*





















 
 


Phận Người

Đà sáng tạo, creative impetus, của Malraux không chỉ thu gọn vô những cuốn tiểu thuyết. Nó còn xùi, suffuse, vô những tiểu luận [GCC thú nhất bài ông viết về Sanctuary của Faulkner: Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình làng văn Tây, André Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám vô trong bi kịch Hy Lạp", và khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã biến "sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc đó, cuốn Giáo Đường của Faulkner. (1)], và những tác phẩm có tính tự thuật, một số trong đó – như Phản -Hồi ký, và Những cây sồi mà người ta đốn, Les Chênes qu’on abat [Felled Oaks: Chuyện trò với De Gaulle – có sức mạnh cực dẫn dụ, overwhelming persuasive force, nhờ dòng văn xuôi thần sầu, những câu chuyện được kể hớp hồn, và quấn quít trong đó, là những nhân vật được miêu tả, và họ không có mặt theo kiểu liệt kê chi tiết, thông báo sự kiện, người thực việc thực, mà là những kỳ tích của nghệ thuật dẫn dụ, art of persuasion.
Thử đọc cuộc lèm bèm giữa Malraux và De Gaulle, trong cuốn chót của bộ sách, ở Colombey-les-deux-églises, ngày 11 Tháng Chạp 1969. Đúng thứ tiểu sử của những vĩ nhân chính trị, mà tôi rất tởm, và nếu 1 ông Tẩy viết ra thì lại càng tởm, vì mấy đấng này, lòng ái quốc chỉ thua có mấy anh Mít, cựu thuộc địa của mấy ảnh, viết về Bác Hồ!
Tuy nhiên, mặc dù thiên kiến, lòng dạ đầy thù hằn như thế, vậy mà khi đọc, tôi phải gật đầu bái phục: đúng là cuộc nói chuyện giữa "đỉnh với đỉnh", between two monuments, hai vĩ nhân lèm bèm như là những vĩ nhân trong những cuốn sách vĩ đại, who speak as only people in great books speak, với 1 sự đồng điệu, hài hòa liên chi, with unremitting coherence, và sáng chói, chúng phá vỡ mọi thiên kiến, mọi phòng ngự, thủ thế của tôi, không những thế mà còn làm tôi choáng, vì cái tôi huyênh hoang bốc phét, tự cao tự đại khùng điên của nó, và làm cho tôi tin ở cái sự cà chớn mang tính tiên tri mà hai vĩ nhân an ủi lẫn nhau, the prophetic nonsense with these two brilliant interlocutors consoled themselves: rằng, nếu đếch có De Gaulle, Âu Châu tan ra từng mảnh, và nước Pháp, ở trong tay một lũ chính trị gia tồi sau De Gaulle sẽ đưa nó xuống đáy địa ngục. Nó dụ khị, chứ không phải làm cho tôi tin tưởng, it seduced me, not convinced me, phải nói như thế.
Và bây giờ, ở đây, tôi giải thích, rằng, cuốn Felled Oaks quả đúng là 1 cuốn “huy hoàng đáng ghét”, a magnificent detestable book.

