*

1
2
3


Ngô Bảo Châu, Nobel Toán

Gấu đọc lại một số Partisan Review, thấy có mấy bài thơ của Zagajewski, hay quá, bèn lui cui scan, post, coi lại, hoá ra đã có rồi trên TV!
Nhưng, tuyệt làm sao, trong cùng số báo đó, có một bài của Doris Lessing: Đọc và Văn Hóa [Reading and Culture].
Quái làm sao, bài này lại thật ăn khớp với một bài trên blog của hòa thượng Thích Học Toán, cũng về cái chuyện đọc.
Post bài của THT, trước, ở đây, rồi sẽ lèm bèm về bài của Lessing, trong ‘hình như’ có nhắc tới… bài của hòa thượng THT!
Thế mới tài!

* 

Thích Học Toán

Sách
with 101 comments

(Viết theo yêu cấu của bà Muller-Marin đại diện của Unesco ở Việt Nam cho triển lãm Lifelong Learner. Bonus là bản dich tiếng Anh của Phan Việt, hay hơn bản gốc) 

Vì lý do công việc, tôi hay phải dọn nhà. Cứ mỗi lần lại phải mất một vài tháng thì ngôi nhà mới xa lạ mới trở nên thân thuộc. Tôi để ý thấy thời điểm mà sự thân thuộc tăng đột biến là thời điểm khi tôi lấy sách từ trong thùng mang xếp lên kệ. Lúc xếp sách lên kệ là lúc quá khứ của ta ùa vào không gian của hiện tại.
Tôi có rất nhiều sách. Có sách đã đọc, có sách đã đọc vài lần, có sách đọc một nửa, còn có quyển mới chỉ đọc vài trang. Nhưng mất quyển sách nào là tôi biết ngay. Và tôi rất ghét các bạn mược sách mà quên trả, trong khi bản thân tôi thì cũng đôi khi giả quên.
Những quyển sách cũ hình thù xộc xệch vì thời gian là những quyển mà tôi cảm thấy gắn bó nhất. Quyển này từng vác sang Ấn độ vào mùa mưa, trang giấy hút ẩm đến quăn queo, không bao giờ tìm lại được hình hài ban đầu. Quyển này vì để cả tháng trên bàn làm việc ở trên tầng bốn tràn đầy ánh nắng trong ngôi nhà của bố mẹ tôi ở Hà Nội, nên bìa đã phai màu. Nhìn những quyển sách úa đi đi với thời gian cũng thân thương như xem cha mẹ, người thân, bạn bè mỗi ngày một già.
Tôi không bao giờ viết hoặc bôi xanh bôi đỏ lên trang sách. Cũng như không bao giờ làm xấu bạn bè của mình.
Cuộc sống của mỗi người bị hạn chế trong không gian và trong thời gian. Mỗi người chỉ có thể sống một cuộc sống, tại mỗi thời điểm chỉ có thể có một vị trí. Trang sách chính là cửa sổ mở sang những cuộc đời khác, những thế giới khác. Và cũng là chỗ để ánh sáng mặt trời dọi vào cuộc đời mình.
Đọc sách không chỉ để thỏa mãn cái ham muốn hiểu biết về vũ trụ và về cuộc sống, mà còn là cách để nuôi dưỡng sự ham muốn đó. Một câu hỏi được giải đáp sẽ mở ra hai câu hỏi mới cần được giải đáp và dắt tay ta đến những trang sách mới.
Không phải cái gì mình cũng tìm được trong sách, vì cuộc sống luôn rộng lớn hơn sách vở. Có thứ sách không dạy được ta, vì nếu chưa được cuộc đời cho ăn đòn thì ta chưa hiểu. Cũng có những chuyện nói ra thành lời thì dễ hơn viết.
Nhưng ngược lại ta có thể học bằng đọc sách nhiều hơn người ta tưởng. Nhiều chuyện khó nói ra bằng lời lắm. Quan hệ xã giao giữa con người với con người phải tuân theo mọt số quy định : cuộc sống hàng ngày của mỗi người đã đủ mêt mỏi, không nên hành hạ người khác về sự ray rứt của bản thân mình. Khi nói, mình muốn người khác phải nghe ngay. Khi viết, mình có thể để người ta đọc lúc nào cũng được. Chọn không đúng thời điểm, những thông điệp thiết tha nhất cũng trở nên lạc lõng. Lợi thế lớn nhất của sách là tính ổn định trong thời gian.
Sách là người bạn đặc biệt, lúc nào cũng sẵn sàng mở lòng với ta. Khi ta dọn nhà, bạn đi theo ta. Lúc nào bạn cũng đợi ta ở trên kệ sách.
———

