé. Thật ra sách vở không bao giờ đến được làng tôi. Mẹ tôi mang vớ vải nhồi đầy gạo, hai chân bà trông giống như chân heo. Bà mang ra thành phố và đến những nhà có vẻ giàu có, bà đổi gạo và chỉ xin sách. Thỉnh thoảng bà đem về cả chục quyển sách, bà đọc và lọc những sách tốt nhất cho tôi. Nhờ thế tôi đọc « Nils Holgersson », « Huckleberry Finn », vv. Vào thời buổi đó, tất cả thành phố đều sống trong hiểm họa cận kề bị dội bom nên đa số dân chúng sẵn sàng hy sinh sách lấy gạo. Sau chiến tranh có một trung tâm văn hóa Mỹ mở cửa, ở đó có một thư viện và thế là tôi có thể đọc những quyển sách nào tôi thích.

N. O. Ông từng tuyên bố ông mong có ngày hiểu được ngôn ngữ loài chim. Bây giờ ông hiểu được chưa?

K. Oé. Đứa con trai khuyết tật của tôi chẳng thích thú gì đến ngôn ngữ loài người, nó rất nhạy cảm với tiếng chim hót. Nó có thể nhận ra năm mươi tiếng hót khác nhau. Và từ ngôn ngữ loài chim, chúng tôi đã thành công có được một loại đối thoại với cháu. Cháu cũng dùng cách này để sáng tác âm nhạc. Chính cháu dạy cho chúng tôi các bài học về cách nói chuyện của loài chim. Nếu tôi không hiểu, con trai tôi hiểu giùm tôi.

Didier Jacob thực hiện.

Anne Sakai dịch từ bản Nhật ngữ.

(1) Faste: Huy hoàng, tráng lệ. Faste des morts: Bảnh như người chết, tạm dịch theo nghĩa đen. HL.

Trích Le Nouvel Observateur, 22-12-2005 .


Một người Nhật ở Paris


Thư Ðông Kinh: Lịch Sử Lập Lại

Cũng chỉ là tình cờ, cơ may đúng hơn, trước khi xẩy ra trận động đất 1 ngày, tôi viết 1 bài cho tờ Asahi Shimbun, ấn bản buổi sáng. Về 1 ngư phủ cùng thế hệ với tôi, nhiễm phóng sạ vào năm 1954 trong lần thử bom tại Bikini Atoll. Tôi nghe nói tới anh lần đầu khi tôi 19. Trong suốt cuộc đời sau đó, anh dành nó vào việc tố cáo con ngáo ộp nguyên tử, [huyền thoại răn đe hạt nhân], và sự ngạo mạn của những kẻ bợ đít nó. Liệu đây là 1 thứ thần giao cách cảm, hay 1 điềm báo u ám  khiến tôi nhớ tới anh ta, trước khi tai họa xẩy ra?
Anh ta còn chiến đấu chống những chương trình điện hạt nhân và cùng với chúng là những hiểm họa.
Tôi cũng đã từ lâu trầm tư về lịch sử nước Nhật qua lăng kính của ba loại người: những người đã chết ở Hiroshima và Nagasaki, những người nhiễm phóng sạ trong vụ thử bom Bikini, và những nạn nhân của những tai nạn tại những cơ sở, nhà máy hạt nhân. Nếu bạn nhìn lịch sử nước Nhật qua lăng kính trên, thì bi kịch trên thật là hiển nhiên, tự nói nói ra, tự nó tố cáo nó. Bây giờ, vào những ngày này, hiểm nguy nhà máy nguyên tử đã trở thành thực tại. Cho dù diễn biến thảm họa cũng sẽ phải chấm dứt - và tôi thực sự cầu mong, và kính trọng nỗ lực của nhân loại hầu có được kết quả này, nghĩa là ngăn chặn được thảm họa đừng để nó phát sinh thêm những hậu quả nghiêm trọng - cho dù vậy, thì ý nghĩa của thảm họa vẫn có chi mù mờ, không làm sao vạch trần ra được: Lịch sử nước Nhựt Bổn đi vô một “pha” mới , và một lần nữa, chúng ta phải nhìn sự vật qua con mắt của những nạn nhân của điện hạt nhân, của những đàn ông, đàn bà chứng tỏ sự can đảm của họ qua đau khổ. Bài học mà chúng ta có được từ thảm họa hiện thời sẽ tùy thuộc, hoặc, những kẻ sống sót nó, chọn lựa, đừng lập lại lỗi lầm, hoặc, kệ cha nó, cứ lầm tiếp.
Tai họa này đã kết hợp thành một, theo một đường lối thật bi thảm, hai hiện tượng: cái sự hơi quá bị nhạy cảm với động đất của nước Nhật, và hiểm họa do năng lượng hạt nhân gây ra. Cái đầu thì từ thưở khai thiên lập địa của đất nước này đã có rồi. Cái thứ nhì, đến bi giờ người dân Nhật mới nhận ra, nó còn khủng khiếp hơn nhiều so với động đất và sóng thần, và thê thảm hơn, vì đây là tác phẩm của con người!