Không có ai bảnh như một nhà văn nhớn trong cái việc làm cho chúng ta nhìn thấy những ảo ảnh. [There is no one like a great writer to make us see mirages]. Malraux không chỉ làm được như vậy, khi viết, mà cả khi nói. Đây là 1 cái tài thiên bẩm khác của ông [another of his original gifts], một cái tài mà theo tôi, chưa từng có tiền thân cũng như hậu duệ [no precursors nor successors]. Tài ăn nói, oratory, nhiều người có, và là 1 thứ tài mọn, phiến diện, đầy những hiệu ứng âm thanh, hình ảnh làm nhàm, full of sonorous and visual effects, thường là rỗng tuếch, devoid of thought, thường được trình diễn cho/bởi những người ba hoa chích chòe. Nhưng Malraux là 1 tay ăn nói thần sầu, outstanding orator, như người ta có thể nhận ra, từ Oraisons funèbres [Funerary  Orations], ông là người có thể ban cho 1 bài diễn văn cả một rừng những tư tưởng mới mẻ, tươi rói, gây kích thích, và choàng lên chúng với những hình ảnh của một cái đẹp tu từ lớn lao. Một số những bài nói này, thí dụ bài diễn văn đọc tại Pantheon trước quan tài của anh hùng kháng chiến Pháp, Jean Moulin, hay trước quan tài Le Corbusier, tại sân điện Louvre, chúng là những mẩu văn chương tuyệt đẹp, và trong số chúng ta, nếu có người nào đã từng nghe, thì không thể nào quên được giọng nói hùng hồn, như sấm động, his thunderous voice, những quãng ngưng nghỉ rất ư là bi thương, đúng thứ vọng cổ Út Trà Ôn của Mít, và cái nhìn thiên sứ, his visionary gaze, mới “Sến” làm sao! Tôi đã có lần nghe ông đọc, từ xa, ở khu vực báo chí, vậy mà còn run hết cả người, mồ hôi lạnh toát ra như tắm, lông gáy dựng ngược, chỉ muốn vãi linh hồn [I heard them at a great distance, in the press pack, but I still went into a cold sweat and was very moved].
Malraux là như vậy, suốt cuộc đời của ông: một cảnh tượng, a spectacle, và ông, chính ông, sửa soạn, điều khiển và trình diễn, prepared, directed, and performed. Với kỹ năng, thủ thuật của 1 bậc thầy, để ý đến, và không bỏ qua, dù 1 chi tiết nhỏ. Ông biết, ta là 1 thằng cực kỳ thông minh, và sáng láng, và mặc dù vậy, ta đã không trở thành 1 tên ngu đần, [He knew that he was intelligent and brilliant and, despite it, he did not become an idiot]. Ông còn là 1 người can đảm, đếch sợ chết, và bởi vì điều này, thần chết ve vãn ông rất nhiều lần, ông bèn thừa dịp để ôm lấy nó, và đời của ông gồm rất nhiều cú “đẹp như xém chết” thế đó! Và may mắn làm sao, ông không là 1 tay đạo đức giả, hay vị kỷ, narcissistic, nhưng là 1 tay trình diễn đu bay, a high-flying exhibitionist (một Nam Tước Clappique) và điều này khiến ông vưỡn là người [that made him human], nghĩa là, lại khiến cho ông thay vì đi trên mây thì chân lại chạm đất, lại là 1 con người có sống có chết, và điều này làm Gide rất ư là ngỡ ngàng.
Rất nhiều nhà văn mà tôi biết, thất bại trong cái cú “cá vượt vũ môn” [Pantheon test], hay, sự diện diện của họ ở đó, ở cái Điện Thờ đó, hậu thế không thể nào chịu được, 1 cú sỉ nhục cho hồi ức của họ. Làm sao một Flaubert, một Baudelaire, một Rimbaud vô Pantheon? Nhưng Malraux thì lúc nào cũng có chỗ của ông ở đó. Không phải là tác phẩm của ông, hình ảnh của ông trở nên nghèo nàn hẳn đi giữa đống đá cẩm thạch, nhưng bởi vì ông mê trò trình diễn, một trong những thói đời đáng yêu của con người!

Làm sao mà GCC quên nổi hình ảnh "trình diễn" của BHD, thí dụ, "nàng vội vàng chạy vô rồi lại vội vàng chạy ra, nàng quên không dặn chàng…" (1)

Hà, hà!

Cái đoạn đó, 1 anh bạn từ hồi đi học, mê quá, cứ ư ử hoài, sao mà mày sướng thế!

(1)

…. đang vội vàng từ giã người yêu, vội vàng chạy vô cổng trường rồi lại vội vàng chạy ra: nàng quên không dặn chàng trưa nay đừng đón nàng, vì nàng sẽ về chung với Lan Anh, bạn nàng...

