*


   

CVD:
Tôi thấy câu văn này: “Việc cho ra đời một tác phẩm văn chương không tương đương với sự bừng nở bên trong mình một mầm sống” (tr. 45) là rất đặc biệt. Có phải bà muốn nói ngược lại cả một truyền thống hay hình dung sự sáng tạo như là thai nghén một đứa con?

Linda Lê:
Trong bức thư của tôi có một đoạn dài về việc tác giả bức thư từ chối so sánh viết với thai nghén. Tôi không mấy coi trọng các ẩn dụ kết nối quá trình hoàn thành một tác phẩm hư cấu với việc sinh nở. Những quyển sách không phải thế phẩm của những đứa con mà người ta không sinh.

Cái việc một người nữ từ chối sinh nở, có con….  có nhiều lý do.
Kết nối Linda Lê với Kertesz xem ra có vẻ khiên cưỡng, như câu trả lời của bà cho thấy.

Và nếu như thế, trường hợp Linda Lê mà những tác phẩm của bà luôn bị ám ảnh bởi cái chết, sự khùng, điên, loạn luân..  xem ra lại gần Virginia Woolf hơn, bởi vì Leonard chồng của Woolf chẳng đã từ chối không cho Woolf là 1 người mẹ, khi viện cớ khùng điên:

Leonard a refusé à Viginia Woolf d’être mère prétexant la menace de la folie.
Le Magazine Littéraire, Avril 2012, bài viết của Diane de Margerie về người tình cùng phái của Woolf, Vita Sackville-West.

*

4/19/12

Trò chuyện với Linda Lê

Linda Lê (sinh năm 1963) là nhà văn gốc Việt viết văn bằng tiếng Pháp, với những tác phẩm nổi tiếng: Phúc âm tội ác, Ba nữ thần số mệnh, Cronos... Tiểu thuyết của bà gây kinh ngạc vì sự u tối, văn chương đẹp dị thường và những suy tư ám ảnh. Linda Lê còn là một nhà phê bình văn học nổi tiếng với những bình luận sắc sảo về nhiều nhà văn lớn trong quá khứ. Tại Việt Nam, tiểu thuyết Vu khống và tập truyện ngắn Lại chơi với lửa đã được ấn hành trong mấy năm trở lại đây. Gửi đứa con mà tôi sẽ không sinh (À l’enfant que je n’aurai pas) là tác phẩm mới nhất của bà, được viết dưới dạng một lá thư.

Với tôi, “Gửi đứa con mà tôi sẽ không sinh” chứa đựng nhiều đặc tính của một tác phẩm thuộc truyền thống “tiểu thuyết bằng thư” [roman épistolaire] vốn có dấu ấn đậm đà trong lịch sử văn học Pháp (ví dụ như “Julie” của Rousseau hay “Những mối quan hệ nguy hiểm” của Laclos), nhưng bức thư của bà trên thực tế lại không phải là một “tiểu thuyết bằng thư” đúng nghĩa. Bà nghĩ thế nào về nhận xét này?

Bức thư này có thể được coi như một tác phẩm hư cấu, mặc dù tôi đã cho người kể chuyện mang một số nét của con người tôi. Đây là câu chuyện về một người phụ nữ nhìn lại một giai đoạn trong quá khứ của mình, vào lúc cô lựa chọn là sẽ không sinh con. Tuy nhiên đây không phải là một “tiểu thuyết bằng thư”, vì người phụ nữ này gửi thư cho một nhân vật không tồn tại và vì bức thư của cô sẽ không có được tiếng vọng nào.

Cuốn sách của bà có một chủ đề thật khó xử lý. Bà đã làm thế nào để thực hiện được điều đó? Và ý tưởng về bức thư này, nó từ đâu đến?

Trong nhiều năm, tôi đã suy nghĩ về vấn đề không sinh con. Ý tưởng ở lúc khởi đầu là viết một bức thư với ý nghĩa giống như sự giải thoát cho một người đã có được quyết định: có lẽ là quyết định thú nhận những gì cô vẫn luôn luôn che giấu với chính mình. Hẳn tôi đã viết bức thư này dưới dạng truyện, nếu không nhận được lời đề nghị viết một bức thư cho một tủ sách toàn các tác phẩm dưới dạng thư (tủ sách “Les Affranchis” của NXB NiL). Đây là một dự án đã được ấp ủ từ lâu, vì tôi vẫn thường xuyên nói về người cha, hoặc mối quan hệ giữa một người mẹ và con trai bà ta, rồi thì có lẽ đã đến lúc cũng phải nói rằng tại sao tôi tránh sinh con. Tuy nhiên cuốn sách này hoàn toàn không phải một tuyên ngôn, cũng không phải một cuốn sách về những nuối tiếc.

