Có mấy Trần
Đăng Khoa? (1)
Theo TTD, có hai
(1) Tít này, Gấu thuổng. NQT
Tôi đã từng nhiều lần không tin cái anh bạn
đang ngồi
nói chuyện với mình đây lại là do chú bé làm thơ Trần Đăng Khoa lớn lên
mà
thành. Những bài thơ ấy với con người này sao chẳng thấy tương xứng với
nhau
chút nào. Bản thân sự tương xứng ấy không liên can gì tới hình thức
nhan sắc bề
ngoài, nhưng ít ra nó cũng có liên can. Tôi ngờ rằng sau khi làm được
một mớ
thơ, nói theo cách nói của người nhà quê, thấy con mình nổi tiếng quá
khiến bà
mẹ lo lắng. Cái cách lo lắng đề phòng của người nhà quê cũng dân giã,
bình
thường, ấy là lo người ta lấy mất con mình, nên đem nó dấu vào trong bồ
thóc
như dấu củ khoai củ ráy. Sự thể không đơn giản thế bởi đất nước có
chiến tranh.
Gà mái mất con vì bom đạn thù, nó còn điên dại lồng lên đi tìm, như
trong một
bài thơ khá hay của Trần Đăng Khoa đã kể, huống chi bà mẹ đẻ ra được
chú hài
nhi người ta gọi là Thần Đồng! Khiếp lắm! Thôi thì dấu trong rương
trong hòm
không xong đành phải bày trò đánh tráo. Thằng anh con bác Cả hơn thằng
em hai
tuổi vốn tính cũng láu lỉnh thông minh, lại muốn bay nhảy nên cho nó
thế vào
chân em , vừa được tiếng vừa được miếng, lại giữ được con, lại lo được
cho
cháu! Thế là nghị quyết gia đình được đưa ra bàn bạc giữa hai nhà. Hai
nhà nhất
trí. Cái anh chàng Trần Đăng Khoa sinh năm 1956 chính là Trần Đăng Khoa
bây
giờ. Còn em bé làm thơ Trần Đăng Khoa hồi ấy (sinh năm l958) đã thành
ông nội,
ông ngoại, con đàn cháu đống ở làng. Từ ngày có người anh ra đi thay
cho mình,
"Khoa thật" trở nên buồn bã không thơ phú văn chương nữa. (Tất nhiên
anh ta phải mang cái tên của ông anh họ). Còn "Khoa anh" thì lại cứ
tưởng mình là thiên tài, là Trần Đăng Khoa thật, thành thử suốt ngày lo
trau
dồi văn thơ, chữ nghĩa, té ra anh ta cũng là tay có khiếu, sáng tác
được khá
nhiều thơ hay, được bộ đội cho đi học sĩ quan rồi cho đi vào thực tế
đời sống,
làm cán bộ ở Hải Quân, rồi lại đi học trường viết văn Nguyễn Du, hết
Nguyễn Du
tiếp tục sang Liên Xô học trường viết văn lớn nhất thế giới, ngôi
trường mang
tên văn hào Gooc-Ky... Sau bẩy năm du học ra trường về nước, đã có cơ
quan văn
học lớn nhất trong quân đội chờ sẵn để tiếp nhận.
Tôi đã đem câu chuyện "Cuội"này của tôi ra
kể cho Trần Đăng Khoa nghe, nghe thấy có lý nên anh ta mới ậm ờ cho
qua. Kết
quả bao nhiêu năm đảng và quân đội chăm lo cho nhân tài, quả được anh
đền đáp
không đến nỗi nào, bằng những tập thơ tập văn sau này, với những bài
thơ những
câu chuyện về lính đảo và đặc biệt tập sách "Chân dung và đối thoại"
của anh gần đây được những người hâm mộ cổ vũ nhiệt liệt, và cả những
người không
đồng ý với anh tranh cãi kịch liệt. Cái kịch liệt ấy tạo nên một không
khí mới
cho văn đàn tẻ nhạt nhiều năm qua. Mà thực chất bản thân những điều
khiến nhiều
người tranh cãi kịch liệt ấy cũng chỉ xoay quanh mấy trò xiếc của
anh
chàng Cuội ngồi gốc cây... thơ, được Trần Đăng Khoa dựng lên. Âu đó
cũng là một
sự đóng góp rất đáng kể cho đời sống văn nghệ
vậy.
Tháng 9 năm 2000
Chân dung Trần Đăng
Khoa
TTD
TDK by NQT
Lê
Lựu đại náo Huê Kỳ
Tố
Hữu:
Phịa như thiệt
"Balzac
mô tả cái nón,
là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn
đuốc
đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích
được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Note: Gấu phán về trận đánh DBP bảnh hơn VC nhiều!
Văn chương
sám hối?
Cái
độc, cái ác trong văn chương.
