CESAR VALLEJO
I was born on a day
that God was sick.
CESAR VALLEJO'S POEMS
have an anguished power, a rebellious lexical energy,
and a wild, freewheeling emotionalism. Sympathy for the
suffering of others is a current that runs through all
of his work. At times, one feels as if he has descended into
the welter of the unconscious and returned bearing messages
from this other world. Yet his own voice comes through as that
of the most vulnerable, agonized, and compassionate of speakers-a
witness urgently testifying to the experience of human pain.
Tớ sinh ra vào một ngày,
Lão Tặc Thiên bịnh
Thơ của César Vallejo có
một quyền năng nhức nhối, u uất, thống khổ, một nhiên
liệu từ vựng nổi loạn, và một thứ vãi linh hồn
- một chủ nghĩa cảm tính, “ê mô xườn”-
rất ư là thoải mái. Nỗi “nhủ lòng trước
thương đau của tha nhân” chạy dài suốt tất cả tác
phẩm của ông. Đôi lúc, nhiều lúc, người
ta có cảm tưởng như thể, ông lặn mình trong
cõi lùng bùng vô thức và ngoi
lên, ôm theo ông, những thông điệp từ thế
giới khác đó. Tuy nhiên, giọng của riêng
ông thì thấu suốt, như của 1 phát ngôn
nhân dễ tổn thương nhất, nhức nhối/hấp hối nhất và cảm
thông nhất - một chứng nhân khẩn thiết chứng nhận kinh
nghiệm của con người, về nỗi đau của nó.
Vallejo was born on
March 16, 1892, in a small Andean mining town in northern
Peru. He had Indian and Spanish blood on both sides. His poetry
shows tremendous feeling for his mother, the emotional center
of his religious childhood; for his father, a notary who
wanted him to become a priest; and for his ten older brothers and
sisters. He graduated from the University of Trujillo in 1915,
with a thesis on romanticism in Spanish poetry.
Vallejo supported himself
by teaching in primary schools. He read widely, worked
furiously at his poems, and belonged to the vanguard Colonida
group. He also suffered several traumatic love affairs,
after one of which he attempted suicide. In 1919, the year after
his mother's death, he published his first collection of poems,
Los heraldos negros, which Rebecca Seiferle has now scrupulously
translated as The Black Heralds.
THE BLACK HERALDS
There are blows in life,
so powerful ... I don't know!
Blows like God's hatred;
as if before them,
the undertow of everything suffered
were to well up in the soul
... I don't know!
They're
few; but they exist ... They open dark furrows
in the most ferocious face
and the most powerful loins.
Perhaps they're wooden horses
of barbaric Attilas,
or black messengers that Death
sends to us.
They're
profound lapses of the soul's Christs,
of some adorable faith that
Destiny blasphemes.
Those bloodthirsty blows are
cracklings of some
bread that in the oven's door
burns up on us.
And man
... Poor ... poor man! He turns his eyes, as
when a slap on the shoulder
calls us by name;
he turns his crazed eyes, and
everything he's lived
wells up, like a pool of guilt,
in his gaze.
There are
blows in life, so powerful ... I don't know!
Vallejo sinh này 16 Tháng Ba
1892 tại một thành phố mỏ nhỏ Adan ở phía Bắc
Peru. Ông có máu da đỏ và Tây
Ban Nha trong người, từ cả hai phía. Thơ của ông cho
thấy tình cảm dữ dội dành cho mẹ, cõi trung
tâm cảm xúc của thời ấu thơ tôn giáo của
ông; dành cho ông bố, một chưởng khế tòa
án, người muốn ông trở thành 1 tu sĩ; và
cho 10 anh chị em của ông. Tốt nghiệp Đại Học Trujillo năm 1915,
với luận án về chủ nghĩa lãng mạn trong thơ Tây
Ban Nha.