Note: Tiếp tục “Bảng Phong Thần”, GCC sẽ giới thiệu bài viết của Vargas Llosa về cuốn Kẻ Xa Lạ [nhưng đếch phải Người Dưng] của Camus, cùng lúc với một vài bài viết khác, cũng về cuốn này. Cuốn sách tiếng Tây mà GCC đánh vật với nó, suốt một thời mới lớn, do tiếng Tây ăn đong!
Quái đản nhất, cái truyện ngắn đầu tay của GCC, Những Con Dã Tràng, đọc 1 phát, là lòi ra ngay một anh chàng Meursault Mít, khật khừ, "húng hắng ho vào buổi chiều", và cái bãi biển Nha Trang vào 1 mùa hè, ở giữa hai kỳ thi Tú Tài II, [kỳ 1 và kỳ 2], biến thành Địa Trung Hải, của Cà Mu!


L'Étranger

The Outsider Must Die

Along with L'Homme révolté (The Rebel), L'Étranger (The Outsider) is Camus's best book. It seems that the project was born in August 1937, albeit in a very vague way, when Camus was convalescing in a clinic in the Alps from one of the many relapses that he suffered following his attack of tuberculosis in 1930. In his Cahiers (Notebooks) he points out that he finished the novel in 1940. (But it was only published in 1942, by Gallimard, thanks to the support of Andre Malraux, who had been one of the literary models of the young Camus.)
The time and circumstances in which The Outsider was conceived are significant. The icy pessimism that pervades the references to society and the human condition in the story clearly stems in great part from the illness that weakened his fragile body over decades, and the anguished climate in Europe at the end of the inter-war years and at the outbreak of the Second World War.
The book was interpreted as a metaphor of the injustice of the world and of life, a literary illustration of that 'absurd sensibility' that Camus had described in Le Mythe de Sisyphe (The Myth of Sisyphus), an essay that appeared shortly after the novel. It was Sartre who best linked both texts, in a brilliant commentary on The Outsider. Meursault was seen as the incarnation of a man hurled into a senseless existence, the victim of social mechanisms that beneath the disguise of big words - The Law, Justice - were simply unjustifiable and irrational. Like the anonymous heroes of Kafka, Meursault personified the pathetic situation of the individual whose fate depends on forces that are uncontrollable and arbitrary.
[suite]

Vargas Llosa 1988, [London, June 5]

*

Bạn quí của chúng ta: Kẻ Xa Lạ, Người Dưng

Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Virginia Woolf, Tháng Tư 2012, có 1 bài về Kẻ Xa Lạ, thật lạ, và có thể có cái nghĩa “người dưng”.

Vừa mở ra, độc giả tưởng anh "người dưng "này đưa cả hai tay về phía mình, ra ý tôi không phải "người dưng", tôi rất cần các bạn để “trải lòng”!

Tẽn tò!

Tháng Bẩy, 1944, Barthes đọc lại Kẻ Xa Lạ, và phán: “Camus đã sáng tạo ra một ngôn ngữ của sự vắng mặt nào đó, hay
La Condition humaine

Phận Người

Nó, Phận Người, không giống một cuốn tiểu thuyết cho lắm, nhưng lại giống một bi kịch cổ điển lồng, khảm, cấy, ghép vô [grafted on] đời hiện đại. Một nhóm đàn ông (và một người đàn bà đơn, a single woman, May, một người mà trong thế giới thiết yếu ghét đờn bà của Malraux - sực nhớ đến câu của Gide, thế giới của Malraux đếch có đàn bà trẻ con và tiếng cười – thì chỉ được phác ra, như 1 cái bóng, chỉ sáng sủa hơn 1 tị, so với Valéry và những em bướm tạo nên một phần của cái nền) từ những miền khác nhau của thế giới, đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt kẻ thù hơn họ, để, bằng những từ của Kyo, “đem trả lại phẩm giá” cho những người mà họ chiến đấu cho họ, nhân danh họ [“give back dignity” to those that they are fighting for], những kẻ khốn khổ, thất bại, bị khai thác, bóc lột, những nô lệ dân quê hay thợ nhà máy. Trong cuộc chiến đấu đó, qua đó, họ bị đánh bại, và tiêu trầm, perish, Kyo, Chen, và Katow vươn tới một mặt phẳng đạo đức cao hơn, hoàn tất một sự cao cả, nó diễn tả “phận người”, trong cái dạng kiểu mẫu tuyệt vời nhất, bảnh nhất của nó, “the human condition” in its most exemplary form.

