|
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Notes about
Brodsky
Milosz
Đại lượng, rộng
lượng, là 1 trong những nét lớn của ông, generosity was one of his
traits. Bạn
bè của ông luôn cảm thấy, gặp ông là 1 đại hội, đồ biếu tới tấp, his
friends
always felt showered with gifts. Ông luôn luôn sẵn sàng để "help",
giúp, bất cứ lúc nào, để tổ chức, organize, sắp xếp, to manage things.
Nhưng
trên tất cả, để xưng tụng, để thổi bạn, to praise.
Sự rộng lượng
của ông hiển hiện rõ ràng nhất, ở trong Trò chuyện với Brodsky, của
Volkov, về
Akhmatova. Qua xưng tụng của Brodsky, bà mới vĩ đại, minh triết,
wisdom, dịu
dàng, và trái tim mới lớn lao làm sao!
Với ông, sự
vĩ đại của 1 nhà thơ thì không thể tách ra khỏi sự vĩ đại, như 1 con
người. Có
thể tôi hiểu lầm, nhưng tôi chẳng hề hồ nghi, dù chỉ khoảnh khắc, khi
ông
[Brodsky] xưng tụng một nhà thơ, thì cùng lúc xác nhận, đây đúng là 1
con người,
when he praised a poet while admitting at the same time that he was
just
average as a human being. Khi ông phán, thí dụ, Robert Frost thì lớn
trong thơ,
thế là đủ, đếch cần phải dị mọ vào đời thường, vào tiểu tử của thi sĩ,
it was
enough, for example, that Robert Frost was great in poetry to justify
not
inquiring into his biography. Nói rộng ra, thì đây là niềm tin của ông,
rằng
cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, mỹ học có trước đạo hạnh, this was
consistent
with his conviction that aesthetics precedes ethics, và, có thể phán
tới chỉ, rằng,
mỹ là nguồn của đạo hạnh, is even its sources.
Milosz
Cái sự kiện
TTT nằm xuống, chấn động trong và ngoài nước, thì liên quan tới đạo
hạnh
của cá nhân
cuộc đời của ông, nhiều hơn là do thơ tự do mà ông là chủ soái, bởi là
vì đâu có
phải ai cũng đọc được thơ của ông, chưa nói chuyện mê. Nhưng những dòng
Milosz
viết về Brodsky lại làm cho chúng ta hiểu thêm, vấn đề, chính cái đẹp
của thơ của
ông mới là nguồn của sự kính trọng.
Như được nhiều
người biết, bi khúc độc nhất, the only elegy, dành cho T.S. Eliot vào
năm 1965,
được Brodsky viết bằng tiếng Nga. Vào lúc đó, thì Eliot đang ở Lò Luyện
Ngục,
purgatory, như số phận dành cho những con người sống cuộc đời long trời
lở đất,
một phản ứng bình thường, the usual reaction - chữ của Milosz - dành
cho những
danh vọng đỉnh, peak fame. Nhưng ở Nga, ông chỉ mới vừa được khám phá.
Sau đó,
như Brodsky thú nhận, ông không thích lắm, he was disenchanted, với
"Four
Quartets". Nói chung, ông coi trọn dòng hiện đại, the whole modernism
(theo nghĩa Anglo-Saxon của từ này), thì không khỏe mạnh, unhealthy,
đối với
nghệ thuật thơ.
Ông nói về
chính trị ở nước ông, dùng những khái niệm cổ xưa, employing concepts
dating
from antiquity: emperium [absolute power, empire, đế quốc], tyrant, bạo
chúa,
slave, nô lệ. Trước hết, ông tin tưởng, thơ, trong mọi xã hội, được
hiểu với lịch
sử, thì chỉ là sự quan tâm của 1 tí người, cỡ chừng 1% so với toàn thể,
hoặc
may lắm, thì nhỉnh hơn 1 tị: In the first place, he believed that
poetry in
every society known to history is of interest to little more than one
per cent
of the population. Thứ nữa, người ta không thể nói đến đồng đẳng, ngang
hàng,
equality, giữa những nhà thơ, ngoại trừ đối với một dúm thật là cừ,
with the
exception of the few who are very best, to whom it is inappropriate to
apply
the labels “greater” or “lesser”, với dúm này, thì thật bố lếu bố láo,
khi
phán, ông này nhỉnh hơn ông kia, hay ông đó đó thì “dưới trung bình”.
Đây là trường hợp đã từng
xẩy ra ở xứ
Mít, khi Thầy Kuốc chê thơ Nguyễn Tất Nhiên, thơ Phạm Thiên Thư "dưới
trung bình”!
Láo thế!
Ông muốn có ích,
hữu dụng, theo cái kiểu Cao Chu Thần, Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư,
[Trời
sinh ra… Gấu không muốn để cho hư đi, hà,
hà!]
Ông đã từng đưa ra
ý kiến, [trong diễn văn nhận Nobel hình như
vậy], rằng,
nên phân phát hàng triệu tuyển tập thơ Mẽo, xuyên suốt nước Mẽo, đặt kế
bên cuốn
Thánh Kinh, tại những phòng ngủ khách sạn [cứ làm tình xong, là vừa hút
thuốc lá,
vừa đọc thơ Mẽo, vừa cầu nguyện, chắc thế!]. Ông loay hoay, manage, tìm
cách thành
lập một Hàn Lâm Viện Nga ở La Mã, theo kiểu, modeled, Hàn Lâm Viện Mẽo
tại thành
phố này. Ông ý thức, về những dây mơ dễ má văn chương Nga, Russian
literature’s
ties, với Ý quốc [“Những Linh Hồn Chết” của Gogol được viết tại La Mã,
Thành Phố
Thiên Thu Bất Diệt, the Eternal City, thì luôn luôn hiện diện trong thơ
của riêng
ông, và của Mandelstam; ông viết về Venice mà ông trầm trồ chiêm
ngưỡng].
Ông
chẳng có ý định trở lại Nga. Thật là tiện, it is appropriate, nấm mồ
của ông thì
sẽ ở Venice, như của Stravinsky, của Diaghilev’s] (1)
(1)
The body of Joseph
Brodsky, who died in New
York City in 1996, was, in accordance with his wishes, transported to Venice and buried in the cemetery of San
Michele on
the twenty-first of June, 1997. Paradoxically, his tomb and the tomb of
Ezra Pound are contiguous.
Milosz
Liệu chăng, ý
Trời, khi TTT, tác giả Một Chủ Nhật Khác,
nằm xuống ở St Paul, thành phố ra đời của Scott Fitzgerald, tác giả Tender is the Night?
F.S.
Fitzgerald, 1936
Hơn
sáu chục
năm sau khi ngỏm trong dửng dưng, lãnh đạm, Fitz được đời lôi ra, ban
cho toàn những thứ de
luxe: năm ngoái là ấn bản Pléiade, một kịch (Gatz) ở New York, và
London, một hài
kịch nhạc, Broadway, và bây giờ là 1 phim mở ra đại hội Cannes, Gatsby, Người
Tuyệt Vời, Le Magnifique. Trên tờ Le Magazine Littéraire, Mai 2013,
là một, trong
số những bài phỏng vấn chưa từng in ấn,
nằm trong ngăn kéo mới được khui ra: Tất cả đàn
bà, trên 35 tuổi, là phải làm thịt. Freud, đàn bà, và tôi.
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
TTT by NAK
Tôi
được gặp anh Thanh Tâm Tuyền tại nhà anh
Tô Thùy Yên lần đầu đâu khoảng năm 85,86. Lối dẫn vào nhà Tô thi hào có
ngõ
trúc mát rượi, hàng rào chè tàu quanh co, buổi chiều tối dế gáy rộn
vang. Chắc
là quê nhà ghi dấu trong thơ anh không ít, mỗi lúc qua đây không quên
được những
câu thơ của anh như:
Cây yên, cỏ lặng, trăng thiu ngủ.
Giường
cũ, nằm nghe tiếng dế khuya.
(Lão
Trượng)
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ,
Bên
hè có tiếng dế ca ran.
Vầng
trăng ta thấy thời thơ ấu,
Mọc
lại cho ta buổi xế tàn.
(Hề
ta trở lại gian nhà cỏ)
Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải,
Hành
nhân về bên giếng quê nhà.
Ngõ
trúc chiều ngát cơm gạo mới.
Ngọn
đèn thắp đợi đã rền hoa.
(Chim
kêu bãi quạnh)
Ông, dám thổi
những người khác. He was capable of idolizing others: ông có thể thần
tượng hóa
những nhà thơ khác.
Milosz viết về Brodsky.
Câu này chướng
quá, với lũ thi sĩ Mít. Chúng ông đếch cần Thầy!
Ông [Brodsky]
thường nói, ông lấy làm hài lòng, satisfied, được gọi là đệ tử,
epigone, một kẻ
bắt chước hạng thứ, a second-rate imitator, or follower, của Auden. Ông
không
chê [rule out] những người làm thơ tự do, “free verse”, nhưng ông đi 1
đường tụng
ca đặc biệt, he paid particular homage, cho những nhà thơ vần: Thomas
Hardy, Robert Frost, Rainer Maria Rilke. Ông hiểu, understand, thơ là 1
cuộc
thoại, a dialogue, xuyên qua các thời đại, và vì thế, ông trò chuyện,
converse,
với Horace và Ovid (trong những bản dịch tiếng Nga). Như ông nói, ông
thích
Ovid nhiều hơn, là vì những hình ảnh của ông ta, mặc dù ông ít quan tâm
về nhịp
thơ… trong khi đó, với Horace, với những gia giảm. biến đổi, variety,
của những
stanzas, đúng là 1 thách đố để cùng ông so tài, invited Brodsky to
compete with
him.
Sẽ là 1 sai
lầm khi coi Brodsly là nhà thơ lang thang, a bohemian poet, mặc dù nếu
chúng ta
coi “bohemia” như là 1 vùng ngoại vi, bên lề của xã hội và nhà nước,
ông thuộc
về nó, thời kỳ mới lớn ở Leningrad. Ông tháo vát trong nhiều trò làm
ăn, he was
competent in various trades, nhưng chuyện này chỉ chứng tỏ ông biết
kiếm công ăn
việc làm, để đừng bị đói, proof of employment. Ông thường “plowed like
an ox”,
cày như trâu, như Mít nói. Ông nói với lòng biết ơn Đại học Michigan, ở
Ann Harbor,
vì đã ban việc làm cho ông, “kẻ lười biếng nhất dưới ánh mặt trời”,
“the
laziest man under the sun”, mà lại đếch biết tiếng Anh! Ông rất coi
trọng những
bổn phận của mình, như là ông thầy dậy học, và sinh viên được hưởng lợi
rất nhiều,
về điều này. Ông bắt họ học thuộc lòng hàng ngàn dòng thơ, trong tiếng
mẹ đẻ của
họ, in their own language, không 1 vị thầy nào dám làm 1 điều cổ lỗ sĩ
như thế!