Vallejo tự kiếm sống bằng nghề dậy học tại
trường tiểu học. Đọc rộng, cật lực - phải nói điên
cuồng – làm thơ và thuộc nhóm tiên
phong Colonida. Ông cũng trải qua vài cuộc tình
nhức nhối, đầy thương đau, sau 1 cuộc tình, ông tính
tự làm thịt mình. Vào năm 1919, một năm sau
khi bà mẹ mất, ông cho xb tuyển tập thơ đầu tiên,
mà bây giờ, Rebecca Seiferle cẩn trọng dịch là
“The Black Heralds”, Những sứ giả đen.
THE BLACK HERALDS
NHỮNG SỨ GIẢ ĐEN
Có những cú thọi, đấm, đá,
bợp… trong đời, cực kỳ dũng mãnh, hung bạo… , tôi
không biết!
Những cú như thể hận thù của
Chúa; như thể trước chúng
Sóng dội mọi thứ đau khổ
Trào dâng trong linh hồn… Tôi
không hiểu!
Chúng có một dúm, nhưng
chúng hiện hữu…
Chúng mở ra những đường rạch u tối
Trên bộ mặt hung dữ nhất và những
thắt lưng dũng mãnh nhất
Có thể chúng là những
con ngựa gỗ của Attila man rợ
Hay là những thiên sứ đen mà
Thần Chết gửi cho chúng ta
Chúng là cú vỗ sâu
thẳm của những đấng Ky Tô của linh hồn
Của niềm tin đáng mến mà Số Mệnh
báng bổ
Những cú đánh thèm máu
nổ lốp bốp trên mẩu bánh mì lò nướng
phả hơi nóng lên chúng ta
A, con người, Khốn khổ… con người khốn khổ!
Hắn đảo con mắt
khi cú vả lên vai chúng
ta bằng tên
Hắn đảo con mắt khùng,
và mọi điều hắn sống cạn láng
đời, như cái ao tội lỗi, trong cái nhìn
của hắn
Có những đánh trong đời, thật
hung hãn…. Tôi không hiểu!
[Tạm dịch]
The black riders come with messages of destruction that
leave the speaker reeling and desolate. In these poems of alienated
romanticism, Vallejo grapples with the anachronism of his
past as well as the tragic incompatibilities of his divided
heritage. Faced with these contradictions, he speaks of his own
harsh solitude and inexplicable longings. Seiferle is wonderfully
alert to the indigenous elements in Vallejo's work, though I
don't agree with her polemical assertion that Vallejo has been "colonized"
by such previous translators as James Wright, Robert Bly, Thomas
Merton, and Clayton Eshleman, who have served the poet well. One of
Vallejo's recurring subjects is the void left in the soul when the
Logos has become uncertain and Christianity has lost its stable meaning.
Suddenly bereft of a common spiritual vocabulary, the poet seeks
to create an authentic language of his own in a fallen world.
Kỹ sĩ đen tới với những thông điệp
huỷ diệt làm kẻ phát ngôn ngất ngư, sầu não.
Trong những bài thơ lãng mạn vong thân này,
Vallejo nắm bắt cái vô thời của quá khứ, và
những cái không thể tương hợp bi đát của di sản rã
rời của ông. Đối diện với những mâu thuẫn này, ông
nói tới sự cô đơn khắc nghiệt, tàn nhẫn, và
những hoài vọng không thể giải thích được. Seiferle
thật tuyệt vời tỉnh táo, về những yếu tố bản xứ trong tác
phẩm của Vallejo, tuy nhiên, tôi [Hirsch] không đồng
ý với sự cả quyết có tính tranh luận của
bà, khi phán, Vallejo đã bị biến thành 1
tên cô lô nhần (colonized), bởi những dịch giả như
James Wright, Robert Bly, Thomas Merton, và Clayton Eshleman,
những người đã phục vụ thật tốt (served well) nhà thơ.
Một trong những đề tài trở đi trở lại của Vallejo, là sự
trống vắng để lại trong tâm hồn, một khi mà “Logos” - tạm
dịch “Lời” - trở nên “không chắc ăn”, uncertain, và
Ky Tô Giáo thì mất mẹ cái ý nghĩa vững
vàng, ổn định của nó.