Nhựt Bổn học được gì, từ thảm kịch Hiroshima?

Một trong những nhà tư tưởng gia đương thời số một của Nhựt, Suichi Kato, mất năm 2008, nói về bom nguyên tử và lò hạt nhân, đã nhớ lại một dòng từ tác phẩm “The Pillow Book” [cuốn sách gối đầu], được viết ra cách đây 1 ngàn năm, bởi một người đàn bà, Sei Shonagon, qua đó, tác giả gợi ra ‘một điều gì có vẻ thật xa, nhưng sự thực, rất ư là gần”. Thảm họa hạt nhân, có vẻ như là thật là xa vời, chưa chắc, chưa hẳn là sẽ xẩy ra, nhưng than ôi, cái viễn cảnh của nó thì lại luôn luôn ở với chúng ta, trên từng cây số! Nhật bổn đúng ra là không nên nghĩ tới năng lượng hạt nhân, theo cái kiểu, trong cái dòng, đây là một thứ sản xuất kỹ nghệ. Họ không nên diễn dịch ra từ thảm kịch Hiroshima, một hệ luận: nó là một ‘recipe’ [đơn thuốc], cho phát triển. Như động đất, sóng thần, và những thiên tai khác, kinh nghiệm Hiroshima phải được khắc sâu, bằng acít, vào hồi ức của nhân loại.
Nó khủng nhất, bởi vì là do con người làm ra, mấy thứ kia, là do ông Trời cà chớn!
Cái kiểu lập lại lỗi lầm, bằng cách trưng bày nó, qua xây dựng những lò nguyên tử, cái kiểu coi thường mạng người như thế, là một sự phản bội rất ư là khốn kiếp, hồi ức của những nạn nhân Hiroshima.

Tôi lên mười năm Nhật bại trận. Năm sau, Tân Hiến Pháp ra đời. Những năm tiếp theo, tôi cứ tự hỏi chính mình, cái chủ nghĩa hòa bường được ghi trong Hiến Pháp, trong đó bao gồm nghị quyết từ bỏ sử dụng sức mạnh, và sau đó, “nguyên tắc ba không” [không sở hữu, không sản xuất, không đưa vô Nhựt võ khí nguyên tử), liệu có phải là sự trình bày đúng đắn, chính xác, những ý tưởng cơ bản của một nước Nhật hậu chiến. Như chuyện xẩy ra, Nhựt bổn đã lừng lững, từng bước một, tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường tái tạo dựng lực lượng quân sự của nó, và những thoả thuận bí mật đã được thực hiện vào những năm 1960, cho phép Mẽo [Oe mà cũng biết ‘tiếng lóng’ này ư?] đưa khí giới nguyên tử vào quần đảo, và thế là “ba không” trở thành “ba có”.  Tuy nhiên, những ý tưởng về một nhân loại hậu chiến không hoàn toàn bị bỏ quên. Những người chết, theo dõi chúng ta, bắt buộc chúng ta tôn trọng những ý tưởng đó, và hồi ức của họ đã ngăn cản chúng ta, nhân danh chủ nghĩa hiện thực chính trị, hạn hẹp, khoanh vùng, tính nguy hại của võ khí nguyên tử. Chúng ta đã chống lại. Và từ đó, lộ ra một nước Nhựt bổn hàm hồ, bất phân, lưỡng lự: một quốc gia hòa bường nằm bên dưới cái dù che chắn, bảo vệ, của con ngáo ộp nguyên tử là nước Mẽo, là Chú Sam!