"Đứng trước một đứa trẻ
chết đói, cuốn Buồn Nôn, La Nausée, chẳng có ký lô nào", Sartre đã từng
tuyên bố. "Người Nghệ Sĩ Đói" được giới phê bình đánh giá là
"truyện ngắn độc ác nhất" của Kafka. Công chúng phải trả tiền để vào
xem người nghệ sĩ đói, để mân mê thân hình trơ xương của anh. Người ta
cũng đã
từng nói tới những chi tiết tàn nhẫn, cái ác trong truyện ngắn Nguyễn
Huy
Thiệp. Tại sao lại có những chi tiết tàn nhẫn như thế? Bởi vì trong
"thực
tế" (đẻ ra tác phẩm của ông), ông đã "thực tế" cái điều: Đứng
trước một đứa trẻ chết đói...
Balzac tả cái nón, vì có người đamg đội nó.
Một cách nào đó, Chân Dung và
Đối Thoại là một phiên bản của
Chân Dung Nhà Văn của Xuân Sách. Bạn không thể
đọc một, bỏ một. Chúng bổ túc cho nhau một cách thật tài tình, như môn
Lưỡng
Nghi kiếm pháp, một âm, một dương của một môn phái võ học trong Kim
Dung. Cái
độc đẻ ra thiên tài văn chương, là ở Xuân Sách. Cái độc đẻ ra thảm họa,
là ở
Trần Đăng Khoa, bởi vì đi giữa, nghĩa là chẳng thuộc về bên nào: thái
độ khôn
ngoan này không chỉ một mình ông là người lựa chọn. Ngay Nguyễn Huy
Thiệp mà
còn tự khoe: tôi khôn hơn Dương Thu Hương.
*
Tâm sự của Xuân Sách
Những bài thơ chân dung các
nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước vào
thập kỷ
60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ
quân đội
ở ngôi nhà số 4 Lý Nam
Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra thời gian của chúng
tôi dành
nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới,
những
đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước
mắt...
đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi
cả
tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học,
nhận
thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi
lên lớp
tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ, các
nhà văn,
các hoạ sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi lập trung với nhau ở những hàng ghế
cuối hội
trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe
giảng về hai
phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường,
nỗ lực,
quyết tâm... mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với
nhau những
câu chuyện tào lao hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm,
nuối vội
khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát
hiện, bị
nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi chuyển sang “bút đàm”.
Vào năm 1962 có đợt học tập
quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng
hoà bình
chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt
học này.
Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng
hắt lên
như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc
phải tề
chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như
cùm.
Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ,
có cớ
chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai
hậu, ngồi
học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông
là người
biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều
được lau
bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy
dép
trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần.
Giờ đây
ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
Trong buổi lên lớp căng thẳng
như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ
chữ Hán
trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi
chữ Hán và
tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo
tôi
dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi
chúng tôi
nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương
mới bước
vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập
tiểu thuyết
“chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà
Thiều tham dự,
đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu
in. Tôi
thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:
Văn nghiệp tiền trình khả
điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai hếu phong trần
lý
Chuyển địa
hà thời chuyển đắc
ngân
Dịch nghĩa:
Con đường văn nghiệp khá
thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trơ trụi
Đôi vai lầm lũi trên con
đường gió bụi
Chuyển vùng đến bao giờ thì
chuyển thành tiền được?
Dịch thơ:
Con đường văn nghiệp thương
ông
Lông đầu rụng hết thư lông cái
gầu
Đôi vai gánh mãi càng đau
Chuyển vùng
nào nữa làm sao
thành tiền?
Dịch xong tôi chuyển bài thơ
cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người
phải nén
cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén
đến nỗi
mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.
Tự nhiên trong đầu tôi lóe
lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung!
Trong bài
thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng
cách dùng
nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát,
tiếp tục
trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và
bài thơ
số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác
giả in
nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn
học. Tôi
dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và
tên cái
truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra
mẫu giấy:
Trên biển lớn lênh đênh sóng
nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh
lại giở thư nhà ra
xem
Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn
Khải.
Anh đọc xong trên mặt có
thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi,
anh bỏ
bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng
tôi ra
ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương
đọc. Mặt
Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như
cách sỗ
sàng của anh:
-Thằng này (chỉ tôi)
ghê quá,
không phải trò đùa nữa rồi!
Chân Dung
Nhà Văn & Lời
Bàn: Gấu, Nhà Văn
Khi Chân dung nhà
văn được
phát hành, phản đối gay gắt nhất là một số nhà văn được đề cập trong
đó. Nay số
nhà văn đó cũng đã mất gần hết. Nhà văn VN chưa quen với chân dung biếm
họa hay
thơ biếm. Ở nước ngoài đấy là chuyện bình thường. Nhưng dần dần nhà văn
VN phải
làm quen thôi. Khi ấy Chân dung nhà văn được in lại cũng là chuyện bình
thường.