Bà có nghĩ “Gửi đứa con mà tôi sẽ không sinh” là một bức thư giả để nói ra sự thật không?

Có, trong chừng mực tác giả, bằng cách hé lộ những bí mật sâu kín, có lẽ lại nói nhiều với bản thân mình hơn là với đứa trẻ sẽ không bao giờ ra đời kia.

Thực tế thì trong bức thư của bà có hai mối quan hệ mẹ-con: một là mối quan hệ có thực giữa người kể chuyện và mẹ của mình (biệt danh “Big Mother”), thêm vào đó là mối quan hệ tưởng tượng giữa cô và một đứa con sẽ không chào đời. Đâu là các ảnh hưởng giữa hai mối quan hệ ấy?

Người kể chuyện nói cô e ngại sẽ tái tạo các mô hình quyền uy áp chế. Nhưng có lẽ đó không phải là yếu tố then chốt trong lời chối từ sinh nở của cô. Các lý do thuộc về khía cạnh triết học nhiều hơn. Cô như thể bị tê liệt bởi nỗi sợ ném một đứa bé vào một thế giới nơi bản thân cô cũng gặp phải những khó khăn vô cùng lớn để có thể trụ vững ở vị trí của mình.

Viết thư cho một ai đó, ngay cả khi “một ai đó” vắng mặt, có phải là một cách thức làm cho con người ấy được hiện diện?

Đúng, từ rất lâu tôi đã thử làm tái sinh khuôn mặt người cha, đã đến lúc phải tự hỏi liệu đứa con mà tôi không sinh có cũng đóng góp vào cái mà người kể chuyện coi là một sự tinh tấn về tinh thần hay không.

Nỗi đau nào lớn hơn: sinh một đứa con không sống được hay từ chối sinh một đứa con? (Tôi nghĩ tới đoạn cuối bức thư, khi bà kể về cuộc gặp giữa người kể chuyện và một bà mẹ đau khổ vì mất con).

Tôi nghĩ người phụ nữ từ chối sinh con không sống trong đau khổ, hoặc dù gì thì đó cũng không phải loại tình cảm mà người kể chuyện cảm nhận thấy. Khi dự phần vào sự hoảng loạn của người mẹ bị mất đi đứa con kia, cô hiểu ra rằng xét cho cùng cô vẫn là một con bé chưa trưởng thành, không có khả năng đảm nhiệm vai trò mà thiên chức làm mẹ giao phó.

Bức thư này có khả năng làm dịu đi nỗi hoang mang mà ta có thể cho là thuộc về khía cạnh bản thể luận của người kể chuyện hay không?

Theo tôi, viết không thực sự là một nỗi nguôi ngoai, đôi khi nó còn làm trầm trọng sự tra vấn thêm nữa là khác. Nhưng dù có thế nào thì tôi vẫn cảm thấy được giải phóng khi kết thúc bức thư, nó đã thật nhanh chóng tuột ra mặt giấy, như thể mọi điều tôi nói trong đó đã ở bên trong tôi từ lâu rồi.

Một đứa con có thể có ý nghĩa gì với một nhà văn quá mức bị ám ảnh bởi sự viết?

Đứa con có thể là một trở ngại không à? Tôi không biết. Người kể chuyện nói cô không biết một đứa con sẽ có vị trí như thế nào trong sự tồn tại kỳ cục của cô, bởi vì cô tự hiến mình hoàn toàn cho công việc viết văn. Nhưng khi có ý thức về một sự cắt bỏ nào đó, dù sao thì cô cũng có thể tiến về phía trước, sau khi đã chào đón đứa con của mình trên con thuyền Noé bằng giấy.

Tôi thấy câu văn này: “Việc cho ra đời một tác phẩm văn chương không tương đương với sự bừng nở bên trong mình một mầm sống” (tr. 45) là rất đặc biệt. Có phải bà muốn nói ngược lại cả một truyền thống hay hình dung sự sáng tạo như là thai nghén một đứa con?

Trong bức thư của tôi có một đoạn dài về việc tác giả bức thư từ chối so sánh viết với thai nghén. Tôi không mấy coi trọng các ẩn dụ kết nối quá trình hoàn thành một tác phẩm hư cấu với việc sinh nở. Những quyển sách không phải thế phẩm của những đứa con mà người ta không sinh.

Tôi có thể hỏi về dự án sắp tới đây của bà không?