Người ta hy vọng, tai nạn ở nhà máy Fukushima sẽ cho phép nước Nhật nối lại được với nỗi đau Hiroshima, nối lại được với những nạn nhân của nó, và của Nagasaki, và tái xác nhận hiểm nguy của sức mạnh nguyên tử, và làm 1 cú chấm dứt ảo tưởng về sự hữu dụng của chính sách răn đe hạt nhân: Chúng ông có bom nguyên tử đấy nhé, đừng có đụng vô chúng ông! Vì nó, mà có cái trò bợ đít sức mạnh hạt nhân!

Vào cái thời có thể nói là chín chắn, trưởng thành, tôi viết 1 cuốn tiểu thuyết đặt tên là “Hãy dậy chúng tôi làm sao lớn nhanh hơn sự khùng điên của mình”, mày điên 1, thì tao khôn… 10, đại khái thế.
Bi giờ ở vào giai đoạn chót của cuộc đời, tôi đang viết cuốn “tiểu thuyết cuối cùng”. Giả như mà tôi xoay sở làm sao lớn nhanh hơn sự điên khùng hiện thời, cuốn tiểu thuyết mà tôi viết đó sẽ mở ra bằng cái dòng chót của Inferno của Dante: “Và thế là chúng mình ra được bên ngoài, và một lần nữa, nhìn những vì sao”

Kenzaburo Oe

TOKYO POSTCARD

HISTORY REPEATS

By chance, the day before the earthquake, I wrote an article, which was published a few days later, in the morning edition of the Asahi Shimbun. The article was about a fisherman of my generation who had been exposed to radiation in 1954, during the hydrogen-bomb testing at Bikini Atoll. I first heard about him when I was nineteen. Later, he devoted his life to denouncing the myth of nuclear deterrence and the arrogance of those who advocated it. Was it a kind of sombre foreboding that led me to evoke that fisherman on the eve of the catastrophe? He has also fought against nuclear power plants and the risk that they pose. I have long contemplated the idea of looking at recent Japanese history through the prism of three groups of people: those who died in the bombings of Hiroshima and Nagasaki, those who were exposed to the Bikini tests, and the victims of accidents at nuclear facilities. If you consider Japanese history through these stories, the tragedy is self-evident. Today, we can confirm that the risk of nuclear reactors has become a reality. However this unfolding disaster ends--and with all the respect I feel for the human effort deployed to contain it-its significance is not the least bit ambiguous: Japanese history has entered a new phase, and once again we must look at things through the eyes of the victims of nuclear power, of the men and the women who have proved their courage through suffering. The lesson that we learn from the current disaster will depend on whether those who survive it resolve not to repeat their mistakes.

This disaster unites, in a dramatic way, two phenomena: Japan's vulnerability to earthquakes and the risk presented by nuclear energy. The first is a reality that this country has had to face since the dawn of time. The second, which may turn out to be even more catastrophic than the earthquake and the tsunami, is the work of man. What did Japan learn from the tragedy of Hiroshima? One of the great figures of contemporary Japanese thought, hutchie Kato, who died in 2008, speaking of atomic bombs and nuclear reactors, recalled a line from "The Pillow Book," written a thousand years ago by a woman, Sei Shonagon, in which the author evokes something that seems very far away but s, in fact, very close." Nuclear disaster seems a distant hypothesis, improbable; the prospect of it is, however, always with us. The Japanese should not be thinking of nuclear energy in terms of industrial productivity; they should not draw from the tragedy of Hiroshima a "recipe" for growth. Like earthquakes, tsunamis, and other natural calamities, the experience of Hiroshima should be etched into human memory: it was even more dramatic a catastrophe than those natural disasters precisely because it was man-made. To repeat the error by exhibiting, through the construction of nuclear reactors, the same disrespect for human life is the worst possible betrayal of the memory of Hiroshima's victims.

I was ten years old when Japan was defeated. The following year, the new Constitution was proclaimed. For years afterward, I kept asking myself whether the pacifism written into our Constitution, which included the renunciation of the use of force, and, later, the Three- Non-Nuclear Principles (don't possess, manufacture, or introduce into Japanese territory nuclear weapons) were an accurate representation of the fundamental ideals ,f postwar Japan. As it happens, Japan has progressively reconstituted its military force, and secret accords made in the nineteen-sixties allowed the United States to introduce nuclear weapons into the archipelago, thereby rendering those three official principles meaningless. The ideals of postwar humanity, however, have not been entirely forgotten. The dead, watching over us, oblige us to respect those ideals, and their memory prevents us from minimizing the pernicious nature of nuclear weaponry in the name of political realism. We are opposed. Therein lies the ambiguity of contemporary Japan: it is a pacifist nation sheltering under the American nuclear umbrella. One hopes that the accident at the Fukushima facility will allow the Japanese to reconnect with the victims of Hiroshima and Nagasaki, to recognize the danger of nuclear power, and to put an end to the illusion of the efficacy of deterrence that is advocated by nuclear powers.