Bất thình lình, bị nẫng mất cái cuốn
từ điển thần linh thông thường, bình thường, nhà
thơ bèn kiếm cách sáng tạo một ngôn ngữ đích
thực của riêng ông, trong 1 thế giới sa đọa.
[Ui chao, THNM, đoạn viết thần sầu trên, áp
dụng cho thơ tự do của ông anh TTT, thì thật là
tuyệt cú mèo! Nhớ, khi ông mới xuất hiện, lũ mắt
trắng dã mới đánh ông và thơ tự do khốn nạn
làm sao.
Hỡi những người thù ghét thơ của ta ơi, cuộc
hành trình hoàn toàn cô độc!
Chính vì thiếu chất Ky Tô - trong thơ
và trong đời thường - khiến TTT không thể lại viết lại,
trong khi những nhà thơ như Milosz làm thơ hoài
hoài, và càng làm thơ, càng xoáy
sâu vào cái độc, cái ác của con người,
theo GCC.]
In 1920,
Vallejo returned home for a visit and got inadvertently
mixed up in a political feud. Though innocent, he went into
hiding for three months and then was incarcerated for 105 days,
one of the gravest experiences of his life. During this period,
he wrote many of the poems for his second book,
Trilce (1922), which both Seiferle and Eshleman have
translated with great daring. Its seventy-seven poems, which bear
numbers for titles, are hermetic; the syntax disregards grammatical
rules and logical narrative. Language is put under intense pressure;
surreal images float loose from their context and poetic forms are
radically broken down and reconstituted. Neologisms abound. There
is a cabalistic obsession with numbers in a world where reality is
fragmented and death omnipresent. Vallejo's dire poverty, his bitter
sense of orphan-hood ("Give way to the new odd number / potent with
orphan-hood") and brooding exile from childhood, his rage over social
inequities-all make their way into an astonishing work that fell, as
the author declared, into a total void. He published no more collections
of poetry in his lifetime.
In 1923,
Vallejo left Peru for good and settled in Paris, where
he met his future wife, Georgette Phillipart, a woman of strong
socialist convictions, and eked out the barest subsistence.
Several times he nearly starved to death. In the late 1920s, he
underwent a crisis of conscience and became consumed by the quest
for a better social order. In 1931, he published two books:
Tungsten, a social realist novel, and Russia
in 1931, a travel book. His political activism peaked with his involvement
in the doomed Republican cause in the Spanish Civil War. He wrote
descriptive accounts of the conflict as well as a play,
The Tired Stone, and the fifteen magnificent poems that became
Spain, Take This Cup from Me. One of my favorites
is the poem "Masa" ("Mass"), dated November 10, 1937:
When the
battle was over,
and the fighter was dead, a
man came toward him
and said to him: "Do not die;
I love you so!"
But the corpse, it was sad!
went on dying.
And two
came near, and told him again and again:
"Do not leave us! Courage!
Return to life!"
But the corpse, it was sad!
went on dying.
Twenty arrived,
a hundred, a thousand, five hundred thousand,
shouting: "So much love, and
it can do nothing against death!"
But the corpse, it was sad!
went on dying.
Millions
of persons stood around him,
all speaking the same thing:
"Stay here, brother!"
But the corpse, it was sad!
went on dying.
Then, all
the men on the earth
stood around him; the corpse
looked at them sadly, deeply moved;
he sat up slowly,
put his arm around the first
man; started to walk ...
(TRANSLATED BY ROBERT BLY)
Năm 1920, Vallejo trở về thăm nhà, và
vuớng vô môt vụ hận thù chính trị. Tuy vô
tội, nhưng ông phải ẩn trốn mất 3 tháng, và sau đó,
bị ở tù mất 105 ngày, một trong những kinh nghiệm trầm trọng
nhất trong đời ông. Trong thời gian đó, ông làm
được rất nhiều thơ, cho tập thơ thứ hai,
Trilce (1922), mà
cả hai, Seiferle và Eshleman chuyển dịch với 1 sự săn sóc nâng
niu tới chỉ. Bẩy bẩy, 77, bài thơ của nó, dùng con
số làm tít, thì hũ nút, cú pháp
đếch thèm để ý đến văn phạm, và tự sự thuần lý.