Nếu 1 sinh viên nói 1 điều gì ngu si, ông đuổi ra khỏi lớp!
Đam mê tự học
cho phép ông làm chủ tiếng Anh một cách thụ động, to master English
passively,
ngay từ khi còn ở Nga. Sau đó ông nhanh chóng đạt được khả năng sử dụng
nó một
cách tự do, thoải mái, trong nói và viết. Tiếng Anh của ông, trong
những bài tiểu
luận, hay trong khi dịch thơ của ông từ tiếng Nga, khiến người đọc ngỡ
ngàng, và
đây là kết quả của 1 khổ công tu luyện, the result of truly titanic
labor. Ông
coi thơ Ba Lan, thích thú nhất, the most interesting, của thơ ca Âu
Châu đương
thời. Ở Leningrad, ông chỉ có được những mẩu đoạn, nhưng toàn thứ quan
trọng: từ
Norwid tới Galczynski. Trong số thơ dịch của ông, cũng có vài bài của
tôi. Khi
lưu vong, ông có dịch bài thơ của tôi, “Bi khúc cho N.N.,” "Elegy for
N.N.", và điều xẩy
ra đối với
tôi là, it occurred to me, bài thơ đó diễn tả cái nhìn của ông về
thơ trữ
tình, như là tiểu sử được gìn giữ [that poem expressed his view of
lyric poetry
as preserved autobiography]. Ông hiểu sự trốn chạy của thi sĩ vào cõi
văn xuôi
như là hậu quả của sức ép từ chín phần muời còn lại, he understood
poets’
escape into prose as the result of pressure from the remaining
nine-tenths. Ông
đọc Luận đề về Thơ của tôi,
my Treatise on Poetry, qua
bản dịch tuyệt
vời của
Natalia Gorbanevkaia. Nó được xb tại Mẽo năm 1982.
Ông có một cảm
quan thật mạnh, strong feeling, ông là 1 phần của“estate” [tài
sản] được gọi
là “ngôn ngữ Nga”. Kể từ khi quan điểm của ông, thơ là thành tựu
cao nhất của ngôn
ngữ, ông ý thức trách nhiệm của mình.
Ông thường nói
với những sinh viên của ông, có thể họ không quá quen thuộc khủng khiếp
với Điều Răn, that they probably were not terribly familiar with the
Decalogue, thì có
thể học, bởi là vì chỉ có 17 điều: Mười Điều Răn, và 7 Tội Chính, tóm
chung lại,
taken together, sự thành lập của nền văn minh của chúng ta. Nữ thần thi
ca của ông,
His Muse, the spirit of language, ông nói, là Ky Tô, Christian, điều
này giải
thích những đề tài Cựu Ước và Tân Ước trong thơ của ông.
Note:
Sở dĩ Gấu chịu
thua, không dịch được thơ Brodsky, là chính vì điều này!
Bài
viết của Milosz về Brodsky, Gấu tính dịch lâu rồi, nay nhân tưởng niệm
7
năm TTT mất, bèn chơi luôn, cũng là 1 cách tưởng niệm ông, và Brodsky.
Yên Bái
(1976-1977)
6. Bão
Tặng
N.X.T.
Trận
bão thổi tắt đám sao
sáng mùa hè
Cuốn thốc tán loạn ký ức mỏi
mê
Cuồng giông đêm đêm lay ngục
mộng
Va chạm hỗn độn những tối tăm
Áp tai xuống ngực em nghe
ruổi chĩu nhịp trầm
Bản trên talawas
NOTES ABOUT
BRODSKY
Một tuyển tập
những bài phỏng vấn Brodsky, “Giữ sự thay đổi”, “Keep the Change” dịch
từ tiếng
Nga, đúng là 1 nguồn ngỡ ngàng đối với tôi. Ông vờ đi, điều, những
người khác
coi là cực yếu tính, cực cơ bản của thế kỷ 20: Mác xịt-Lê nin nịt, Xô
Viết tịt,
chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa Nietzsche, chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa
Siêu thực,
cũng như hàng chục những isms khác.
Ông có thể trở
thành một nhà ly khai, dấn thân, như bạn của ông, là Tomas Venclova.
Ông có thể
nghĩ tới chuyện cải tổ nhà nước. Ông có thể làm những bài thơ tiền
phong, Ông có
thể là fan của Freud. Ông có thể đi 1 đường "hommage" chủ nghĩa cơ cấu.
Chẳng có chuyện như thế.
Đời là một câu
chuyện ngụ ngôn đạo đức. Nhà thơ bị nhà nước bỏ tù, kết tội, rồi bị
tống đi lưu
vong , và sau khi nhà thơ chết, người đứng đầu nhà nước quỳ bên quan
tài nhà thơ.
Một câu chuyện thần tiên, và đúng là như thế, nó đã xẩy ra, như thế đó,
trong
thế kỷ của chúng ta, 1 thế kỷ đếch làm sao có được chuyện thần tiên.
Ông phán như
1 kẻ có qưyền uy. Hầu như suốt thời thanh niên của mình, ông không thể
bị bẻ gẫy,
bởi vì cái sự tự tin đó. Một sự tự tin mà những người chung quanh phải
coi là
ngạo mạn.
Cái sự tự tin này là 1 cách chống đỡ, bảo vệ, trong những
liên hệ của ông với mọi người, và che giấu điều mà tự ông cảm thấy
không làm
sao kiếm ra được giải đáp, và chỉ còn 1 cách là hành động theo kiểu tự
tin như
thế, ngay cả ông, cũng không hiểu tại sao.
Liệu có phải cũng sự ngạo mạn đó khiến
ông bỏ trường lớp?
Sau này, ông thường tỏ ra ân hận vì chuyện này. Khi vụ án
xẩy ra, một người nào đó, nếu không có được sự tự tin như ông, thì
không làm
sao có thể cư xử như ông được. Chính ông cũng không hiểu tại làm sao
mình cư xử
như thế, nhà cầm quyền cũng thế, họ không tiên đoán được, cách ông xử
sự, và chính
vì thế mà họ làm cho ông trở thành nổi tiếng.
Khuất mình
dưới ngôn ngữ, hay - bởi vì với ông thì cũng xêm xêm – khuất mình trước
tiếng nói
của nữ thần thi ca, [Submitting to the element of language, or (because
this
was the same thing for him) to the voice of the Muse], ông [Brodsky]
phán, một
thi sĩ phải muốn làm hài lòng, a poet must want to please, không chỉ
những người
đồng thời, và còn những người đi trước mình. Những người đi trước được
ông nêu
tên là: Lomonosov, Kantemir, Derzhavin, Tvsetaeva, Mandelstam,
Pasternak,
Akhmatova. Vương quốc thơ Nga của ông vượt lên trên và ra bên ngoài
lịch sử, cùng
với nó, là niềm tin tưởng, rằng ngôn ngữ có sự lớn lao của riêng nó, và
nó chọn
những người của nó để phục vụ nó.
His kingdom of Russian poetry endured
above
and outside of history, in accordance with his conviction that language
has its
own greatness and selects its own people to serve it.
Milosz
Chọn người của
nó để phục vụ nó.
Chúng ta nhận ra ý của Borges ở đây: Thơ là để trao
cho thi sĩ.
Thi sĩ dởm đừng làm thơ dởm. Cả 1 cõi thơ Mít, phần lớn thi sĩ dởm, nếu
có
ông nào “thực
thi sĩ”, thì không lo khuất mình trước thơ, trước nữ thần thi ca, mà là
trước gái, trước cái hĩm!
TTT khi còn
sống cũng bị ghét, chính là do ông quá ngạo mạn. Không chỉ thế. Ông bị
chúng ghét,
còn là do cái đám thế hệ trẻ, trong có nhóm tiểu thuyết mới, quá quí
ông. Mỗi lần
ông ra Quán Chùa, là cả đám xúm lại chuyện trò rôm rả. Ông cùng đọc
những cuốn
sách mà họ đọc. Cùng tham dự vô cuộc chiến như họ, trong khi Mai Thảo,
Võ Phiến,
thí dụ, không.
Nguyên Sa
thù TTT là cũng vì vậy. Cái lũ nhóc chỉ biết có TTT. Đã thế, tên sa
đích văn
nghệ còn lôi NS ra để khen đểu, "nhà văn dễ dãi và sung sướng"!
Nhà thơ “áo nàng
xanh, anh mến lá sân trường” bèn phong cho TTT là Đông Phương Bất Bại!
Nhưng quả là
có một cách biệt quá lớn giữa thơ TTT và những người cùng thời với ông.
Đúng
cái ý nhà thơ "từ ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian", như Milosz phán
về
thơ
Brodsky:
Sự hiện diện của Brodsky bảnh,
hách, chẳng khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay ngọn hải đăng cho rất
nhiều bạn thơ của ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm và cuộc đời
của người đó luôn luôn nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài
thường lải nhải, phải có cái mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện
đại’, thì vẫn có đẳng cấp. Đẳng cấp này, thì không được rút ra từ ba
trò tam đoạn luận, hay trao đổi, đối thoại, tranh luận cái mẹ gì. Nó là
điều mà chúng ta làm mới hàng ngày, bằng cách sống và viết. Nó có một
điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư là tiểu học, bình dân, và cũ
xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc ác, tự do và bạo tàn.
Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc trưởng thượng,
với điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái
hạ cấp, hạ vệ!
Những mỹ từ như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’ có thể áp dụng cho thơ
Brodsky. Trong số mệnh của ông, như là kẻ đại diện con người, có cái
đỉnh cao vời vợi của tư tưởng, và đây là điều mà Pushkin nhìn thấy ở
Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian”.
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông, cũng là một nhà
thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận
cùng. Nhập vào lòng mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ
cái chi, nếu mà sống sót từ quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý
‘mày khác tao, tao khác nó, nó khác mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng
cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu hay nâng bi ông tiên chỉ,
ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ vậy.
Mandelstam, khi ở trong Gulag,
điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống
rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc
thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Trong Đồng
Nai Tam Kiệt, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, TTT, thơ mỗi người mỗi cõi. Thơ
Tô
Thùy Yên, đẽo
gọt quá, và thật tuyệt, Hoang Vu Lớn của ông gọi lên những hoang vu lớn
khác,
trong những cõi thơ khác. Bùi Giáng giấu thơ của ông trong những rông
rài, hay
nói như Mai Thảo, ông làm cái gì cũng ra thơ. Thơ TTT quả là 1 cõi
riêng của ông,
không vang vọng cõi nào khác.