When I was at an age that is commonly considered mature, I wrote a novel called "Teach Us to Outgrow Our Madness." Now, in the final stage of life, I am writing a "last novel." If I manage to outgrow this current madness, the book that I write will open with the last line of Dante's Inferno: "And then we came out to see once more the stars."

-Kenmburo Oe


Lịch Sử Lập Lại - Bài học về Hiroshima

Tác giả: Kenzaburo Oe

Đăng ngày: 08:20 01-04-2011

Thấy bác Trụ đăng bài này. Tôi định dịch xong rồi sẽ xin bác Trụ link qua trang của bác để tìm độc giả vì trang của bác đắt khách quá. Cửa tiệm tôi lúc này bán buôn ế ẩm không ai ghé thăm dùm. Nhưng tôi dịch chậm quá vì bận ham chơi la cà nên khi dịch xong thì bác đã xong từ đời tám đế rồi. Xin bác tha lỗi cho kẻ hậu bối không dám so bì dịch giỏi dịch dở. Nói trước kẻo bác hiểu lầm. Tôi có gửi lên một trang mạng nhưng vị quản lý trang mạng không mặn lắm, vị bảo là tác giả chê việc dùng năng lượng nguyên tử nhưng không có đề nghị cách nào tốt hơn và hiện nay năng lượng nguyên tử là cách sạch nhất và ít tốn kém nhất. Vị nói rất có lý nhưng Oe đề cập đến năng lượng nguyên tử có thể giết hại nhiều người, ngay cả một nước tân tiến như Nhật vẫn không thể quản lý một cách hoàn toàn an toàn, cũng rất có lý. Âu cũng là một đề tài để chúng ta suy nghĩ. Link ở trên the New Yorker. 

Kenzaburo Oe là người Nhật sinh ngày 31 tháng Giêng năm 1935. Ông được trao giải văn chương Nobel năm 1994. 

Tình cờ, một ngày trước khi xảy ra cơn động đất, tôi có viết một bài, vài ngày sau đó bài này được đăng trên tờ báo Asahi Shimbun, phát hành buổi sáng. Bài báo này viết về một ngư phủ, thuộc thế hệ của tôi, bị nhiễm phóng xạ vào năm 1954, khi người ta thử bom Hydrogen ở đảo Bikini.  Tôi nghe đến tên của ông ấy lần đầu tiên khi tôi mười chín tuổi. Về sau, ông ấy dâng hiến cả cuộc đời để tố giác cái huyền thoại của việc ngăn chận đối phương bằng cách dùng bom nguyên tử và sự kiêu ngạo của những người cổ vũ nó. Có phải đây là một điềm xấu được báo trước bằng cách khiến tôi nhớ lại câu chuyện người ngư phủ trong đêm trước ngày xảy ra đại họa? Ông ấy cũng chống cả việc thành lập nhà máy phát điện dùng hạt nguyên tử và những hiểm họa mà nó dẫn đến.  Từ lâu tôi đã muốn quan sát lịch sử Nhật Bản hiện đại qua lăng kính của ba nhóm người: những người đã chết vì trận bom ở Hiroshima và Nagasaki, những người bị nhiễm phóng xạ trong kỳ thử bom Hydrogen ở đảo Bikini, và nạn nhân của tai nạn xảy ra ở các nhà máy nguyên tử. Nếu bạn chú ý đến lịch sử Nhật Bản qua các câu truyện này, cái thảm kịch đã xảy ra thật hiển nhiên. Ngày nay, chúng ta có thể xác nhận là những nguy hiểm của các nhà máy nguyên tử đã trở thành hiện thực. Tuy vậy, khi cái tai họa đang xảy ra này kết thúc – với tất cả lòng kính trọng tôi dành cho sự nỗ lực của loài người trong việc cố gắng chận đứng nó – mức độ quan trọng của nó không mù mờ chút nào cả: Lịch sử Nhật Bản đang bước vào một thời kỳ mới, và một lần nữa chúng ta cần phải nhìn sự việc bằng đôi mắt của nạn nhân bị hủy hoại bởi sức mạnh nguyên tử, của những người nam hay nữ đã chứng tỏ lòng can đảm của họ qua nỗi thống khổ. Bài học chúng ta rút ra từ tai họa vừa qua sẽ tùy thuộc vào liệu những người còn sống sau đại nạn này có quyết tâm không lập lại những sai lầm của họ hay không. 