Đời thì đếch phải như thế, lẽ dĩ nhiên, những cuộc cách mạng thì không được làm nên bởi những hành động phong nhã và đê tiện, được phân bối theo kiểu đường thẳng giữa những chiến binh của đôi bên. Tìm những quan tâm chính trị và đạo hạnh “tuyến tính” như thế ở trong bất cứ một giả tưởng nào được sản xuất ra bởi chủ nghĩa hiện thực thì quả đúng là chán phèo. Sự kiện, Phận Người của Malraux thuyết phục chúng ta bằng sự thực của nó, có nghĩa, Malraux có tài, capable, như tất cả những nhà sáng tạo, đánh lừa, bịp chúng ta [pulling the wool over our eyes], che giấu những quan điểm của ông, bằng 1 bề ngoài cực kỳ hấp dẫn, không chê vào đâu được, của thực tại.

Rõ ràng là cách mạng dù máu me cỡ nào thì cũng đầy kít, và những tên cách mạng thì kít ăn vào tận não, nhưng thế thì tại làm sao chúng ta, độc giả lại bị hớp hồn đến như thế, khi đọc Phận Người, thí dụ? Tại làm sao mà chúng ta ngạc nhiên và tại làm sao chúng ta đau khổ, khi Chen, tên phiêu lưu âm thầm, lặng lẽ, that silent adventurer, chấp nhận cái chết, như là cái giá của hành động cao cả, đại lượng của anh ta, hay là, tại làm sao mà thân xác của chúng ta tan tác ra thành từng mảnh, ở bên dưới chiếc xe hơi, mà Tưởng Giới Thạch đếch có ở trên xe? Tại sao, nếu những nhân vật thì đều là đồ dởm, được phịa ra?

Bỏi là vì họ cưu mang trong họ một ý tưởng phổ cập, a universal idea, cái ao ước tuyệt cùng, the supreme aspiration, cõi tuyệt hảo, toàn thiện, perfection, cái đó nó nằm trong mọi trái tim con người. Nhưng hơn cả điều này, là, bằng tài năng, bằng tuyệt kỹ của tác giả, thông qua người kể chuyện, một thứ tuyệt kỹ - mà như có người nhận xét, viết văn như rút ruột ra để viết, viết xong là chết, viết như là đốt mình như ngọn đuốc - the narrator is so consummate, kẻ kể chuyện, bằng cách tự thiêu mình như thế đó, qua kỹ năng kể chuyện, anh ta dụ khị, persuade, chúng ta, về một sự thực riêng tư, the intimate truth, của những thiên thần mà anh ta mang từ thiên đàng xuống trái đất và biến họ thành người trần, có sống, có chết, có đau khổ, có hạnh phúc… nói ngắn gọn, những người hùng, như… bất cứ kẻ nào trong chúng ta,  nếu kẻ đó đọc.. "tỉu thiết"!

[Ta là lời dối trá luôn nói ra sự thực, Je suis une mensonge qui dit toujours la vérité, một sự thực “thực” hơn cả đời sống... là theo nghĩa đó]