Làm sao mà có
thể để những dòng thơ của Nguyên Sa, thí dụ, áo nàng vàng anh về yêu
hoa cúc, anh
nàng xanh anh mến lá sân trường, sợ thơ tình không đủ nghĩa yêu đương,
anh pha
mực cho vừa màu áo tím, với những câu như:
Những rừng
gió kể chuyện biển khơi
Hay
Kể lể mãi
chuyện tình vô vọng
Với một mình
cấu lấy tóc mình
Hay
Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa
Hay
Người đi ngoài
kia la vào mồm
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Coetzee nói
về Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục
làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova
cho rằng,
người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha
thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự
"vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước,
rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen
trong thơ
Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những
ý nghĩ,
tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi
phải
phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*
Thực sự, trước
1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Chính vì vậy,
sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin ông mất, chỉ có
thể giải
thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không khoan nhượng với cả chính
mình
không kiếm cách làm cho mình được yêu mến... hay ngắn gọn, chính cái sự
quá sạch
của ông, lại trở thành niềm tin cho tất cả mọi người!
Và như thế,
ông lại giống... Solzhenitsyn, ông này
suốt một đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ
hội nào
bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng,
chỉ có cách đó, để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
NOTES ABOUT
BRODSKY
A collection
of interviews with Brodsky, Reszty nie
trzeba [Keep the Change], in
Jerzy Illg's translation, is a constant source of wonderment for me.
Just to
think how much he had to leave out – what for others was very essence
of the 20th
century: Marxism-Leninism, Sovietism, nationalism, Nietzscheanism,
Freudianism,
Surrealism, as well as a dozen or two other isms.
He could
have become a dissident, engage, like his friend Tomas Venclova. He
could have
thought about reforming the state. He could have written avant-garde
poems. He
could have been a Freudian. He could have paid homage to structuralism.
Nothing
of the sort.
Life as a
moral fable. The poet imprisoned and condemned by the state, then sent
into
exile by the state, and after his death, the head of that state
kneeling beside
his coffin. A fairy tale, yet it did happen like that, in our hardly
fairy-tale-like century.
He spoke as
one who has authority. Most likely in his youth he was unbearable
because of
that self-assurance, which those around him must have seen as
arrogance. That
self-assurance was a defense mechanism in his relations with people and
masked
his inner irresolution when he felt that he had to act that way, and
only that
way, even though he did not know why. Were it not for that arrogance,
he would
not have quit school. Afterward, he often regretted this, as he himself
admitted.
During his trial, someone who was less self-assured than he was could
probably
not have behaved as he did. He himself did not know how he would
behave, nor
did the authorities foresee it; rather, they did not anticipate that,
without
meaning to, they were making him famous.
Milosz
Chẳng
đợi ông
nằm xuống, khi ông ở tù VC là bạn quí, kẻ thù đã kể như ông chết rồi.
Khi "đảo
xa" tung hê thư tình viết riêng cho ẻn, thì bạn quí bèn xì 1 cú, tưởng
tay này đàng
hoàng đâu ngờ cũng bồ nhí bồ nhiếc.
Đau 1 cái là ngay từ khi còn sống, khi viết
thư cho em, là ông đã nghi, vì đọc, người tinh ý ngửi ra giọng gượng
gạo.
Đau thật!
Về cái khoản
này, ông anh thua thằng em. Gấu Cái kệ mẹ Gấu Đực tán tỉnh hết em này
đến em khác.
Toàn “bản nháp” không hà, hà hà! Bản đích thực, về tui, thằng chả không
đủ tâm,
tầm, tài, hay cái con khỉ gì nữa, để mà viết ra!
Cả
một “đống”
thư, gửi đảo xa, thơ, cho hồng hạ cái gì gì, không
bằng chỉ 1 góc bài thơ viết cho vợ, khi
trở về Đất Bắc, quê cũ, như 1 tên tù. Đâu có phải tự nhiên mà bạn tù
của ông phổ
bài này, để cùng hát trong tù:
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung
*
Gửi MT
Sáng nay thức
giấc trong nhà giam
Anh nhớ những
câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh
quẽ
Ánh lửa mênh
mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức
mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức
rừng núi biên giới
Đã qua đã
qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn
khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn
nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái
gở
Từng thiêu đốt
anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh
đớn đau
Từ bao giờ
anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời
thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh
về tận nẻo nguồn
chốn bình
minh lẩn lút
(Bình minh
bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa
Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm
nay)
Em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về
ngang cố quận
Xao xuyến
ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa
ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng
em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh
gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú
1/79
Thanh Tâm
Tuyền
Bài thơ, bây
giờ đọc lại, thì lại quá mê cái dòng tặng Mai Thảo:
Trong
tôi còn lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài
thơ, chắc chắn rồi. Chúng đã được đọc, được thầm ghi lại
(intériorisés). Đúng một
lúc nào đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho riêng mình tôi, những
bài thơ.
Luôn luôn, ở đó, bạn sẽ gặp những tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn
làm mạnh
thơ ca.
Thơ
giữa Chiến Tranh và Trại Tù
Milosz
ANUS
MUNDI
The cloaca of the world. A
certain German wrote down that definition of Poland
in 1942. I spent the war years there and afterward, for years, I
attempted to
understand what it means to bear such an experience inside oneself. As
is well
known, the philosopher Adorno said that it would be an abomination to
write
lyric poetry after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas gave
the
year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote
idyllic verses, "The World" and a number of others, in the very
center of what was taking place in the anus mundi, and not by any means
out of
ignorance. Do I deserve to be condemned for this? Possibly, it would be
just as
good to write either a bill of accusation or a defense. Horror is the
law of
the world of living creatures, and civilization is concerned with
masking that
truth. Literature and art refine and beautify, and if they were to
depict
reality naked, just as everyone suspects it is (although we defend
ourselves against
that knowledge), no one would be able to stand it. Western Europe can
be
accused of the deceit of civilization. During the industrial revolution
it
sacrificed human beings to the Baal of progress; then it engaged in
trench
warfare. A long time ago, I read a manuscript by one Mr. Ulrich, who
fought at
Verdun as a German infantry soldier. Those people were captured like
the prisoners
in Auschwitz, but the waters of oblivion have closed over their torment
and
death. The habits of civilization have a certain enduring quality and
the
Germans in occupied Western Europe were obviously embarrassed and
concealed
their aims, while in Poland they acted completely openly.
It is
entirely human and understandable to be stunned by blatant criminality
and to
cry out, "That's impossible!" and yet, it was possible. But those who
proclaim that God "abandoned us in 1941" are acting like conservators
of an anodyne civilization. And what about the history of humankind,
with its
millennia of mutual murder? To say nothing of natural catastrophes, or
of the plague,
which depopulated Europe in the fourteenth century.
Nor of those
aspects of human life which do not need a grand public arena to display
their
subservience to the laws of earth.
Life does
not like death. The body, as long as it is able to, sets in opposition
to death
the heart's contractions and the warmth of circulating blood. Gentle
verses
written in the midst of horror declare themselves for life; they are
the body's
rebellion against its destruction. They are
carmina, or incantations deployed in order that the horror should
disappear
for a moment and harmony emerge-the harmony of civilization or, what
amounts to
the same thing, of childish peace. They comfort us, giving us to
understand
that what takes place in anus mundi is transitory, and that harmony is
enduring-which is not at all a certainty.
Anus
Mundi:
Hậu môn của thế giới
Milosz cho biết chính là ở
hậu môn thế giới mà ông làm thơ, và đừng có nghĩ là ông
không biết câu phán của Adorno: As is well known, the philosopher
Adorno said
that it would be an abomination to write lyric poetry after Auschwitz,
and the
philosopher Emmanuel Levinas gave the year 1941 as the date when God
"abandoned" us. Whereas I wrote idyllic verses, "The World"
and a number of others, in the very center of what was taking place in
the anus
mundi, and not by any means out of ignorance.
*
Milosz biết,
nhưng nhà nghệ sĩ Võ Đình của Mít, không.
Ông bỏ nước ra đi nên chẳng hề biết
chiến tranh Mít, nhưng lạ là cũng chẳng biết Lò Thiêu, hay Adorno là
thằng chó
nào.
Khi Gấu lỡ nhắc đến thằng chó Adorno, trên tờ Văn Học, khi còn giữ mục Tạp
Ghi, và câu phán ghê gớm của ông, nhà nghệ sĩ bèn mắng, thằng cha này
đúng là
"vung tay quá trán".
Sau Lò Thiêu vẫn có thơ, chứng cớ là "Đêm Tận Thất Thanh" của
Phan Nhật Nam đây nè!
Mà, đâu chỉ... "Đêm Tận
Thất Thanh"!
Có thể nói, tất cả văn
chương Mít, sau 30 Tháng Tư 1975, VC hay không VC, tù VC hay không tù
VC, thì đều được viết ra, như thể Lò Cải Tạo đếch xẩy ra.
NQT
Võ Đình
Đêm Tận Thất Thanh là
một nhánh kỳ hoa đó... (1)
Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130],
trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz,
'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man' (sic), và
'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ
là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen
biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay
quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?
Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là
những nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc
nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh là một
nhánh kỳ hoa đó.
.....
Tôi không may mắn
từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh
Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên
đây trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn ta" là
Phan Nhật Nam.
Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần. Với
lời đề tặng:
Của Ông
Sơ Dạ Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Những
bài thơ gởi đảo xa & trăng màu hồng
Sáng nay, trong email Cường lại gởi cho những
tài liệu về Thanh Tâm Tuyền (TTT) trong đó chứa những điều mình chưa
từng biết, những điều lần đầu tiên được công bố. Về một mối
tình và những bài thơ cho đảo xa.
Blog PV
GCC thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu tiên
được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được công bố?
NQT
TV đã từng viết về những
kỷ niệm thật riêng tư về TTT, tính, qua đó, lần ra những liên hệ với
những bài thơ, bài viết, truyện ngắn, truyện dài của ông, nhưng sau đó,
nhận được mail của bạn C ra lệnh ngưng.
*
Một bạn văn vừa cho biết nguồn
của những bài thơ của TTT.
Tks. NQT
From:
Sent: Tuesday, February 14, 2012 5:43 PM
Subject:
tinvan.net
<
GCC thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu tiên được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được công bố?