Tháng Chín tới cuốn tiểu thuyết mới mang tên “Lame de fond” (Sóng ngầm ở đáy biển) của tôi sẽ được ấn hành. Đó là một cuốn sách có bốn giọng, viết về sự lưu đày, về một mối tình loạn luân.

Réponses M. Cao Viet Dung

-           Pour moi, À l’enfant que je n’aurai pas contient toutes les apparences d’une oeuvre de la tradition de “romans épistolaires” si bien ancrée dans l’histoire littéraire de la France, mais cette lettre n’est pas un “roman épistolaire” à proprement parler, en réalité. Qu’en pensez-vous?

-           Cette lettre peut être considérée comme une fiction, même si j’ai prêté à la narratrice certains traits de ma personnalité. Il s’agit du récit d’une femme qui revient sur un épisode de son passé, sur le moment où elle a fait le choix de ne pas procréer. Ce n’est toutefois pas un roman épistolaire, puisque cette femme s’adresse à un personnage qui n’existe pas et puisque sa lettre restera sans écho.

- Le sujet de votre livre est très difficile à traiter. Comment avez-vous fait pour arriver au bout? Et l’idée de cette lettre, d’où vient-elle?

 Durant des années, j’ai réfléchi à la question de la non-maternité. L’idée au départ était d’écrire une lettre qui serait comme une délivrance pour la personne qui se décide à franchir le pas en avouant peut-être ce qu’elle s’est toujours dissimulée à elle-même. J’aurais peut-être écrit cette lettre sous la forme d’un récit si l’on ne m’avait pas demandé de donner une lettre à cette collection. C’était un projet qui était en germe depuis longtemps, car j’ai souvent parlé du père, ou des relations entre une mère et son fils, et le temps était peut-être venu de dire aussi pourquoi je me suis abstenue d’enfanter. Ce livre n’est toutefois ni un manifeste ni un livre de regrets.

-           Pensez-vous qu’À l’enfant que je n’aurai pas est une fausse lettre pour dire une vérité?

-           Oui, dans la mesure où l’auteur, en dévoilant des secrets enfouis, parle peut-être plus à elle-même qu’à cet enfant qui ne sera jamais mis au monde.

-           La relation mère-enfant est effectivement double dans votre lettre: l’une, réelle, entre la narratrice et sa mère, l’autre, fictive, entre celle-là et un enfant qui ne verra pas le jour. Quelles sont les influences de l’une sur l’autre? 

-           La narratrice dit qu’elle redoute de reproduire des schémas d’autoritarisme. Mais ce n’est peut-être pas l’élément déterminant dans son refus de procréer. Les raisons sont plus d’ordre philosophique. Elle est comme paralysée par la peur de jeter un enfant dans un monde où elle-même a les plus grandes difficultés à se sentir à sa place.

-           Écrire à quelqu’un, même si ce “quelqu’un” est absent, est-il une manière de le rendre présent?

-           Oui, j’ai longtemps essayé de ressusciter la figure du père,  l’heure était venue de se demander si l’enfant que je n’ai pas eu contribue aussi à ce que la narratrice considère comme étant un avancement spirituel.

-           Quelle est la plus grande douleur: avoir un enfant mort ou refuser d’en avoir un? (Je pense à la fin de votre lettre où vous racontez la rencontre de la narratrice avec une mère douloureuse). 

-           Je crois que la femme qui a refusé d’avoir des enfants ne vit pas dans la douleur,  en tout cas tel n’est pas le sentiment qu’éprouve la narratrice. En assistant à la détresse de cette mère qui a perdu son enfant, elle comprend qu’elle est restée au fond une adolescente, incapable d’assumer le rôle que lui conférerait la maternité.

-           Cette lettre pourrait-elle avoir la capacité d’apaiser la douleur, qu’on peut qualifier ontologique, de la narratrice?

-           A mon avis, l’écriture n’apporte pas vraiment un apaisement, elle ne fait parfois qu’aggraver le questionnement. Mais je m’étais sentie malgré tout libérée en terminant cette lettre, qui a jailli d’un trait, comme si tout ce que j’y disais était en moi depuis longtemps.

-           Que pourrait signifier un enfant pour un écrivain très hanté par l’écriture?

-           Serait-il un obstacle ? Je l’ignore. La narratrice dit qu’elle ne sait quelle place aurait un enfant dans sa drôle d’existence, puisqu’elle se voue totalement à l’écriture. Mais en ayant conscience d’une certaine mutilation,  elle peut quand même aller de l’avant, après avoir accueilli son enfant dans son arche de Noé en papier.