Ngôn ngữ thì bị đặt dưới sức ép cực căng, những hình
ảnh siêu thực lềnh bềnh, lều bều phiêu bạt, như muốn thoát
ra khỏi nội dung, và những hình dạng thơ, thì bị gẫy
vụn, bể nát, ngay từ cơ bản, rồi được cấu trúc lại. Tràn
trề khắp khắp, là cái gọi là tân luận lý
– xém thì viết thành tân hình thức, hà,
hà – Có 1 ám ảnh cabalistic - thần bí giáo
Do Thái - với những con số, trong 1 thế giới, nơi thực tại bị gẫy
vụn thành từng mảnh, từng khúc, và cái chết thì
ê hề. Sự nghèo đói tàn khốc của Vallejo, cái
cảm quan cay đắng về côi cút (Mở ra 1 con đường tới con số cọc
cạch mới/hiệu nghiệm với mồ côi”) và lưu vong trùng trùng
từ ấu thơ, sự giận giữ của ông với những bất bình đẳng trong
xã hội - tất cả mở ra 1 con đường đưa tới 1 tác phẩm văn học
gây kinh ngạc, mà, nó, như tác giả của nó,
tuyên bố, rớt vào một cõi trống rỗng hoàn toàn,
vô ích, vô dụng, đếch có giá trị - a total
void.
Vào năm 1923, Vallejo rời Peru, for good, may
mắn thế, “cho anh 1 tí Paris”, đúng như thế, nơi ông gặp
người vợ tương lai của ông, và định cư ở Paris. Vợ ông,
Georgette Phillipart, một người đàn bà với niềm tin XHCN mạnh
mẽ. Và như thế, cuộc sống của cả hai lại càng thêm khốn
đốn. Nhiều lần, ông đói lả, xém đi luôn. Vào
cuối thập niên 1920, ông trải qua một cơn khủng hoảng tâm,
và bị thiêu đốt bởi một ham muốn, phải tìm cho ra, 1
trật tự xã hội tốt đẹp hơn. Vào năm 1931, ông cho xb
hai cuốn sách:
Tungsten, một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã
hội, và
Russia, 1931, 1 cuốn sách du lịch. Hoạt động
chính trị của ông lên đến đỉnh cao với sự dính
líu của ông vào lý tưởng, sự nghiệp Cộng Hòa
thất bại, trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Ông viết những tường
thuật về cuộc xung đột, và 1 vở kịch,
Hòn Đá Mệt
Mỏi, và 15 bài thơ tuyệt vời, sau trở thành
Spain,
Take This Cup from Me. Một trong bài thơ mà tôi [Hirsch]
ưa thích, là “Masa” (“Mass”), đề ngày 10 Tháng
11, 1937:
Khi trận đánh xong xuôi
Và kẻ chiến đấu đã chết, một người đàn ông đi
tới và nói với anh ta:
“Đừng chết; tớ yêu bạn thế!”
Nhưng cái xác chết, mới buồn bã làm sao, vưỡn
tiếp tục chết.
Và hai đấng đàn ông tới gần, nói, và
nói, và lại nói:
“Đừng bỏ chúng tôi! Hãy can đảm lên! Hãy
trở lại với đời!”
Và hai chục, một trăm, 1 ngàn, năm trăm ngàn, la lớn:
“Tình yêu nhiều quá xá quà xa, và
nó có thể làm - chẳng làm gì - chống
lại cái chết!”
Và cái xác, buồn ơi là buồn, vưỡn tiếp tục
chết.
Triệu triệu con người đứng quanh anh ta,
tất cả nói, cùng 1 điều:
“Hãy ở đây, người anh em!”
Nhưng cái xác buồn ơi là buồn, vẫn chết.
Và rồi thì, tất cả những người đàn ông trên
trái đất,
đứng quanh anh ta; cái xác buồn bã nhìn họ,
buồn tới bến, cảm động tới bến; từ từ đứng dậy,
choàng tay qua người đàn ông thứ nhất, khởi sự cất
bước…
Vallejo
died on April 15, 1938. In the last fifteen years of
his life, he wrote 110 poems that are his crowning achievement.