>
Ong
GCC nay qua la bop
chop (as always)
Trong cai link chinh inh o post cua ong GCC : "Giờ đây, sau khi nha tho
nằm xuống sáu năm, tất cả được công bố. Mà do người tình trăng hồng hạ
kia." (http://phovanblog.blogspot.com/)
Thi "nguoi tinh hong ha" cong bo "thu rieng" . The
ong GCC phan doi a ? Ai noi ong "thu rieng khong
dam (sic) dang len" ? Nha tho...cung la mot "public
figure" trong pham tru VN . Dang len cung ...OK lam chu
nhi !
Ong la ai cua nha tho ...qua't la'o the ?
Ong bat duoc "nguon" roi , co phan ung gi chang nhi ?
Phuc đap:
Ban hieu lam roi
...
Phu nhan của nha tho la
nguoi khong lien quan den “giang ho, gio tanh mua mau” (1)
NXT la ban cua TTT
Anh phai biet chuyen do
O dau post cung duoc
Nhung Pho Van dung nen post
Regards
NQT
xin loi ong
GCC .
Bay gio la "mode" tung ...thu* rieng len mang, nguoi doc "net" binh
thuong nhu toi cung nga'n , nhu kieu Dao Anh-TCS ...bay gio "Cu*?a
Kho'a Trai' " - "Trang Hong" - va Nha Tho Tu Do vi dai cua Mien Nam !
Do la thu* / tho* trong tinh tha^`n van nghe , mot kieu lang mang ngoai
doi song ...gia dinh (von khong lang mang cua TTT).
Toi dong y ve post cua ong ve NXT .
Tran trong va xin loi lam phien
Bye
Take Care
NQT
(1)
Cái câu của
bà vợ Trung Uý Kiệt, trong Một Chủ
Nhật Khác, có thể áp dụng ở đây:
-Mấy người
không thấy là mấy người diễn trò dâm loàn, đồi bại...
Thùy bật la lên, chụp lấy
Kiệt xâu xé. Kiệt chết sững, không phản ứng. Thùy rít lên: Đồ tồi bại,
đốn mạt, sadique... tu es sadique, không ngờ, không tưởng tượng
nổi. Tởm, tởm quá. Kiệt chảy nước mắt những vẫn cười nôn.
Khi nguôi ngoai, Thùy hỏi:
-Có thật đàn ông các anh ngấm ngầm đều ưa những trò tồi bại? Có thật
anh chán tôi, vì tôi không thể... bước vào khách sạn, hay nằm ngoài
trời với anh như....
-Đừng bậy. Anh không phải thế....
-Thế anh là thế nào? Còn vết sẹo kia giải thích thế nào?...
Kiệt nghẹn
lời. Chàng không thể hé môi. Làm cách nào chàng có thể mở miệng giải
thích?
Rồi cũng qua.
Bây giờ, Kiệt tự đùa mình: một hôm nào tình cờ người tình cũ của ta có
thể đột ngột xuất hiện chăng? Chàng hơi trợn trước câu hỏi.
Source
Đọc lại, và đọc những "lần đầu công bố", thì
GCC mới hiểu, Kiệt, có thể đã tính ra được chuyện người tình cũ đột
ngột xuất hiện, ở nhà 1 bà bạn, ở Đà Lạt, mà có lẽ luôn cả chuyện vừa
mới xẩy ra, và đây là những lời tạ lỗi, tự coi thường chính mình, trước
Thùy?
-Anh sa sút thật. Anh sa sút đến em cũng
không ngờ.
Kiệt muốn sa nước mắt sau câu nói của Thùy. (1)
Trên Tin Văn
đã từng trang trọng giới thiệu thơ NXT (1)
Lần mới qua Cali, có gặp ông. Gấu ngồi bàn với ai… nhỉ,
quên mất, ông ghé bắt tay ông bạn ngồi cùng bàn, nhưng
vờ Gấu!
Cũng được.
Quá được là đàng khác!
NQT
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
NOTES ABOUT
BRODSKY
BRODSKY'S
PRESENCE acted as a buttress and a point of reference for many of his
fellow
poets. Here, was a man whose work and life always reminded us that
despite what
is so often said and written today, a hierarchy does exist. This
hierarchy is
not deducible through syllogisms, nor can it be decided upon by
discussion.
Rather, we confirm it anew every day by living and writing. It has
something in
common with the elementary division into beauty and ugliness, truth and
falsehood, kindness and cruelty, freedom and tyranny. Above all,
hierarchy
signifies respect for that which is elevated, and disdain, rather than
contempt, for that which is inferior.
The label
"sublime" can be applied to Brodsky's poetry. In his fate as a
representative of man there was that loftiness of thought which Pushkin
saw in
Mickiewicz: "He looked upon life from on high."
In one of
his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was
himself a
poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with
the
deepest current of his century, in which man, threatened with
extinction,
discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the
bowels of
the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is
the
result of the principle of differentiation based on hierarchy.
Mandelstam in
the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the
reality of
tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting
his poetry
to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures.
With his
poems, Brodsky built a bridge across decade, of hackneyed Russian
language to
the poetry of his predecessors, to Mandelstam, Akhmatova, Tsvetaeva. He
was not
a political poet, for he did not want to enter into polemics with an
opponent
that was hardly worthy of him. Instead, he practiced poetry as a
particular
type of activity which was not subject to any apparent dimensions of
time.
To aim
directly at a goal, refusing to be deflected by voices demanding one's
attention. This means one is capable of distinguishing what is
important, and
hewing only to this goal. That is precisely what the great Russian
writers were
able to do, and they deserve to be envied for that.
Brodsky's
life and creative work aim straight at fulfillment like an arrow at its
target.
Of course, this is a delusion, just as with Pushkin or Dostoevsky. So
one must
conceive of it differently. Fate aims straight for its target, while he
who is
ruled by fate is able to decipher its main lines and understand, even
if only
vaguely, what he has been called to.
[suite]
Sự hiện diện
của Brodsky bảnh, hách, chẳng khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay
ngọn hải
đăng cho rất nhiều bạn thơ của ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm
và cuộc
đời của người đó luôn luôn nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài
thường
lải nhải, phải có cái mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện đại’, thì
vẫn có đẳng
cấp. Đẳng cấp này, thì không được rút ra từ ba trò tam đoạn luận, hay
trao đổi,
đối thoại, tranh luận cái mẹ gì. Nó là điều mà chúng ta làm mới hàng
ngày, bằng
cách sống và viết. Nó có một điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư
là tiểu
học, bình dân, và cũ xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc
ác, tự do
và bạo tàn. Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc
trưởng thượng,
với điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái
hạ cấp,
hạ vệ!
Những mỹ từ
như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’ có thể áp dụng cho thơ Brodsky. Trong số
mệnh của
ông, như là kẻ đại diện con người, có cái đỉnh cao vời vợi của tư
tưởng, và đây
là điều mà Pushkin nhìn thấy ở Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh
trời ngó
xuống thế gian”.
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông,
cũng là một
nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với
dòng sâu
thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã
khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập
vào lòng
mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống
sót từ
quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác
mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ
xoa đầu
hay nâng bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ,
thí dụ
vậy.
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho bạn
tù, là một
khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
*
Những điều
Milosz viết về Brodsky, có thế áp dụng cho TTT.
Thí dụ, với thơ tự do, cho đến
nay, đâu có ai vượt được TTT. Bắt chước ông, để có 1 thứ thơ tự do cho
ra hồn,
cũng chưa có.
Ông chẳng từ… đỉnh cao ngó
xuống, là chi?
Đỉnh cao này,
thì không phải Brodsky, mà là Mandelstam cùng ngự trị với TTT. Ông
không đến
nỗi phải kiếm đồ ăn trong đống rác Trại Cải Tạo, và điều này là nhờ bà
vợ, như
tất cả các bà vợ Miền Nam, như cả Miền Nam không hề quên người thân của
họ ở
trong tù VC, nhưng cái cảnh cả trại tù nghe đọc thơ ông, nghe thơ ông
được phổ
thành nhạc, mà chẳng bảnh hơn…. Brodsky ư?
Thơ dịch
THANH TÂM TUYỀN
MALLARMÉ
Le vierge, le vivace et le bel
aujourd’hui
Va-t-il nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce lac dur oublié que haute sous le givre
Le transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique mais qui sans espoir se délivre
Pour n’avoir pas chanté la region òu vivre
Quand du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout son col secouera cette blanche agonie
Par l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais non l’horreur du sol òu le plumage est pris
Fantôme qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il s’immolise au songe froid de mépris
Que vêt parmi l’exil inutile le Cygne .
Ngày trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẽ rúng hãm cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu vong .
Aux arbres
YVES BONNEFOY
Vous qui vous êtes effacés sur son
passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.
Với
cây rừng.
Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
Thơ dịch
5 năm TTT
ra đi
Fyodor Dostoevsky, Những Con Quỉ
Như ngộ
ra tình yêu, khám phá ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày
tháng quan trọng lên đời một người, và cú này thường xẩy ra khi vừa mới
lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác giả thanh thản hơn. Vào năm 1915,
tại Geneva,
tôi ngốn ngấu "Tội ác và Hình phạt", qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc
của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, mà những nhân vật của nó
là một tên sát nhân và một em điếm, đối với tôi, có vẻ khủng khiếp
chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây quanh…
Borges
Nếu
chúng ta coi cuốn Buồn Nôn
của Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, "Ôm em trong tay
mà đã nhớ em những ngày sắp tới", "Some of these days, I will miss U,
honey", thì cái bóng của cuốn Tội Ác
và Hình Phạt, mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ lên toàn thể
những ngày tháng ở Hà Nội, của Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng thua gì
cuộc chiến vây quanh" những ngày 1954, và sau cùng
là,“đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.”
Ngày 22
tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong
những nhận xét về thơ của ông, có, của Quỳnh Giao, theo người viết,
thật
độc đáo:
“Thơ
Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của
một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh
hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Năm năm
đã qua, liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của
ông, như cách nhìn của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng,
tất cả văn chương lớn thì giầu có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một
thời, that all literature is richer than any single subsequent time
could possibly appreciate in full. (1)
Đây
cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của
môn nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ
nhìn, công nhận, và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày
của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện
của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời kế tiếp nhau như thế sẽ
giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả được vời tới để
tham sự vào sự giải phóng này” (1)
(1) Reading George Steiner, [Đọc Steine],
Nathan A. Scott, Jr. and Ronald A. Sharp biên tập, The Johns Hopkins
University Press.
Sở dĩ
Gấu này phải đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào
cái công cuộc giải phóng nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó
đóng chặt nhà thơ vào thời của ông, và sự hiện diện của chính ông!
*
Dưới
đây, là nhận xét của Ngài Tiên Chỉ VP, về cuộc di cư 1954:
Thật
vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc
chiến tranh bấy giờ được họ [CSMB] thi hành đồng thời với những điều
chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức
cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già
lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ
cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu
v.v...