On Books

Because of my work, I move a lot. Each time, it takes a few months before the new house becomes familiar. And I’ve noticed, time and time again, the peculiar moment when a new house suddenly transforms into being a familiar home: it’s the moment I unpack the boxes to put my books on the shelves. As the books are being lifted out of the boxes to fill the shelves, I feel my past also leaps out and fills up the present.
I have quite a lot of books. Some I’ve read once; some many times; some I’ve read a half; and some only a few pages. But I always know when a book goes missing. And it bothers me when someone borrows my books and forgets to return them, even though I must admit that I myself sometimes commit the same crime.
Among my books, the ones that I hold closest to my heart are the old books that have been bent out of shape by time. Like the one that I carried with me to India that rainy season – its pages had been soaked and curled up by moisture, such that it forever lost its original shape. Or the one I left for a month atop the wooden desk on the forth floor of my parents’ house back in Hanoi (that house is always filled with sunshine) — the color on the cover of that book has faded. Watching the books fade with time gives me the same feeling as watching my parents, relatives, and friends grow old with each day past.

I never write or highlight on the pages of my books. Just like I never want to paint my friends’ faces with dirt.

Time and space put limits on our life in the sense that each of us can only live one life and be in one place at a particular time. The pages of books, then, serve as windows that open us to lives of others and worlds elsewhere. And just like windows, they also let the sun shine through and into our own lives. 

Thus, we read not only to satisfy our desire to know about the universe and life but we also read in order to nurture that desire to know. When we find the answer to a question through a book, we will naturally come up with two new questions and such questions will lead us to new books. 

Of course, we can’t find all answers in books because real life is so much larger than books. There are things that books can’t teach us because there are things we can’t fully understand until we’ve crashed and burned in life. And there are also things that are better communicated through speaking than writing.

But on the other hand, we can learn from books more than we expect because there are many things we cannot express in spoken words. Human relationships hinge on certain rules: our everyday life is already tiring, thus we should not make it harder for others by imposing on them our own torments. When we speak, we are making that imposition because the act of speaking demands immediate attention of the listener at that very moment. When we write, however, we let our readers choose their own time to communicate with us. Expressed at wrong times, the most heartfelt message can become inappropriate and lost. Books, however, give us the great advantage of being always stable over time. 

Books are special friends who always come to us with an open heart. When we move, these friends accompany us. Forever they are waiting for us on the shelves.

Ba bài thơ Zagajewski

Note:
Gấu đọc lại một số Partisan Review, thấy có mấy bài thơ của Zagajewski, hay quá, bèn lui cui scan, post, coi lại, hoá ra đã có rồi trên TV!
Coi lại, có trong tập Without End!

Nhưng, tuyệt làm sao, trong cùng số báo đó, có một bài của Doris Lessing: Đọc và Văn Hóa [Reading and Culture].
Quái làm sao, bài này lại thật ăn khớp với một bài trên blog của hòa thượng Thích Học Toán, cũng về cái chuyện đọc.
Post bài của THT, trước, ở đây, rồi sẽ lèm bèm về bài của Lessing, trong ‘hình như’ có nhắc tới… bài của hòa thượng THT!
Thế mới tài!

Ngô Bảo Châu, Nobel Toán

Văn hoá, [trong có cái sự đọc sách, tất nhiên] không làm tăng tính người.
Steiner phán.