-           - Je trouve cette phrase: “La mise au jour d’une fiction n’équivaut pas à l’éclosion en soi d’un germe de vie” très spéciale. Voulez-vous contredire toute une tradition qui conçoit la création comme un accouchement?

-           Il y a un long développement dans la lettre sur le refus de son auteur de comparer l’écriture à un accouchement. Je ne prise guère les métaphores qui font le lien entre l’élaboration d’une fiction  et le travail de l’enfantement. Les livres ne peuvent être des succédanés des enfants qu’on n’a pas eus.

-           Votre prochain projet d’écriture?

-           Je publie en septembre prochain un roman qui s’intitule Lame de fond. C’est un livre à quatre voix, sur l’exil, sur un amour incestueux.

 


CVD phỏng vấn Linda Lê

CVD:

Pour moi, "À l’enfant que je n’aurai pas"contient toutes les apparences d’une oeuvre de la tradition de “romans épistolaires” si bien ancrée dans l’histoire littéraire de la France, mais cette lettre n’est pas un “roman épistolaire” à proprement parler, en réalité. Qu’en pensez-vous?

Linda Lê:

Cette lettre peut être considérée comme une fiction, même si j’ai prêté à la narratrice certains traits de ma personnalité. Il s’agit du récit d’une femme qui revient sur un épisode de son passé, sur le moment où elle a fait le choix de ne pas procréer. Ce n’est toutefois pas un roman épistolaire, puisque cette femme s’adresse à un personnage qui n’existe pas et puisque sa lettre restera sans écho.

Với tôi, “Gửi đứa con mà tôi sẽ không sinh” chứa đựng nhiều đặc tính của một tác phẩm thuộc truyền thống “tiểu thuyết bằng thư” [roman épistolaire] vốn có dấu ấn đậm đà trong lịch sử văn học Pháp (ví dụ như “Julie” của Rousseau hay “Những mối quan hệ nguy hiểm” của Laclos), nhưng bức thư của bà trên thực tế lại không phải là một “tiểu thuyết bằng thư” đúng nghĩa. Bà nghĩ thế nào về nhận xét này?

Bức thư này có thể được coi như một tác phẩm hư cấu, mặc dù tôi đã cho người kể chuyện mang một số nét của con người tôi. Đây là câu chuyện về một người phụ nữ nhìn lại một giai đoạn trong quá khứ của mình, vào lúc cô lựa chọn là sẽ không sinh con. Tuy nhiên đây không phải là một “tiểu thuyết bằng thư”, vì người phụ nữ này gửi thư cho một nhân vật không tồn tại và vì bức thư của cô sẽ không có được tiếng vọng nào.

Note:

“Thư gửi đứa trẻ mà tôi sẽ không sinh ra”, theo GCC, có dáng dấp thư (1) của Kertesz nhiều hơn là nằm trong truyền thống viết thư của Tây.
Ẩn đằng sau, hay bên trong bức thư, hay tác phẩm, của Linda Lê, có 1 đứa bé đã chết, nằm ở trong bụng mẹ, một bà mẹ Việt Nam, phải rời bỏ Việt Nam năm bà 14 tuổi.
Theo GCC, phải đọc song song hai tác phẩm/hai tác giả, song song với hai biến cố Lò Thiêu/Lò Cải Tạo, thì mới ngộ ra kiếp Mít sau 30 Tháng Tư 1975 được.
(1) «Kaddish pour l'enfant qui ne naitra pas» 

LE POINT :

Ông sống giữa Berlin và Budapest. Ông có cảm thấy thoải mái khi ở Đức, một xứ sở mà ông đã từng bị sỉ nhục thậm tệ không? Làm sao ông có thể nói đến chuyện gốc rễ?

KERTESZ :