Võ
Phiến: Bắt
Trẻ Đồng Xanh
Bài viết này GNV đọc ngay khi vừa ra lò, chỉ
nhớ mài mại. Bây giờ, được đọc lại, mới hỡi ơi, vì cách nhìn của VP về
cuộc chiến Mít, về chính quyền VNCH…, mới hạn hẹp làm sao.
Cả bài viết, nhằm mục đích
tố cáo Miền Bắc, không hề bỏ qua 1 ngày nào, trong cái việc làm sao ăn
cướp cho được Miền Nam, đồng thời tố cáo cái thái độ ‘nhảm nhí, tầm
phào’, của VNCH, cả trong chiến địch di tản, di cư 1954, như những dòng
trên cho thấy!
*
I had not thought there were so many
Whose sole delight in life
Was to bring misery to others.
How the crowds adore them!
How they cheer their endless wars!
It makes me lose my faith.
Braving this January wind and snow,
After a night of bad dreams
And spells of anger at him
For dying young and leaving me here
To beat with raw fists
Against the padlocked cemetery gate,
Begging man or god to let me in.
Charles Simic: Master of Disguises
Cha ở trên
Trời
Tớ đâu có nghĩ là có nhiều tên khốn kiếp đến
như thế
Niềm vui độc nhất của chúng ở trên đời
Là đem đau khổ đến cho những người khác
Làm sao mà đám đông ngưỡng mộ chúng!
Làm sao mà đường ra trận lúc nào cũng đẹp lắm đối với tất cả một lũ đó!
Điều này làm tớ mất niềm tin
Bất chấp Tháng Giêng này với gió và tuyết
Sau một đêm đầy những giấc mộng xấu
Trút hết giận dữ lên ông ta
Tại làm sao mà lại đi xa sớm như thế,
bỏ mặc tớ ở đây,
chống lại, chỉ bằng hai nắm tay trần,
cái khoá cổng nghĩa địa.
Năn nỉ, van xin, con người hay ông trời, hãy cho
tớ vô bên trong đi.
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Emily
Dickinson: An Introduction
Bây giờ
Emily Dickinson được nhìn nhận, không chỉ như 1 nhà thơ lớn của Mẽo,
thế kỷ 19,
nhưng còn là nhà thơ quái dị, gợi tò mò, intriguing, nhất, ở bất cứ
thời nào,
hay nơi nào, cả ở cuộc đời lẫn nghệ thuật của bà. Tiểu sử ngắn gọn về
đời bà thì
cũng có nhiều người biết. Bà sinh ở Amherst, Mass, vào năm 1830, và,
ngoại trừ
vài chuyến đi xa tới Philadelphia, Washington, Boston, bà trải qua trọn
đời mình, quanh quẩn nơi căn nhà của người cha. “Tôi không vượt quá
mảnh đất của
Cha Tôi – cross my Father’s ground - tới bất cứ một Nhà, hay Thành
Phố”, bà viết
về cái sự thụt lùi, ở ẩn, her personal reclusiveness, khiến ngay cả
những người
cùng thời của bà cũng để ý, noticeable. Tại căn phòng ngủ ở một góc
phía
trước căn nhà, ở đường Main Street, Dickinson viết 1,700 bài thơ,
thường là trên
những mẩu giấy, hay ở phía sau một tờ hóa đơn mua thực phẩm, chỉ một
dúm được
xuất bản khi bà con sống, và như thế, kể như vô danh. Theo như kể lại,
thì bà
thường tặng, give, thơ, cho bạn bè và láng giềng thường là kèm với
những cái bánh,
những thỏi kẹo, do bà nướng, đôi khi thả chúng xuống từ 1 cửa sổ phòng,
trong 1
cái giỏ. Cái thói quen gói những bài thơ
thành 1 tập nho nhỏ, fasciles, cho thấy, có thể bà cho rằng thơ thì
trình ra được,
presentable, nhưng hầu hết thơ của bà thì đều không đi quá xa cái bàn
viết, ở
trong những ngăn kéo, và chúng được người chị/hay em, khám phá ra, sau
khi
bà mất vào năm 1886, do “kidney failure”.
Billy
Collins
Here is
another poem with parallel structure in which a
childlike fancy is
finally buried under the macabre:
I died for
beauty; but was scarce
Adjusted
in
the tomb,
When one
who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
"For
beauty," I replied.
"And I
for truth-the two are one;
We
brethren
are," he said.
And so,
as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And
covered
up our names.
The first
two stanzas share the interests of beauty and truth in
equal measure, then in the final one, the image of a good-night
conversation-one thinks of children in their
beds-is suddenly replaced by the grim reality of uffocation
and oblivion. The feeling of ratio and balance contrasts
starkly with the horror of the final lines.
XIX
Pain has an
element of blank;
It cannot
recollect
When it
began, or if there were
A day when
it was not.
It has no
future but itself,
Its infinite
realms contain
Its past,
enlightened to perceive
New periods
of pain.
XIX
Nỗi đau thường
để ra 1 khoảng trống,
Nó không thể nhặt nhạnh, thâu gom, hay... lượm.
Khi nó bắt đầu
Hay có 1 ngày, nó không còn
Không tương lai, chỉ là chính nó
Cõi vô cùng chứa quá khứ của nó
Được làm sáng lên để cảm nhận
Những hồi, chương đau mới.
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
It was not only his
concern for Russia that gave him strength, but
also his
fears about Russia’s future that forced him to write in order to issue
a
warning.
Czeslaw Milosz
Điều mà Milosz
gọi là cảnh báo, Gấu hiểu là dự đoán, tiên tri, nôm na là ngửi ra biến
động sẽ
xẩy ra.
Thơ tự do của TTT, khi
xuất hiện, bị chê là hũ nút.
Phải sau đó, nhịp độ
chiến tranh làm thơ của ông trở nên “dễ đọc”.
“Bếp
Lửa” tiên tri cuộc đi hay ở là chia
lìa hoặc cái chết.
Cái chết, vì bị lầm là VC của Kiệt, Trung Uý VNCH, tiên tri tình trạng
Mít hiện đại.
Tại làm sao
lại như thế? Tại làm sao lại có cái gọi là cảnh báo, tiên tri, như thế?
Có hai câu
trả lời, một của Milosz, và một của Brodsky,cùng giải thích Kinh Cầu của Akhmatova.
Brodsky. For
me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of
the
authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in
Requiem
all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she
is constantly talking about how close she is to madness. Do you
remember?
Already madness dips its wing
And casts a shade
across my heart,
And pours for me a
fiery wine
Luring me to the valley
dark.
I realize that to this madness
The victory I must
yield,
Listening closely to my
own
Delirium, however
strange.
Cơn điên khùng
đã nghiêng cánh
Phủ một cái
bóng qua trái tim của tôi
Rót cho tôi ly
rượu vang rực lửa
Lùa tôi vô
thung lũng tối
Tôi nhận ra
rằng đối với cơn điên khùng này
Là chiến thắng
mà tôi phải chịu nhường
Nghe thật gần
cơn mê sảng của riêng tôi
Ui chao
Lạ làm sao.
Khổ thơ sau
có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh
Cầu. Hai dòng chót nói sự thực lớn lao
nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy
ra cho
bà, như thể, bà đứng qua một bên. Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng
quan trọng
như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Mi là kẻ điên
khùng. Mi
là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn
như thế diễn
ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mới gì tới mi?
Volkov: Chuyện
trò với nhà thơ Brodsky
Còn Milosz
phán về Kinh Cầu, và
Akhmatova, trong Ghi Chú về Brodsky:
The most
profound thing he said about Akhmatova, and perhaps the most profound
words
ever spoken about the so-called creative process in general, is the
assertion
that she suffered greatly while writing her Requiem. Her pain at the
imprisonment of her son was genuine, but in writing about it she sensed
falsehood precisely because she had to shape her emotions into form.
And form makes
use of an emotional situation for its own purposes, parasitizing it, as
it
were.
Điều sâu thẳm
nhất mà ông [Brodsky] nói về Akhmatova, và có lẽ, những từ sâu thẳm
nhất đã từng
được thốt ra về điều gọi là tiến trình sáng tạo, là, khẳng định, bà đau
khổ vô
cùng khi viết Kinh Cầu. Nỗi
đau con bị tù thì thực, nhưng viết về nó thì bà lại
cảm thấy giả, bởi là vì bà phải sắp xếp những cảm xúc của mình thành
thể, thành
dạng. Và thể, dạng sử dụng 1 tình trạng cảm xúc cho mục đích riêng của
nó, ăn bám
nó, như nó vẫn là.
Cô Kiều của Nguyễn Du bán mình chuộc cha, sống cuộc đời lầu xanh, trả
xong nợ, rồi mới
mượn dòng nước sông Tiền Đường làm cú “thanh tẩy”.
Cô Kiều của ông Nguyễn
Vịt,
"Đĩ Thúi, Đĩ Tinh Ròng", là do đâu?
Do VC, trong có ông ta ư?
“Đau đớn vô
cùng” khi viết “Bếp Lửa”, khi viết “Một Chủ Nhật Khác... nói theo
Milosz. Nhìn
như thế, thì “Thơ Ở Đâu Xa” lại là tác phẩm “ít đau” của TTT, với những
dòng “thơ
lại khám phá ra”, những dòng thơ “ẩn mật”, không còn chút hận thù, giả
như trước
đó có, chỉ còn nỗi nhớ nhà, “nhà” ở đây là vợ con, bạn bè.
V/v “Chưa hề
bắn 1 phát súng”.
Milosz viết về Brodsky:
Both he and
his Petersburg friends behaved in the way Aleksander Wat had wished for
Russian
literature: that it would "break with the enemy." They did not want
to be either Soviets or anti-Soviets; they wanted to be a-Soviet.
Certainly,
Brodsky was not a political poet. Nonetheless, he wrote a number of
occasional
poems (on the funeral of Marshal Zhukov, the war in Afghanistan, the
Berlin
Wall, martial law in Poland), and in a speech at the University of
Silesia he
thanked Poland for her contribution to overturning a great evil,
Communism. In
response to the news that the Institute and Academy of Art and
Literature in New York had
voted in Evgeny Evtushenko as a foreign member, he made his protest
known by
resigning from the institute.