Ông giải thích:
Đối với tôi, chức năng "nhân bản hóa" của những ngành khoa học nhân văn phải được đặt vào trong tình trạng hồ nghi, một cách thật là nghiêm túc. "Những cái văn cái vẻ cái vẽ", những "thư trung hữu ngọc"… toàn là những từ kiêu căng rởm đời!
Toàn chuyện châm biếm! Chúng ra sao bây giờ nhỉ?
Khi tôi là học sinh trung học ở Janson-de-Sailly, một giáo sư đã đọc câu này, của Alain, cho chúng tôi nghe: "Mọi chân lý là niềm lãng quên thân xác" (Toute vérité est l’oubli du corps). Người ta dậy điều đó cho con nít! Nhưng nếu mọi chân lý là lãng quên thân xác, như vậy là hàm chứa luôn chuyện tàn sát! Tôi biết quá đi chứ, Alain dùng câu trên như là một nói đùa cực kỳ Platon (ultraplatonicienne), nhưng thứ tư tưởng như vậy cứ xoáy mãi sâu vào trong tôi, và ngay từ hồi còn con nít, tôi đã bắt đầu để cho cái trò chơi "trừu tượng hoá" sự vật bám dính cứng lấy, trở nên ngất nga ngất ngư vì nó!
Để tôi nói thẳng ra ở đây: Khi tôi bỏ ra cả một ngày trời cặm cụi nghiên cứu Vua Lear [kịch Shakespeare], hay là Ác Hoa [Les Fleurs du Mal, của nhà thơ người Pháp, Baudelaire], tới chiều, trở về nhà, tôi vẫn còn ở trong tình trạng "siêu thoát", và thế là tôi không nghe thấy tiếng khóc ở trên đường phố. Ở trong văn hoá cao, có một sức mạnh, chính nó đã làm cho những đau thương, khốn khổ thực sự của con người, tầm thường, tẻ nhạt, bát nháo… trở thành trơ ra.
Những giọt nước mắt của Cordélia [trong kịch Shakespeare] trở nên sống động hơn, sờ sờ ngay trước mắt, thực hơn, so với tiếng khóc ở ngoài đường phố. Mỹ Học, Cái Đẹp, một trang của Shakespeare, của Kant, của Descartes, của Hegel hay của Bergson cứ thế đẩy lui dần thực tại thường nhật.
...
Những thư viện, những viện bảo tàng, những rạp hát, những đại học vẫn có thể nở rộ dưới bóng mát của những trại cải tạo. Bây giờ chúng ta mới hiểu ra: văn hoá không làm tăng tính người. Văn hoá còn có thể làm người ta trở nên vô cảm trước sự khốn cùng của con người.

Phỏng Vấn Steiner

Đọc bài viết của THT, Gấu bỗng nhớ đến bài phỏng vấn Steiner. 

Doris Lessing, trong bài viết Đọc và Văn Hoá, trong số Partisan Review, Mùa Đông, 1998, cũng nói đến một hiện tượng mà bà gọi là Tên Man Rợ Có Học, the Educated Barbarian.
“Đây là một người nào đó có thể cắp sách tới trường, hay đại học, trong nhiều năm, có những giải thưởng, đạt được những thành tích, và sau cùng, chẳng đọc cái chó gì cả, chỉ biết điều bạo tàn, cục súc, brutal. Đây là một đề tài rộng, vast. Tôi biết là có nghiên cứu nghiêm trọng, serious research, về nó. Và tôi thật mừng khi vấn đề được để ý tới, vì nó gây tổn hại, damaging, cho những người trẻ.”

Cũng trong bài viết, bà có nhắc tới Goethe, vào lúc chót đời của ông, đã phán: “Tôi chỉ mới biết đọc” [“I have just only learned how to read”].

Nabokov không chịu nổi Don Quixote, vì tính dã man, độc ác của nó.
Ông giải thích, trong một trích đoạn, trên 1 số báo Le Magazine Littéraire, đặc biệt về Don Quichotte:
Như là một nhà tư tưởng, Cervantès chia sẻ những lỗi lầm của thời của ông - ông làm quen với [sự tra tấn tàn bạo của nhà thờ qua cái vụ] Inquisition, chấp nhận sự tàn bạo của giống nòi của ông, với những giống nòi lân bang, và tin tưởng rằng, cái sự phong nhã của giống nòi của ông, là từ Thượng Đế mà ra, và cũng chính vì Thượng Đế này đã đem đến hứng khởi cho những vị thầy tu [tham dự vào cái trò tra tấn người]
*
Một trong những quà tặng… chót của Thượng Đế, dành cho Gấu, là cái vụ gặp lại cô bạn nơi xứ người, và nhờ vậy làm được mấy bài thơ.
Trước đó, không làm sao nhập được vào cõi thơ, dù lâu lâu cũng đọc được một vài bài.