Tai họa này đã kết hợp, một cách rất đáng lo ngại, hai hiện tượng: cái yếu ớt bất lực của Nhật Bản trước những cơn động đất và cái hiểm họa có thể xảy ra vì năng lượng nguyên tử. Hiện tượng thứ nhất là một sự thật mà quốc gia này đã phải đương đầu ngay từ buổi sơ sinh. Hiện tượng thứ hai, có thể trở thành tai họa lớn hơn cả động đất lẫn sóng thần, là sản phẩm của loài người. Người Nhật đã học được bài học nào từ thảm kịch Hiroshima ? Một trong những nhà tư tưởng danh tiếng của Nhật Bản hiện đại, Shuichi Kato, qua đời năm 2008, khi thuyết trình về bom nguyên tử và các nhà máy nguyên tử, đã trích dẫn một câu trong “The Pillow Book” (Quyển Sách Gối Đầu) đã được viết mấy ngàn năm trước bởi một nhà văn nữ, Sei Shonagon, trong đó tác giả đã khơi dậy “một điều tưởng chừng như rất xa, nhưng thật ra, lại rất gần.” Tai họa gây ra bởi nguyên tử dường như chỉ là một giả thuyết xa vời, không thể chứng minh; những triển vọng của nó, tuy thế, luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Người Nhật không nên đo lường năng lượng nguyên tử bằng năng suất kỹ nghệ; họ cũng không nên rút từ thảm kịch Hiroshima một “công thức” để giúp cho sự tăng trưởng. Giống như động đất, sóng thần, hay các tai nạn khác gây ra bởi thiên nhiên, kinh nghiệm về Hiroshima nên được ghi khắc trong ký ức của nhân loại: nó đáng được lo ngại như là một đại họa trầm trọng hơn cả thiên tai, chắc chắn bởi vì nó là do con người gây ra. Lập lại sự sai lầm này bằng cách trưng bày, qua cách xây dựng của các lò nguyên tử, sự xem thường mạng sống của con người là một phản bội nghiêm trọng nhất trong ký ức của nạn nhân của Hiroshima. 

Tôi mới mười tuổi khi Nhật Bản bị đánh bại. Năm sau, bộ Hiến pháp mới được công bố. Nhiều năm sau đó, tôi tiếp tục tự hỏi không biết chủ nghĩa phản chiến được gói ghém trong Hiến pháp của chúng ta, trong đó có việc từ bỏ việc sử dụng quân sự, và sau đó, là Ba Nguyên Tắc Nguyên Tử (không sở hữu, không sản xuất, và không đem vào lãnh vực vũ khí nguyên tử của Nhật Bản) có phải là một sự trình bày chính xác về những lý tưởng căn bản của một Nhật Bản thời hậu chiến. Như đã xảy ra, Nhật Bản dần dần thay đổi luật để được quyền sở hữu lực lượng quân sự, và những cam kết bí mật được thực hiện vào những năm 1960 đã đồng ý để Hoa Kỳ đưa vũ khí nguyên tử vào quần đảo, vì thế biến Ba Nguyên Tắc Nguyên Tử trở nên vô nghĩa. Những lý tưởng về lòng nhân đạo hậu chiến, tuy thế, không hoàn toàn bị lãng quên. Những người đã chết, vẫn nhìn xuống chúng ta, bắt chúng ta phải kính trọng những lý tưởng ấy, và ký ức của họ đã ngăn ngừa chúng ta không được giảm thiểu cái tính chất tàn phá của vũ khí nguyên tử để nhân danh chủ nghĩa thực tế về khía cạnh chính trị. Chúng ta bị chống đối. Đây là khía cạnh thiếu minh bạch của Nhật Bản đương thời: một quốc gia chống chiến tranh được che chở dưới vòm tán nguyên tử của Hoa Kỳ. Người ta hy vọng là tai nạn ở nhà máy Fukushima sẽ giúp người Nhật tưởng nhớ đến nạn nhân của Hiroshima và Nagasaki, để nhận biết sự nguy hiểm của nguyên tử lực và chấm dứt cái ảo tưởng dùng chính sách nguyên tử để chống đối phương mà những người chủ trương chính sách này đã cổ vũ. 