Cả hai, ông
và bạn ông thì đều ứng xử theo đường hướng mà A. Wat đã mong muốn cho
văn học
Nga, đó là "đếch chơi với kẻ thù". Họ không muốn, hoặc là Xô viết, hoặc
là bài-Xô Viết; họ chỉ muốn là “a-Xoviet” [không-Xô Viết]. Rõ ràng là,
Brodsky không phải là nhà thơ chính trị. Tuy nhiên, thi thoảng, ông
chơi 1 bài
(trong dịp đám tang Tuớng Zhukov, cuộc chiến tại Afghanistan, Bức Tường Bá Linh, thiết
quân luật ở Ba Lan], và trong bài diễn văn tại Đại học Silesia, ông cám
ơn Ba
Lan, về cái phần đóng góp để đạp đổ Con Quỉ Lớn, chủ nghĩa Cộng Sản. Để
trả lời
cho cái việc Học Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học New York bầu cho
Evgeny
Evtushenko là 1 thành viên ngoại, ông bèn đếch thèm làm thành viên của
nó nữa.
Chiều
nay
Sài-gòn đổ trận mưa đầu mùa...
-Sài-gòn
nghĩa là gì?
-Thiếu, nhớ!
NQT
Hà-nội" có sẵn trong lòng
tôi, trước khi
tôi thấy Hà-nội, cả hai hình như cùng chung một vẻ đẹp, một nét sầu.
Trúc Chi
("Hà-nội" và Hà-nội, Tạp chí
Văn Học, Cali, số tháng Tư, 1999).
Nếu trí nhớ
của tôi không phản bội, Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Huỳnh Phan Anh viết
lời bạt Mấy ghi nhận về Bếp Lửa,
cho ấn bản chung quyết. Tôi nghĩ, ông muốn chủ nhà có
vài lời về "the" man who came in from the cold.
(Đó là thời
gian, Thanh Tâm Tuyền cũng lây cái bệnh của đám "tiểu thuyết mới"
chúng tôi; ngồi quán Cái Chùa mỗi sáng, trước khi ghé sở).
Chữ viết
không là một ý niệm trừu tượng, nhưng không thể tách lìa cuốn sách và ở
bên
trong mối tương quan có thực (vécu), giữa những con người ở trên đời,
cái đó gọi
là ý thức hệ, theo Althusser. Tương quan giữa người và chữ luôn luôn là
xung đột,
nếu không chữ trùng với ý thức hệ. Khi thiếu vắng xung đột, khi đó có
văn
chương hạ cấp (sous-littérature) (13).
Tôi thực sự không tin,
Thanh Tâm Tuyền có bạn,
như một người hiểu ông, từ nhóm Sáng
Tạo. Ông trẻ quá so với tất cả. Tây-phương
quá so với tất cả. Trí thức quá, vẫn so với tất cả. Với công chúng
thưởng ngoạn,
Mai Thảo là người "đại diện", nhưng thật ra tinh thần "xung đột"
của nhóm Sáng Tạo, phần lớn
nếu không là tất cả, ở Thanh Tâm Tuyền. Và nó mang
"khí hậu" miền Bắc. (Làm thế nào ở giữa một xã hội hư hỏng như thế
này, bị tước đoạt hết khí giới, bị ném vào vũng bùn... Bỏ ra ngoài cũng
là một
thứ đánh đĩ, đánh đĩ tinh thần mình... Bếp Lửa). Sự xung đột (khí hậu) đó
đưa đến
chủ nghĩa Cộng-sản, như "giấc mơ đầu tiên và cuối cùng" của một miền
đất. Đây cũng còn là thế giới tiểu thuyết tiền chiến, ở những Nam Cao,
Nguyên Hồng,
Vũ trọng Phụng... Một cách nào đó, nó còn tiên đoán cuộc tù dòng dã của
một Nguyễn
Chí Thiện, cuộc bỏ chạy "tán loạn" của những Phạm Thị Hoài...
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
L'INIMITIÉ ET L'AMITIÉ
Sự
thù ghét và tình
bạn
Note:
Cái quyết định đếch cho xb Ung Thư, của
TTT, dù đã hoàn tất, mắc mớ tới
vấn nạn này, và dưới đây, theo như GCC đoán mò.
Ung Thư tiếp nối Bếp
Lửa, viết về những bạn bè của TTT
còn ở lại Hà Nội, trong có 1 nhân vật Gấu cực mê, tên là Đồng, thi sĩ.
Ám ảnh phố
Dầu có muốn
hay không, thì vẫn phải thừa nhận, Du Tử Lê là một tên tuổi. Tôi thích
đọc Du Tử
Lê, những bài thơ mang đậm nét đèn vàng phố thị hay hiu hắt tóc xanh.
Hầu như
trong giới viết lách ở Sài Gòn, ít nhiều đều thuộc vài câu thơ của Du
Tử Lê. Thế
nên, khi nghe nhà văn, nhà báo Đoàn Thạch Hãn buột miệng nói: “Tôi với
Lê thân
lắm”, thì tôi vội vã gửi lời nhờ: “Khi nào chú Lê có dịp về lại Việt
Nam, chú
cho con gặp với”.
Hạnh ngộ, chỉ
có bấy nhiêu.
Dầu có muốn
hay không thì vẫn phải thừa nhận…
Đúng là chơi
với… cớm, cớm liếm mặt!
“Tôi với Lê
thân lắm”: Câu này phải để đao phủ HPNT nói mới phải, bởi vì bạn ta đã
từng tự
động gõ cửa.. Trùm Địa Ngục Mậu Thân
*
Ce
qui m'a le plus choqué dans les grands procès staliniens, c'est
l'approbation froide avec laquelle les hommes d'État communistes
acceptaient la mise à mort de leurs amis. Car ils étaient tous amis, je
veux dire par là qu'ils s'étaient connus intimement, avaient vécu
ensemble des moments durs, émigration, persécution, longue lutte
politique. Comment ont-ils pu sacrifier, et de cette façon si
macabrement définitive, leur amitié?
Kundera
Điều làm cho tôi cáu nhất,
sốc nhất, tởm nhất, là thái độ gật gù chấp nhận, nếu không muốn nói là
hài lòng của đám tinh anh Bắc Kít, khi Đảng đưa ra tòa những đấng bạn
quí của họ, và sau đó, làm thịt.
Họ chẳng đã từng làm bạn tâm giao ư? Đã từng trải qua những giờ phút
căng thẳng, cay đắng, gian khổ, trốn chạy, bách hại, cuộc chiến chính
kiến dài. Làm sao có thể họ hy sinh tình bạn quí hiếm đến như thế, một
cách thô bỉ ma cạp đến như thế?
Đó là năm
1972. Tôi [Kundera] gặp một cô gái tại ngoại ô Prague, trong một căn phòng người ta
cho chúng tôi mượn. Hai ngày trước đó, trong suốt một ngày, cô gái bị
công an tra hỏi, về tôi. Cô muốn lén gặp tôi, cô nghi mình vẫn bị công
an theo dõi thường trực, và cô muốn cho tôi biết về những gì công an
hỏi cô về tôi, và cô trả lời ra sao. Trong những cuộc tra hỏi như thế,
đã có những câu trả lời của cô trùng hợp với những câu của tôi.
Một cô gái
chưa từng biết gì về cuộc đời, có thể nói như thế. Cuộc tra hỏi làm cô
khốn khổ, và sự sợ hãi khiến cô đau thắt ruột, từ ba bữa nay. Da dẻ cô
nhợt nhạt, và cứ chốc chốc lại phải chạy vô nhà vệ sinh, để đi tiểu,
đến nỗi, suốt cuộc gặp, tiếng nước dội cầu trấn át tất cả.
Tôi biết cô gái từ lâu. Cô thông minh, sắc sảo, đầu óc sáng rỡ, rất
rành trong việc làm chủ những xúc động, cách hành xử, và cách ăn mặc
của cô thì mới tuyệt vời làm sao, với chiếc áo dài giấu kín mọi nét hở
hang. Vậy mà, đùng một cái, nỗi sợ khiến tất cả mở toang. Nỗi sợ, giống
như lưỡi dao, mở toang thân thể cô gái. Cô đứng trước tôi, toang hoác,
chẳng che đậy, giống như một khúc thịt treo trên cái móc của anh hàng
thịt. Tiếng nước dội cầu vẫn âm ỉ, trấn ngự, và bỗng nhiên, tôi chỉ
muốn hiếp cô gái.
Hiếp, chứ
không phải làm tình!
Bài viết này mở ra cuốn Gặp Gỡ,
khủng khiếp, rúng động. GCC đọc, tính dịch trọn bài, rồi quên đi mất.
Lần này chắc là phải làm
thịt bài viết thôi, vì nhớ đến mối tình trong trắng 10 năm trời chỉ hôn
thôi của nhà nhạc sĩ lừng danh của xứ Mít, PD.
GCC cũng có mối tình 5 năm
không dám đụng, mà cũng không dám hôn, với cô bạn thân của Gấu Cái, tức
cô phù dâu.
Gấu Cái chửi hoài, mày coi nó như thánh nữ, đâu có dám!
Nhưng 1 bà bạn của cả hai
bà, cũng bạn học hồi tiểu học, nghe, bĩu môi, ai mà biết được chuyện ma
ăn cỗ!
Hà, hà!
Thời Miệt Thị
Thơ Ở Đâu Xa
Toàn bài thơ:
vài khúc dạo
tặng bạn tri âm
Rũ bỏ ký ức –
ký ức người
mông muội đắm
mình
không thể khác
Ngậm tanh tiếng
sơ sinh
khốn kiếp
lạnh bất trắc
Nuốt chọng điếm
nhục
Thế giới xa
xăm vừa tận số
không trung
vô hạn sóng điêu linh
Mây lửa ứa
nghẹn thất thanh
Và đi. Làm kẻ
phản phúc
bị lăng mạ
đoạn tuyệt mọi
thề thốt gắn bó.
Đứt hết ràng
buộc
Chốn ở nào đâu
Chốn đến không
Có thể nào
khác.
Biệt trí nhớ
khuất ngoài tích sử.
2
Trời một bãi
đầm lầy man rợ
Đêm vẫn đêm
cố cựu bao quanh
Tịch mịch
trong ngoài
Câm nín mai
một
Nghe như rừng
thẳm cây trút lá
Mùa gió bạo
ngược lộng tràn trề
Cắt chuỗi
khoảnh khắc mạch vỡ lở
Cấn thai hàm
hỗn mộng trụy băng
Thổ huyết dữ
dằn bặt đen đúa
3.
Si cette
nuit est une nuit de destin
Bénédiction
sur
elle jusqu’à
l’apparition de l’aurore
Chantent les
chameliers tartares du désert (1)
4.
Như chim
chao liệng chưa hừng đông
trên hoang
phế cuối đêm thảm họa
buột tiếng kêu
vô vọng thinh không
Như con nước
cuồng lưu mùa lũ
Trắng xoá bão
giông mù mịt nguồn
Trôi gạt bến
bờ đất khốn đọa
1988
(1)
Tạm dịch, nghĩa đen:
Nếu dêm nay
là đêm định mệnh
Cầu phúc cho nàng
Cho tới khi rạng đông ló dạng
Hát
những
con lạc đà tác
ta trong đêm sa mạc.