Cái vụ đọc sách này 'căng' lắm, chứ không đơn giản. Chỉ là do không biết đọc, mà Âu Châu gây ra đại họa Lò Thiêu!

Cả cái sự sống lại của Gấu, là liên quan đến chuyện ‘biết đọc’, khi về già, như… Goethe, xẩy ra đúng vào cái lần mò vô một thư viện Toronto, cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng, vụ này Gấu lèm bèm quá nhiều lần rồi. Sau đó, đọc Kafka, mới hiểu thấu nguồn cơn: cuốn sách phải như 1 cái rìu phá băng, chứ đâu phải thứ để làm cảnh, đi đâu cũng tò tò mang theo như hòa thượng THT phán. Vì đọc sách như thế, nên Người đâu có biết đang... đọc sách, làm toán ở trong bóng mát của Lò Cải Tạo? (1)
(1)

When he was twenty, Kafka wrote in a letter: 'If the book we are reading does not wake us, as a fist hammering on our skull, why then do we read it? So that it shall make us happy? Good God, we would also be happy if we had no books, and books as make us happy we could, if need be, write ourselves. But what we must have are those books which come upon us like ill-fortune, and distress us deeply, like the death of one we love better than ourselves, like suicide. A book must be an ice-axe to break the sea frozen inside us.' (2)
(2) Kafka cũng từng nói như vậy: Ông viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
*
Steiner, trong bài viết Hãy dậy cho chúng biết thế nào là văn minh, To Civilize our Gentlemen, cũng nhắc đến câu trên, của Kafka, về thứ sách mà chúng ta cần đọc.
Về việc 'dậy cho chúng biết thế nào là văn minh', ông nhắc một câu của Kierkegaard, đại ý, khi bạn đăng đàn giảng dậy, về Nguyễn Du, thí dụ, thì hãy nhớ, có hai cách: một là, đau khổ, một là, trở thành vị thầy giáo ưu tú của nhân dân, về cái sự kiện làm người khác đau khổ!

NKTV
Quả đúng trường hợp THT!

"Người" [Đức Hoà Thượng THT] viết, được bạn cho mượn sách, mà vờ không trả lại, là một tội ác!
[I have quite a lot of books. Some I’ve read once; some many times; some I’ve read a half; and some only a few pages. But I always know when a book goes missing. And it bothers me when someone borrows my books and forgets to return them, even though I must admit that I myself sometimes commit the same crime.]
Rồi Người viết, đọc sách mà ghi bậy bạ, “hai lai hai liếc”, là như ném bùn vào mặt bạn!
[I never write or highlight on the pages of my books. Just like I never want to paint my friends’ faces with dirt.]

Tếu thật!

Những tội ác như thế, thực sự chỉ là những thói quen xấu, nhiều khi cũng chẳng xấu gì, GNV này nhớ là, xưa không có thói quen 'ném bùn vào mặt bạn', nhưng sau phải cố học cho được, để khi nào cần, lục sách ra coi lại những đoạn cần đọc.
Còn cho bạn mượn sách bị bạn vờ, là chuyện thường ngày ở huyện, trong cõi sách, đâu có ghê gớm gì, sợ rằng, cái sự quí sách kiểu đó, là do ích kỷ mà ra.
*

Gấu sợ rằng cái vụ đọc sách như Đức Tăng Thống THT phán - đang ‘đại trà’ ở xứ Mít, qua hằng hà sa số những tác phẩm của thế giới, được dịch ra tiếng Việt, như là một bằng chứng - là để 'chia sẻ những lỗi lầm của VC', 'làm quen' với sự độc ác, 'xử huề' Lò Cải Tạo, đúng như Nabokov cảnh cáo, khi đọc Don Quixote.

Và đây đúng là một Tội Đại Ác


Gấu sợ rằng cái vụ đọc sách như Đức Tăng Thống THT phán - đang ‘đại trà’ ở xứ Mít, qua hằng hà sa số những tác phẩm của thế giới, được dịch ra tiếng Việt, như là một bằng chứng - là để 'chia sẻ những lỗi lầm của VC', 'làm quen' với sự độc ác, 'xử huề' Lò Cải Tạo, đúng như Nabokov cảnh cáo, khi đọc Don Quixote.
Và đây đúng là một Tội Đại Ác
*
Theo GNV, tất cả cái đọc của Mít trong lẫn ngoài nước, là phải, để làm sao trả lời cho được câu hỏi:
Tại sao ‘sau’ 30 Tháng Tư 1975 ?