Chính ở Berlin các tác phẩm của tôi mới có ảnh hưởng nhất, được đọc nhiều nhất. Tôi đã có lần viết «Holocauste không có ngôn ngữ». Rất nhiều dân tộc sống kinh nghiệm Holocauste và chịu đựng những thảm kịch của Holocauste. Nhưng kinh nghiệm này không có cùng một ngôn ngữ chung. Đây là bi kịch của châu Âu. Những câu chuyện viết bằng tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức... Ngắn gọn, trong ngôn ngữ của nạn nhân.
Chẳng hạn, nếu tôi viết sách bằng tiếng Hung và xứ tôi không phù [que mon pays ne soit pas apte : chưa có đủ khả năng, tư cách] (1), hay chưa sẵn sàng chấp nhận những câu chuyện lấy hứng từ kinh nghiệm, thì lúc đó, tự động tôi thấy tôi ở ngoài nền văn hóa nước tôi. Ngược lại, một văn hóa khác, một ngôn ngữ khác lại dung nhận tôi. Dung nhận vì nền văn hóa đó đã được chuẩn bị. Ở đây, tại Đức, người ta mong chờ các tiểu thuyết mới của tôi. «Kaddish pour l'enfant qui ne naitra pas», xuất bản năm 1992, được báo chí phê bình tốt và «Être sans destin» cũng được như vậy. Khi tôi đọc các thư từ và các bài phê bình viết về các sách của tôi, tôi hiểu nước Đức cần những tiểu thuyết như vậy, cần loại mô tả Holocauste. Nước Đức đối diện với quá khứ... với Lịch Sử của họ và với Auschwitz. Ngày hôm nay, ở Âu Châu người ta biết gần như mọi người đều có tham dự vào. Trong lúc đó, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba lớn lên không có mặc cảm tội lỗi. Các thế hệ này muốn biết làm sao những điều khủng khiếp như thế lại có thể xảy ra. Trong các quyển sách của tôi, họ tìm ra một cái gì có thể giúp họ hiểu rõ hơn những chuyện như vậy.

GCC còm:

Câu trả lời của Kertesz trên đây cũng là để trả lời cho 1 câu hỏi/vấn nạn 30 Tháng Tư 1975.
Và, còn nhắm những trường hợp như vừa mới xẩy ra, với Gunter Grass.

Auschwitz must have been hanging in the air for a long, long time, centuries, perhaps like a dark fruit slowly ripening in the sparkling rays of innumerable ignominious deeds, waiting to finally drop on one's head." (from Kaddish for a Child not Born, 1990)
[Auschwitz còn treo lơ lửng hàng hàng thế kỷ, như một trái đen, từ từ chín đỏ nhờ hằng hằng những tia nóng của những chiến công nhục nhã, và sau cùng rớt trúng đầu bạn]

2002 Nobel Laureate in Literature:
for writing that upholds the fragile experience of the individual against the barbaric arbitrariness of history
[Trao giải Nobel văn chương 2002... vì cố níu cái kinh nghiệm mỏng manh của một cá nhân nhằm chống lại cái tùy hứng man rợ của lịch sử].


"Why only now, grown old,/And with what ink remains, do I say:/Israel's atomic power endangers/an already fragile world peace?" he writes, before answering his own question: "Because what must be said/may be too late tomorrow."
Gunter Grass
Tại làm sao bi giờ, già quá rùi, còn tí mực còn lại, tui lại để cho tay tui dính mùi "giang hồ gió tanh mưa máu"?
Bởi là vì cái phải nói thì phải nói, trước khi quá muộn, vào ngày mai.
Nghe như giọng GCC, đếch phải Gunter Grass!
Hà, hà!
Gunter Grass vừa đi một bài thơ, “Điều phải nói”, tố cáo Israel âm mưu làm cỏ, [wipe out, annihilation] Iran, gây hiểm họa cho hòa bình thế giới.
“Tớ quá già rồi, và bằng những giọt mực chót, cảnh cáo nước Đức của tớ, coi chừng lại dính vô tội ác [“supplier to a crime”]."

Bộ Trưởng ngoại giao Israel, đọc bài thơ, phán, thơ vãi linh hồn [“pathetic”], và cái việc ông ta, Grass, chuyển từ giả tưởng qua khoa học viễn tưởng, coi bộ ngửi không được, poor taste.

Günter Grass pointe tout particulièrement le silence de l'Allemagne, "culpabilisée par son passé nazi", qui refuserait de voir le danger constitué par l'arsenal nucléaire israélien. Un arsenal "maintenu secret -, et sans contrôle, puisque aucune vérification n'est permise" et qui "menace la paix mondiale déjà si fragile", insiste l'écrivain. Il en profite pour rappeler que l'Allemagne s'apprête à livrer un sixième sous-marin à Israël. Berlin et Tel Aviv ont en effet conclu un contrat en 2005 sur la vente de sous-marins Dolphin, qui peuvent être équipées d'armes nucléaires. Enfin, Günter Grass réclame la création d'une agence" internationale pour contrôler les armes atomiques israéliennes, tout comme l'AIEA le fait pour les activités nucléaires iraniennes
Grass đặc biệt nhấn mạnh tới sự im lặng của nước Đức, “do tội lỗi bởi quá khứ Nazi”, thành ra vờ, làm ra vẻ không nhìn thấy hiểm họa của võ khí nguyên tử của Israel. Một võ khí nguyên tử “được giữ bí mật, không kiểm cha, kiểm mẹ, vì đếch ai được phép”…

Trang Kertesz