Hemingway
vs
Fitzgerald
Ngư Ông và Biển Cả
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February
16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear
Mr. Harper,
The
famous Ernest Hemingway. The Old Man and the
Sea is one
of
those works of literature that most everyone has heard of, even those
who haven't read it. Despite its brevity 127 pages in the well-spaced
edition I am sending you it's had a lasting effect on English
literature, as has Hemingway's work in general. I'd say that his short
stories, gathered in the collections In Our Time, Men
without Women
and Winner Take Nothing, among others, are
his greatest
achievement and above all, the story "Big Two-Hearted River" but his
novels The
Sun Also Rises, A Farewell to Arms and For Whom the Bell
Tolls are
more widely read.
The greatness of Hemingway lies not so much in what
he said as how he said it. He took the English language and wrote it in
a way that no one had written it before. If you compare Hemingway, who
was born in 1899, and Henry James, who died in 1916, that overlap of
seventeen years seems astonishing, so contrasting are their styles.
With James, truth, verisimilitude, realism, whatever you want to call
it, is achieved by a baroque abundance of language. Hemingway's style
is the exact opposite. He stripped the language of ornamentation,
prescribing adjectives and adverbs to his prose the way a careful
doctor would prescribe pills to a hypochondriac. The result was prose
of revolutionary terseness, with a cadence, vigor and elemental
simplicity that bring to mind a much older text: the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway was
well versed in biblical language and imagery and The Old Man and the
Sea can be
read as a Christian allegory, though I wouldn't call it
a religious work, certainly not in the way the book I sent you two
weeks ago, Gilead, is. Rather, Hemingway uses
Christ's
passage on Earth in a secular way to explore the meaning of human
suffering. "Grace under pressure" was the formulation Hemingway offered
when he was asked what he meant by "guts" in describing the grit shown
by many of his characters. Another way of
putting that would be the
achieving of victory through defeat, which matches more deeply, I
think, the Christ-like odyssey of Santiago, the old man of the title.
For concerning Christ, that was the Apostle Paul's momentous insight
(some would call it God's gift): the possibility of triumph, of
salvation, in the very midst of ruination. It's a message, a belief
that transforms the human experience entirely. Career failures, family
disasters, accidents, disease, old age-these human experiences that
might otherwise be tragically final instead become threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with the great marlin, I wondered whether there was any
political dimension to his story. I came to the conclusion that there
isn't. In politics, victory comes through victory and defeat only
brings defeat. The message of Hemingway's poor Cuban fisherman is
purely personal, addressing the individual in each one of us and not
the roles we might take on. Despite its vast exterior setting, The Old
Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I wish upon you
what I wish upon all of us: that our return from the high seas be as
dignified as Santiago's.
Yours
truly, Yann Martel
ERNEST
HEMINGWAY (I899-1961) was an American journalist, novelist and short
story writer. He is internationally acclaimed for his works The Sun
Also Rises, A Farewell to Arms, For Whom the Bell Toll and his
Pulitzer Prize-winning novella, The Old Man and the Sea.
Hemingway's
writing style is characteristically straightforward and understated,
featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance in World War
I, and was a key figure in the circle of expatriate-artists and writers
in Paris in the 1920s (1)
Ân
Sủng dưới sức ép: Grace under pressure. Tuyệt.
Không chỉ Martel nhận ra gốc Thánh Kinh của Ngư Ông. Vargas Llosa,
trong bài viết về Ngư Ông, trong
Touchstones,
cũng nhận ra, nhưng ông viết thêm, cuốn truyện là một "tái sinh" với
chính tác giả
của nó.
Vargas Llosa nhắc tới 1 câu Faulkner vinh danh Hemingway thật
hết xẩy
con cào cào: Ngay trong bài điểm, khi sách vừa ra lò, Faulkner phán,
trong cuốn
tiểu thuyết, Hemingway đã "khám phá" ra Chúa!
TV đã giới thiệu mấy bài trong Touchstones
[Lolita,
Kẻ Lạ, Phận Người]. Chắc là đi thêm 1 đường về Ngư Ông
…
that our return from the high seas be as dignified as Santiago's.
Ui
chao, đây chẳng là giấc mơ của…. Bác ư?
Sau
“Biển Cao”, là con người Mít tuyệt
hảo, là cái nhà Mít to bằng Trời!
Hemingway,
hình từ cuốn tiểu sử Fitz, Penguin
Books: Illustrated Lives: F. Scott
Fitzgerald
Scott Fitzgerald ra đời
lúc 3:30 pm, ngày 24 Tháng Chín, 1896, tại 481 Laurel Av, thành phố S.
Paul, Minnesota. St Paul là nơi TTT rời Quận Cam, để sống, và để được
chôn tại đó, [TTT mất ngày 22 tháng Ba 2006, hưởng thọ 70 tuổi. Fitz
mất vì đau tim, khi mới 44 tuổi].
Theo Gấu Cà Chớn, TTT hẳn có đọc Tender Is the Night, "Cuộc
Tình Bỏ Đi", của Fitz, trước khi viết MCNK. Đọc tóm tắt sau đây về Tender,
thì chúng ta có thể tưởng tượng ra, nếu ở cái nền của Tender,
là xã hội Mẽo, thì với MCNK, là cuộc chiến Mít:
Tender is the Night was published
on 12 April 1934, and the first printing (7,600 copies) sold out, as
did two more, totaling an additional 8,000 copies. The novel reached
the middle of the bestseller lists for two months, but earned its
author only about $5,000, which did not relieve his debts. It is
remarkable that, with the tragic conditions of Zelda's confinement, his
own ill health and alcohol dependency, he was able to continue writing
stories and short essays. The reviews of the novel were mixed: because
of the passage of so many years since the publication of Gatsby,
expectations ran high for the new work. But most critics felt that
there were structural weaknesses in the novel: Rosemary Hoyt's point of
view in the opening is not sustained throughout the novel. The
chronology seemed confusing to some, and many agreed that there was
insufficient cause for Dick Diver's deterioration. But, once again,
critics whom Fitzgerald respected recognized the brilliance of his
work. As he had with Gatsby, Gilbert Seldes praised the novel
unreservedly; Fitzgerald, he wrote, 'has stepped again to his natural
place at the head of the American writers of our time' (New York
Evening journal, 12 April 1934, Critical Reputation, p. 86).
Burton Rascoe, in Esquire, called it Fitzgerald's 'maturest'
novel, his 'rich, Celtic, romantic imagination' having been 'subjected
to the discipline of reflection and selection' (Critical Reputation,
p. 86). Robert Benchley, an old friend, called it 'a beautiful piece of
work', and said that he hadn't had a book take hold of him in that way
for years (Correspondence, p. 358). Zelda praised the book too
as a 'tragic and poetic personal drama against the background of the
times we matured in' (Correspondence, p. 353).
Fitzgerald later revised the novel to make the chronology clearer, but
the response when it was published after his death was mixed, many
feeling that the earlier version was superior.
Tender
is the Night
is the story of Dick Diver, a young psychiatrist, who is seduced by the
loveliness of the wealthy young Nicole Warren, whom he has been hired
to treat. Eventually they marry, and Dick becomes part of the Warren
establishment, used and ultimately discarded by Nicole after she has
been cured and the Warren family no longer needs his services. But the
bare outline of the story cannot describe the power of the novel: a
picture of expatriate Americans and the wealth that ultimately
corrupts; an examination of America and its history; and a poignant
tale of loss, particularly moving in its reflection of the Fitzgerald’s
own lives. The novel achieves a genuinely tragic dimension as it traces
the decline of Dick Diver, which affectingly mirrors Fitzgerald's sense
of his own eroded hopes.
[Penguin Books]
Chân dung tự họa,
self-portrait, by Zelda,"Đảo Xa", [bà vợ khùng] của Fitz.
"Cuộc
tình bỏ đi" là câu chuyện của Dick Diver, 1 bác sĩ tâm thần, trẻ, bị
quyến rũ bởi sự cô đơn của một cô gái nhà giầu Nicole mà anh được mướn
để trị bịnh cho ẻn. Sau đó, họ lấy nhau, và Dick trở thành 1 món đồ
trong cơ ngơi nhà vợ, được sử dụng, và sau cùng bị đá đít, khi bên vợ
đếch cần đến anh nữa.
Nhưng 1 tóm tắt trần trụi như thế đếch nói được cái gì về sức mạnh của
cuốn tiểu thuyết: 1 bức tranh về đám Mẽo lưu đầy, xa xứ,
và của cải sau cùng làm hư ruỗng họ, một cái nhìn chăm soi vào nước Mẽo
và lịch sử của nó, một câu chuyện nhức nhối về mất mát, và đặc biệt là
rất ư thương cảm, phản chiếu cuộc đời của chính gia đình Fitz.
Cuốn tiểu thuyết đạt đến đỉnh cao chói lọi của nó, khi vẽ lại cuộc tiêu
trầm của Dick Diver, và với nó, là cảm quan
của riêng Fitz, về hy vọng và cứu chuộc.
Ui chao, thê lương thật, nhưng làm sao so được với cái chết của trung
uý Kiệt, bị chính 1 sĩ quan VNCH làm thịt, vì tưởng là VC! (1)
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Mỗi lần Gấu nhớ đến Một chủ nhật khác, là cùng lúc, nhớ
đến Dịu dàng như đêm, Tender is the
Night, của Fitzgerald.
Quả có một liên hệ tình
cảm giữa hai cuốn, thật.
Đoạn sau đây, mà chẳng đúng là câu thơ ‘Ôm em trong tay mà đã nhớ em
những ngày sắp tới’ ư?
Chàng nhớ bữa đó cỏ thì
ướt. Nàng chạy tới chàng, và đôi dép của nàng ướt đẫm sương. Nàng ôm
lấy chàng, tựa trên đôi giầy của chàng, và khuôn mặt nàng mở ra như một
trang sách.
"Hãy nghĩ anh yêu em đến là chừng nào. Em không đòi hỏi anh lúc nào
cũng yêu em nhiều như lúc này, nhưng em xin anh một điều, hãy nhớ đến
em. Cho dù mai sau có như thế nào, thì em vẫn đinh ninh một điều, em có
ở trong em, điều em có chiều hôm nay."