Chúng ta tới "sau", và đây là [vấn đề] cân não của thân phận chúng ta.
Sau, là sau cái điêu tàn chưa từng có trước đây - do tính thú vật chính trị của thời đại chúng ta - về những giá trị con người, và những hy vọng.
Nhân Văn

Trong những giải thưởng văn học, sở dĩ giải Nobel văn chương, được quan tâm nhất, vì, một cách nào đó, nó không thực sự ‘chỉ’ liên quan tới văn học, mà còn tới phận người nói chung, và phận người nói riêng, nghĩa là, liên quan tới cái thời mà nhà văn được giải, sống.
Chính trị là theo nghĩa đó.
Nên nhớ, ông Nobel, do khám phá ra, và làm giầu sau đó, nhờ thuốc nổ, hối hận quá, khi chết mới di chúc làm giải thưởng.
Có thể vì thế, Nobel văn chương luôn có mùi sám hối, cũng nên!

Nếu nói như Thầy Cuốc, trong bài viết mới nhất trên Blog của Thầy, về ‘tiêu chí’ [GNV không hiểu ý nghĩa đúng của từ này, được trong nước sử dụng] của Nobel, là 'xuất sắc', và 'lý tưởng', [lý tưởng gì chứ?, lý tưởng giết người, như trong Đường ra trận mùa này đẹp lắm, ư?], sai.

Chứng cớ, những Herta Müller, 2009, Elfriede Jelinek, 2004, Imre Kertész, 2002, Gao Xingjian, 2000, thí dụ, chẳng ai thèm đọc họ, trước và có khi, ngay cả sau khi được Nobel. Tất cả những giải thưởng, trên, đều liên quan tới tội ác của nhân loại nhiều hơn là văn chương!

Cũng cần đi một đường ghi chú về cái phận người nói riêng. Sở dĩ Mẽo, sau này, [sau Faulkner], chẳng anh nào được Nobel văn chương, dù xuất sắc, dù lý tưởng cỡ nào, thí dụ như Mailer, như Austen, như Roth, ấy là vì chỉ lo tới cái phận người riêng tư của Mẽo thôi, tức vấn đề di dân.
Tay
thư ký Nobel nói thẳng ra điều này, thế là cả nước Mẽo điên lên!
Đâu phải tự nhiên, xuất sắc như Borges, không hề được đề nghị Nobel? Ông ta chỉ lo chuyện bất tử, vĩnh cửu, và khi rảnh, yết kiến Pinochet, và xưng tụng, Ngài là một đấng phong nhã!

Ngô Bảo Châu, Nobel Toán

GNV thực sự tin rằng, Mít còn lâu mới được Nobel văn chương, chỉ tới chừng nào, có một Mít nào đó, giải ra câu hỏi hắc búa trên, may ra!

Nobel Toán giải ra được.. một nửa câu hỏi hắc búa:
Cái Đẹp Toả Sáng Của Cái Ác Bắc Kít!
Hà, hà!

Cái Phần Tối, Cùng Hung Cực Ác của Cái Ác Bắc Kít, chưa có ai dám rớ tới!
Đâu phải tự nhiên mà Tô Hoài gật đầu cho tên đệ tử VTN tha hồ viết về Sư Phụ?
Một đấng Ác Quán Mãn Doanh như Tô Hoài mà Ngài DT khen nức nở, viết văn đầy tài, đầy tình! Luôn luôn trẻ thơ!

Bất giác GNV lại nghĩ đến cái tay sĩ quan Hồng Quân trong Nhà Hội của Martin Amis, anh ta bốc phét, chỉ hiếp phụ nữ Đức mà giải phóng được nước Đức ra khỏi họa Nazi.

Cũng thế, là TH, qua ‘thế thân’, trong Ba Người Khác, chỉ nội hiếp dân quê Bắc Kít mà giải phóng họ khỏi đám địa chủ trong vụ Cải Cách Ruộng Đất!