Cuốn tiểu thuyết cực kỳ súc tích, superb concise. Những miêu tả trần trụi thuờng xuyên bật ra từ những đối thoại, và suy tưởng của nhân vật, những phác họa nhanh, gọn, đủ để tạo ra khung cảnh đô thị trì trệ, chán ngán: thành phố Thượng Hải lúc nhúc, thừa thãi, hàng rào kẽm gai lởm chởm [lại nhớ Sài Gòn, những ngày Mậu Thân, ra khỏi ngõ là đụng hàng rào kẽm gai, khu An Ninh Quân Đội, Đài Phát Thanh, Tâm Lý Chiến], nhạt nhào xóa đi, hiện lại theo những đợt khói từ những nhà máy, và mưa; nơi đói khát, lang chạ, và những sự độc ác cực tồi tệ cùng chung sống với lòng đại lượng, tình bạn bè, và chủ nghĩa anh hùng. Súc tích, nhọn hoắt, sắc, bén, văn phong chẳng hề lèm bèm, lòng ròng, vãi linh hồn, luôn luôn nói ít, nói thật ít, ít nữa. Mỗi thời kỳ thì như 1 tí trên cả 1 băng sơn, một tí sáng ngời, phát quang lộng lẫy, mãnh liệt đến nỗi trí tưởng tượng của người đọc có thể tái cấu trúc cả một toàn thể hành động, từ một miêu tả lơ thơ tơ liễu như thế đó, không một chút khó khăn, “cái gì gì”, trong 1 giọt nước có cả 1 đại dương, đại dương ở đây, là 1 nơi chốn, nơi sự kiện [sự thực, chân lý cái con mẹ gì cũng được] xẩy ra cũng như trạng thái của tâm hồn, và những động cơ bí ẩn của những vai chính của cuốn tiểu thuyết. Phương pháp tổng hợp này đem đến cho nó độ đậm đặc lớn, và hơi thở sử thi.
Những chuỗi hoạt động trên đường phố, như cảnh chiếm 1 bót cảnh sát của Chen và đệ tử, ở đoạn mở đầu, và cảnh chiến tuyến giao thông hào thất thủ, nơi Katow và những người CS ẩn núp, ở cuối truyện, thì nhỏ, căng, được miêu tả bởi 1 bậc thầy, chúng làm người đọc toát mồ hôi, như coi phim nghẹt thở. Những đoạn đó và những đoạn khác nữa trong Phận Người cho thấy chúng mang chất điện ảnh, một điều mà Dos Passos cũng toan tính thực hiện trong những câu chuyện bảnh nhất của ông, cũng trong thời kỳ đó.
Một sự thái quá về thông minh thường rất ư là tổn hại, fatal, ở trong 1 cuốn tiểu thuyết, là bởi vì, nó sẽ chửi bố quyền năng dụ khị, dẫn dắt, mê hoặc, persuative power, của giả tưởng, [đây là 1 cái lỗi trầm trọng của đám nhà văn Bắc Kít: vừa viết xong 1 câu, là ngưng, để giải thích, chỉ sợ độc giả đéo hiểu được ý tưởng sâu sắc của câu văn của chúng! Chán thế!] Nhưng trong tiểu thuyết Malraux thông minh ở tất cả mọi nơi, ở trong người kể chuyện, ở những nhân vật, và là khí hậu của chúng [y chang tiểu thuyết của TTT, và vì vậy mà cũng mang tiếng làm dáng… trí thức!]: Gisors khôn ngoan [the wise Gisors] thì cũng đâu có kém sáng suốt, so với cớm Konig, và ngay tên Bỉ, the Belgian Hemmelrich, được coi là tầm thường, vô vị, vậy mà suy tư về những thất bại và quẫn trí, frustration của mình, với 1 sự sáng sủa tâm thần sáng chói, with a dazzling mental clarity.
Thông minh ở trong Phận Người của Malraux không phải theo kiểu rất ư là có thực, verisimilitude (bằng sự tương phản, nó sói mòn, undermine, chủ nghĩa hiện thực trong tất cả những cuốn tiểu thuyết của Sartre), bởi vì trong cuốn tiểu thuyết của Malraux, thông minh là một tính phổ quát ban cho người sống, a universal attribute to the living.
Đây là 1 trong những tính chất chủ yếu của thành phần thêm vô, “added element”, đem đến cho cuốn tiểu thuyết quyền tối thượng, tự chủ, the sovereignty, cuộc đời của riêng nó, khác hẳn đời thực.