F.S. Fitzgerald: La Fêlure [Vết
nứt. Nguyên tác tiếng Anh: The
Crack-up] (2)
Nhưng, Fitz không mê gái bằng Gấu:
“Anh không sợ chúng mình không thương nhau, mà chỉ sợ chúng mình thương
nhau nhiều quá”
Tứ Tấu Khúc
Tình bạn, giữa
hai ông này, cũng "nhiêu khê" lắm.
Hemingway,
trong Paris là 1 ngày hội,
dành 1 chương cho Scott Fitzgerald, với những dòng "đề từ " như sau:
His talent
was as natural as the pattern that was made by the dust on a
butterfly's wings.
At one time he understood it no more than the butterfly did and he did
not know
when it was brushed or marred. Later he became conscious of his damaged
wings
and of their construction and he learned to think and could not fly any
more
because the love of flight was gone and he could only remember when it
had been
effortless.
Tài năng của
bạn quí của ta thì cũng vô tư hồn nhiên, và tự nhiên, như những nét hoa
văn được
làm bằng bụi ở trên cánh bướm. Có một thời, chàng hiểu điều này, cũng
vô tư hồn
nhiên, và tự nhiên, như bướm hiểu, và chàng đếch thèm phân biệt, khi
nào thì
tài năng của chàng là vàng, khi nào thì là cứt. Sau đó, khi chàng bắt
đầu băn
khoăn đến những cánh bướm bị đời gọi không biết bao nhiêu lần của mình,
và muốn
tìm hiểu cấu trúc của bướm, và chàng học suy tư, và thế là chàng đếch
làm sao
bay bổng lên được nữa, ấy là vì tình yêu mong được bay bổng mãi lên
trên cao
thì đã bỏ chàng, và chàng chỉ có thể nhớ lại, khi nào bướm hết còn là
bướm.
[Note: Cái
này là Gấu dịch phóng, dịch ẩu, cho dzui. Muốn có bản dịch chính xác,
xin liên
lạc Nhã Nam, nơi xb bản dịch Hội Hè
Miên Man của Phan Triều Hải.
Ui chao, quảng
cáo free cho bạn văn-nhà thương gia đấy nhá! NQT] (1)
Hemingway viết,
như trên, về Scott Fitzgerald mà không... đểu ư?
Đâu thua gì
Gấu viết về các đấng bạn quí của Gấu?
*
Ui chao, lại
nói chuyện bạn quí, những cái xác trôi lều bều trên con sông thời gian,
lịch sử
những ngày ở Sài Gòn.
Gấu
có cả một
lô kỷ niệm, nhớ đến đâu đau đến đó, về những đấng bạn quí. Sau lần đi
gặp Con K
nhân sinh nhật vừa qua, nó biểu Gấu, tao chẳng có gì mà cho mày hết,
chỉ có vài
lời nhắn nhủ như thế này này:
Quãng
đời
còn lại của mày bây giờ là 'bonus' rồi. Suy Nghĩ Lớn, về Cái Đại Ác Bắc
Kít,
thì cũng viết ra rồi. Hoang Vu Lớn thì cũng tàn lụi theo BHD từ giã mày
mà đi
trước mày rồi, bi giờ ta cho phép mi tha hồ mà viết, muốn viết cái đéo
gì thì
viết!
Hà,
hà!
"Bi lăng" [Bản kết toán]
đầu tiên sau “Tận Thế”: 100 cuốn tớ thú nhất.
Tay này viết essai đọc thú
lắm, nhưng giả tưởng thì Gấu lại đếch chịu được.
Cuốn trước của ông, TV đã từng giới thiệu.
Phong thần bảng
Dernier inventaire avant
liquidation
Nhà xuất bản Grasset 2001
No 1: L'ÉTRANGER [Kẻ Xa Lạ]
d'Albert Camus (1942)
Le n° 1 de ce classement
des 50 livres du siècle, choisis par le vote de 6 000 Francais, n'est
pas moi mais je m'en fous, même pas vexé, je serai dans le «Premier
Inventaire » du XXI siècle, non ? Non plus ?
II faut souligner que notre grand
vainqueur rassurera les paresseux : un roman très court (123 pages en
gros caractères). Pas besoin de se fatiguer : on peut donc écrire un
chef-d'oeuvre sans noircir des milliers de pages comme Proust.
Chef-d'oeuvre que nous pouvons lire en une demi-heure...
Cái ngôi vị số dzách, năm bơ oăn, của Bảng
Phong Thần Cuối Cùng này, gồm 50 cuốn, thuộc
về Kẻ Xa Lạ của ông Tây
thuộc địa Albert Camus, và là do 6000 độc giả Tây chọn.
Tuy không được cái hân hạnh đó, nhưng tôi đếch cần. Cũng chắng vếc xê
vếc xiếc gì hết trơn hết trọi. Biết đâu nhờ vậy, tôi sẽ có tên trong Bảng Phong Thần Đầu Tiên của thế
kỷ 21.
Tại sao không?
Phải nhấn mạnh một điều là kẻ chiến thắng vĩ đại này rất được lòng
phái... nữ - ấy chết xin lỗi - mấy tướng đại lãn, hay nói theo người
miền bắc, lười chảy thây ra: đây là một cuốn tiểu thuyết rất ngắn, 123
trang, chữ bự tổ trảng... Đâu cần phải bôi đen hàng ngàn trang giấy mới
đẻ ra được một đại tác phẩm, như Proust...
Năm muơi cuốn sách của thế kỷ, do bạn chọn, nhưng do tôi làm công việc
của Thánh Thán
Cuốn số 96: "Tại sao thi
sĩ đếch ai biết đến thì cứ đếch ai biết đến", "Pourquoi les poètes
inconnus restent inconnus", của Richard Brautigan [di cảo].
Được, được!
Để giới thiệu tới mấy đấng thi sĩ Mít suốt đời làm thơ mà không được
đời biết đến!
Số 78, Ký ức bướm buồn
của tôi, [2004] của Garcia Marquez. Đọc loáng thoáng thấy câu này,
“Tớ chưa ngủ với 1 người đàn bà nào mà không trả tiền”, trích dẫn
Garcia Marquez, với còm của Beigbeder: Ê, thưa Ngài, câu đó đâu phải để
vô trận, mà là để xong trận, "Aie, monsieur, c’est pas une entrée, ca,
mais une sortie".
Tới 1 tuổi nào đó, đám già viết, chỉ để phán, tớ chưa già!
Có thể, vì TV càng ngày càng bị chê là tục tĩu quá.
Mồm miệng đỡ chân tay, là vậy!
Frédéric
Beigbeder, trong Premier Bilan, viết về 100 cuốn còn lại sau
Tận Thế,
"Mon Top 100", chọn Vết Nứt, thay vì "Đại gia Trịnh Lữ" -
ấy chết, "Đại gia Grasby" của Trịnh Lữ -
hay "Cuộc Tình Bỏ Đi", của Mặc Đỗ, dịch "Tender Is The Night".
Bài viết cực tuyệt. TV sẽ post liền ở
đây, để
cho thấy, như Fitzgerald viết về mình, ông nổi tiếng vì thất bại, còn
Hemingway, thành công: Hemingway không thể viết nổi 1 cuốn thảm hại thê
lương
như Vết Nứt, do triết lý “người hùng” của chính ông.
Khi ông cố viết lại, không được, bèn tự đòm mình 1 phát, làm như 1 tai
nạn khi
chùi súng!
“La fêlure”,
số 10. La Peau, Thượng Đế đã ngỏm trong Sài Gòn, của Malaparte, số
11.
Bắt Trẻ đồng xanh, của Salinger, số 7.
Bài điểm cuốn này cũng
tuyệt lắm. Bài nào cũng ngắn, nhẩn nha TV sẽ đi hết mấy bài này.
Cuốn "số 1"
trong “Mon top 100” của FB, là “American Psycho”, 1991, của Bret Easton
Ellis.
Gấu, thú thực chưa từng đọc tay này, tuy có mua DVD American Psycho
nhưng cũng
chưa coi!
Không thuộc gu, mà còn chịu không nổi!
FB viết, về tiểu sử của
BEE [Ellis, une vie]:
Sinh
năm 1964, Bret Easton Ellis là tái nhập thế, réincarnation,
của…Hemingway, nhưng
anh ta đếch biết, thế là đành chọn cho mình, il se prend pour, Marquis
de Sade:
một tên đực dơ dáy, ghê tởm, hư hỏng, chuyên phá nát đồ chơi của nó, un
sale
gosse pourri qui casse ses jouets.
Sự thực, ông
là 1 nhà văn làm ra vẻ, faussement, vô đạo đức, và là 1 biếm văn sĩ thứ
thiệt, un
vrai satiriste.
Những dòng
sau đây, thật tuyệt:
Đừng coi thường
chủ nghĩa hư vô lãng mạn. Văn chương quả đúng là 1 nơi chốn tuyệt cú
mèo, độc
nhất, nơi hư vô chủ nghĩa hòa hợp, giao lưu… với hy vọng, cái đẹp và sự
tái
sinh.
Il ne faut
pas redouter le nihilisme romannesque. La littérature est bel et bien
le seul
endroit où le nihilisme est conciliable avec l’espoir, la beauté, la
résurrection.
Số 10:
"La Fêlure", của Francis Scott Fitzgerald (1936)
Cũng chẳng
nhiều, những cuốn sách mà người ta có thể đọc mọi năm, tous les ans,
chỉ trong vòng 20 phút,
và sau đó, người ta muốn ghì chúng vào trái tim của mình và nghiền nó
đến nát bấy [serrer très
fort contre son coeur jusqu'à les broyer]. The Crack-Up là thứ đó. FB viết. Nó là
ba bài viết, tờ
Esquire order, in trong ba tháng, Hai, Ba, và Tư, 1936. Theo như tôi
biết, thì đây
là lần đầu tiên trên thế giới có 1 người bị nát tan, brisé, vì rượu,
công khai
thú nhận, trên 1 tờ tạp chí, cái sự vướng vô ghiền, sự tan hoang cuộc
đời, và sự
đếch làm sao viết được nữa [son intoxication, sa dépression, et son
incapacité à
écrire]. Một xì căng đan nổ ra liền sau khi đăng. Độc giả Mẽo bị sốc
nặng, khi
trực tiếp đối diện với 1 khiếm nhã, sỗ sàng đến như thế, về sự
“décadence”, suy đồi, suy tàn, đi xuống, của
thần tượng
của họ.
Cái định
nghĩa trên của FB, tếu làm sao, làm Gấu nhớ đến 1 vị nữ lưu, phán về
người yêu
của mình, đó là thứ “phải là của tôi, cấm đứa nào khác đụng vô”, và mỗi
lần “êu”,
là 1 lần ăn sống nuốt tươi... như 1 thứ ngựa trời, 1 bọ ngựa cái!
Hà, hà!
|
|