The year after his death his widow published
Poemas humanos (Human Poems), which
brought together his undated lyric and prose poems written between
1923 and 1936, as well as dated poems from 1936 to 1938. Recent scholarship
suggests that Vallejo intended three separate collections:
Payroll of Bones, Sermon on Barbarism, and the Spanish
Civil War Verses. Human feeling is the convulsive subject of these apocalyptic
books. The poems speak to the difficulty of maintaining a human face
in an alienated industrial world where people wander among objects
like strangers and language no longer represents reality. All are shot
through with sadness as, disaffected and dislocated, Vallejo struggles
to speak as dearly as possible. The poems are haunted by premonitions
of the poet's death ("I will die in Paris, on a rainy day, / on some
day I can already remember"), by his sense of the torment of others ("I
know there is someone / looking for me day and night inside her hand,
/ and coming upon me, each moment in her shoes"), by his grief over the
impending fate of Spain and the destiny of Europe. Finally, Vallejo emerges
as a prophet pleading for social justice, as a grief-stricken Whitmanian
singer moving through a brutal universe:
And don't bother telling me
anything,
that a man can kill perfectly,
because a man,
sweating ink, does what he
can, don't bother telling me ...
(TRANSLATED BY ROBERT BLY)
Edward Hirsch:
Vallejo mất ngày 15 Tháng
Tư 1938. Trong 15 năm cuối đời, ông không viết thêm
được bài thơ nào đáng kể thêm vào thành
tựu trước đó. Một năm sau khi ông mất, bà vợ góa
cho xb Poemas humanos (Human Poems), gộp chung trong đó
những bài thơ trữ tình, và thơ xuôi không
đề ngày tháng, được viết giữa 1923 và 1936, cùng
những bài có ghi ngày tháng, từ 1936 tới 1938.
Những nhà học giả mới đây đề xuất, ba tập thơ tách
rời cố ý, intended three separate collections, Payroll of
Bones, Sermon on Barbarism, và the Spanish
Civil War Verses. Tình cảm, ý nghĩ về con người, human feeling
là đề tài chấn động của ba cuốn thơ tận thế này, the
convulsive subject of these apocalyptic books. Những bài thơ nói
về sự khó khăn gìn giữ bộ mặt người trong 1 thế giới kỹ nghệ,
bị tha hóa, nơi con người lang thang, lạc lõng giữa những sự
vật như những kẻ lạ và ngôn ngữ thì không còn
đại diện, represent, thực tại. Tất cả được chụp, all are shot, với nỗi buồn,
như thể, Vallejo đếch thích thú gì, và đếch còn
nơi nào để bám trụ, cắm dùi, disaffected and dislocated,
bèn chiến đấu để nói lên, rõ ràng, minh
bạch được tới đâu thì OK tới đó, as clearly as possible.
Những bài thơ bị ám ảnh bởi sự tiên cảm của cái
chết của chính tác giả (Tớ sẽ chết ở Paris/vào 1 ngày
mưa 1 ngày nào đó/tớ có thể đã nhớ),
bởi cảm quan của ông về sự dằn vặt, day dứt của những người khác
(Tớ biết có 1 người nào đó/kiếm tớ ngày và
đêm trong tay của nàng/và trèo lên tớ,
coming upon me/ từng khoảnh khắc trong gót giầy của nàng/each
moment in her shoes), bởi nỗi thống khổ của ông về số mệnh Tây
Ban Nha và định mệnh của Âu Châu. Sau cùng Vallejo
xuất hiện, như 1 nhà tiên tri kêu nài công
lý, như 1 ca sĩ kiểu Whitman bị đau khổ dằn vặt, di chuyển trong
1 vũ trụ tàn nhẫn:
Đừng làm ta bực mình khi kể cho ta nghe bất cứ điều
gì
Rằng con người giết người thật là tài, thật là
hoàn hảo
Bởi là vì con người
mực đổ mồ hôi
làm cái điều hắn có thể
đừng làm ta bực mình kể cho ta nghe…