Khi tôi đến tuổi trưởng thành, tôi viết một quyển truyện có tựa đề là “Hãy Dạy Cho Chúng Tôi Cách Thoát Khỏi Cơn Điên.” Bây giờ, đến gân cuối cuộc đời, tôi đang viết quyển “tiểu thuyết cuối cùng.”  Nếu tôi tìm được cách thoát khỏi cơn điên cuồng hiện nay, quyển sách mà tôi đang viết sẽ bắt đầu bằng câu kết thúc trong cuốn thơ Hỏa Ngục của Dante: “Và sau đó chúng tôi ra bên ngoài để, lại một lần nữa, ngắm nhìn những vì sao.”

Hải Hà

*

Hồi mới lớn, Gấu vớ được 1 tuyển tập “Những truyện ngắn hay nhất thế giới”, bây giờ chẳng còn nhớ nhà xb, ai tuyển chọn, trong có truyện "Con thằn lằn chọn nghiệp" của Hồ Hữu Tường, và 2 truyện ngắn về nước Nhật, tác giả người Nhật, chắc thế.
Một, là câu chuyện liên quan đến động đất. Một anh chàng, sinh ra, lớn lên, đi học, ra trường, kiếm việc làm, rồi lấy vợ, rồi đẻ con… nghĩa là sống 1 cuộc đời như mọi người, nhưng đây không phải là 1 con người hạnh phúc, bởi vì anh ta có hiểu hạnh phúc là cái chó gì đâu.
Cho tới 1 bữa, đang trên đường đi làm, động đất, thế là anh ta chui vội vào 1 cái hầm trú ẩn cá nhân, chắc thế, nhưng có 1 em bụi đời chui vô trước anh ta rồi. Trong cơn kinh hoàng, tận thế là đây, hai anh chị làm cú chót, chính vào lúc đó, anh ta hiểu, hạnh phúc nghĩa là gì.
Truyện kia thê thảm, 1 thằng bé, mẹ làm điếm, khách là đám GI chiếm đóng Nhật, thằng con thương mẹ quá, những ngày mẹ đói quá, phải đi kiếm khách kéo về cho mẹ.


.
Trong những phim Liz đóng, có 1 phim [The Last Time I Saw Paris, v/v Ðồng Minh giải phóng Paris] sao ít thấy nhắc tới, nhưng thật tuyệt vời với Gấu, vì nhờ nó mà viết được đoạn văn sau đây, trong 
Lần Cuối Sài Gòn:

Khi về, cô bé có thói quen để cô em vô nhà, còn cô chạy đến bên phông tên ngay bên đường cách nhà chừng mười bước để rửa chân, thật ra để đùa nghịch cùng những giọt nước. Những cử chỉ, dáng điệu của cô làm tôi sau này vẫn thường băn khoăn tự hỏi, không biết cô bé đi đón em tan trường về, hay ngược lại. Những giọt nước bị đôi bàn tay nhỏ bé ngăn chặn, bắn tung tóe, trầm bổng, trở thành muôn vàn nụ cười trên môi, trên má, trên tóc, càng thêm long lanh nhờ ánh mắt tinh nghịch, nhờ nụ cười, tôi gặp lại hình ảnh tuyệt vời này trong phim "Lần cuối nhìn Paris", như thể chính cô bé của tôi đã khám phá ra, đã tìm lại cho cả Châu Âu, cho cả loài người, một thành phố Paris bị chiếm đóng vừa được giải tỏa, và nữ tài tử Liz Taylor chỉ lập lại những cử chỉ thật đàn bà của một cô bé con-người nữ muôn đời ở trong tôi.

*

Chỉ thiếu cái vòi nước công cộng, ngay kế bên!

Tuần báo Time, số đề ngày 4.4. 2011

The Last Time I Saw Paris còn là tên bản nhạc, cùng tên phim,
và bây giờ thì Gấu hiểu cái tên Lần Cuối Sài Gòn ở đâu mà chui ra!

*