Hoàng
Lại Giang: Tôi
đang viết
về ông Sáu Dân
*
Nhận
xét trên, đúng, nhưng…
không đúng, với trường hợp Xuân Sách.
Xuân Sách châm biếm nhà văn
VC, nhưng "hơn thế nữa", nhục mạ chế độ.
Bởi chỉ có chế độ khốn kiếp
như thế, mới đẻ ra những nhà văn như thế.
Hãy coi lại nhóm Nhân Văn đã
bị nhà văn VC mượn nhà nước VC làm nhục họ như thế nào, thì hiểu ra tại
sao có Chân Dung Nhà Văn, có
Xuân Sách.
Chính vì nhận ra điều này,
nên DTM mới muốn biết, nếu Xuân Sách vẽ chân dung của ông, thì nó sẽ
như thế
nào.
Đây là một cái "test" của DTM trước khi đi.
Một người, cứ tạm cho là
không một vết dơ, nếu được Xuân Sách vẽ, thì nó sẽ ra làm sao, giữa một
đống dơ
đó!
Bởi thế, mà Xuân Sách mới
viết, ông không làm sao viết về cụ DTM được!
Khó quá!
Vẽ
quỉ ma dễ, vẽ người khó,
là vậy!
Thiên hạ mê coi Blog NQL, chắc là cũng cùng một lý do như vậy
chăng?
*
Nhàn
nói: “Những bài
thơ này ông
Sách
viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”.
Nhận
xét của VTN làm nhớ đến một câu của Gide, viết về Dos: Tác phẩm
lớn có sự tham gia, participation, của Quỉ.
Nhưng
cũng còn làm nhớ đến câu, cái độc cái ác là thức ăn của thiên tài.
Chúng
ta tự hỏi, hai câu trên, câu nào đúng, với những bài thơ chân
dung của Xuân Sách.
Theo
tôi, câu sau. Và từ đó, là sự cách biệt giữa những bài viết của
Thần đồng Trần Đăng Khoa, với những chân dung nhà văn của Xuân Sách.
Tác giả Xuân Sách cũng nhận ra điều này, khi lọc ra một câu, và bàn về
nó:
Câu
thơ:: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi
đá chửa thành
cơm” đâu
chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại
diện của
một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời
đại mình
đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng
cũng thật
đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ
gối trước
quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết,
nếu có
nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của
những
cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc
đời cũng
như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
*
Đọc, không hiểu sao, Gấu lại nhớ tới thư nhà của Brodsky, viết cho bố
mẹ của ông.
*
Tôi
viết thư nhà
này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự
do, một
chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những
người muốn,
hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và
Alexander
Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngoại về lương tâm” [a
“foreign
code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển
động,
diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ
sống lại,
nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con
đường
giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so
với văn
phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự
giam cầm
của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách
máy móc
kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính
là xuất
phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan
này tới cơ
quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy
phép đi
ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết,
và liên
tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một
tờ giấy
phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”].
Chỉ nội
chuyện đó không thôi, sự lập đi lập lại một “lời phán” khốn nạn
như thế,
nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga.
Ngoài ra,
ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng
chẳng
mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới
bầu
trời Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã
chết, hoặc
sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự? Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện
này hơn ai
hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn
mẹ cha
của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo
yêu cầu
của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân.
Và rồi
thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc
ống nghe
điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở
nước
ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và
dù có
la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những
người đó
điều gì? Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng có một xứ sở nào đã
luyện
được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình
như nước
Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó;
không,
chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì
lý do
đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người.
Xin cho
tiếng Anh làm cái nhà cho những người thân quá cố của tôi. Trong tiếng
Nga, tôi
được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với
mẹ cha
tôi, bà Maria Volpert và ông Alexander Brodsky, tiếng Anh mới chính là
thứ ngôn
ngữ dâng cho họ một cõi sau xem ra tươm tất hơn và có thể đó là cõi duy
nhất mà
họ có được ngoài cái trí nhớ của bản thân tôi về họ ra. Còn về bản thân
tôi,
khi viết bằng tiếng này, thì cũng chỉ như là rửa chén dĩa mà thôi, rất
tốt cho
sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa rửa một
mớ chén
dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!
Thư
Nhà
Chẳng
có một xứ sở nào đã luyện
được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình
như nước
Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó;
không,
chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này.
*
Tatyana
Tolstaya, trong một
bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc
qua bản
dịch, Những Thời Ăn Thịt Người
(đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa
Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không
phải do
Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch
sử Nga.
Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga
không ăn,
mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa
lên làm
giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không
có sự yểm
trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin
đã từng
van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Nơi người chết mỉm cười