Nhân vật chính của truyện không phải là Kyo như cái tay kể chuyện muốn, khi anh ta lèm bèm hoài về kỷ luật, tinh thần đồng đội, và phải một lòng một dạ với lãnh tụ, như 1 tên lính tuyệt hảo. Đó là Chen, tên vô chính phủ, tên cá nhân chủ nghĩa, một tên biến đổi từ một nhà hành động, activist, thành 1 tên khủng bố, terrorist, tức một nhà nước số 1, a superior state, theo cái nhìn của anh ta, bởi là vì bằng giết người và bằng chết người, by killing and dying, anh ta có thể làm tăng tốc lịch sử, accelerate history, bởi vì đối với Đảng Kách Mệnh [chôm chữ của Bác H] lịch sử được làm bởi những chuyển động tập thể chậm, trong đó, cá nhân chỉ là tí ti, hay chẳng là cái gì cả. Trong nhân vật Chen, chúng ta nhận ra bản phác họa của cái mà theo năm tháng, trở thành ý thức hệ của Malraux: người hùng, nhân vật, the hero, mà, nhờ vào sự sáng suốt của anh ta, nhờ ý chí hùng mạnh và dám làm, force of will and daring, có thể vượt lên những “lề luật” của lịch sử [can prevail over the “laws” of history]. Sự kiện anh ta thất bại [“vấp ngã”, chữ của anh cớm kiêm thi sĩ kiêm nhà biên khảo NTH] – nhân vật của Malraux, anh đéo nào cũng thất bại, thế mới thú! – là cái giá mà anh ta phải trả cho chiến thắng sau cùng của nghĩa cả.

[Ui chao, nhân vật của TTT, thì cũng rứa, toàn một lũ "ratés", chữ của chính TTT!]

Đếch cần đàn bà, trẻ em và tiếng cười: Những nhân vật của Malraux “bèn” can đảm, bi thương, tragic, và thông minh, và đều có học, có văn hóa cao, [không phải thứ chăn trâu học lớp 1, hay y tá dạo, hà, hà!]: Họ biết thưởng thức cái đẹp, “rất thơ” [well versed]  trong nghệ thuật, triết học, rất khoái mùi hương xa cỏ lạ, exotic cultures. Trong Phận Người, nhân vật biểu tượng của mấy thứ trên là Gisors già, nhưng Clappique thì cũng được làm ra bởi cùng những món đó, bởi vì đằng sau cái trò trình diễn, muốn nổi cộm, khoe khoang, khoác lác, thì là một con người tế nhị, với một khiếu thưởng ngoạn tuyệt cú mèo, exquisite, trước cái mĩ. Nam tước Clappique quả là 1 cú xâm nhập ngang xương, của kỳ quái, phi lý, tự do và hài hước [an irruption of fantasy, absurdity, freedom and humor] vào trong thế giới trầm trọng, hữu lý, sầu thảm, hung bạo của những nhà cách mạng, và phản cách mạng. Ông ta có đó, để làm sáng ngời - với 1 đòn, a blast [một luồng gió, một làn hơi] khùng điên, ba trợn, vô trách nhiệm - cái địa ngục “nhạt nhòa, xưa rồi Diễm ơi”, [that rarefield hell] của đau khổ, độc ác, tàn bạo. Ông ta còn nhắc nhở chúng ta, ngược hẳn với điều mà Kyo, Chen, và Karow nghĩ, đời thì được làm nên, không phải chỉ bằng lý trí, lẽ phải, và những giá trị tập thể, mà còn bằng sự khùng điên, bản năng, và những đam mê cá nhân: Chúng cà khịa, nói ngược lại, và đôi khi, hủy diệt những giá trị đó.

Vargas Llosa

La Condition humaine

Phận Người

Malraux không có mặt ở Thượng Hải khi biến động bùng ra, với những sự kiện được ông mô tả, hay đúng hơn, phịa ra, nhung ông ở Canton [Quảng Đông?], khi xẩy ra vụ đình công vào năm 1925, và là bạn và người “cộng tác”, collaborator [chúng ta không biết “cộng tác” tới mức nào] của Borodin, đặc sứ của Comintern, Quốc tế CS, [nói một cách khác, của Stalin], để cố vấn phong trào CS Tẫu. Điều này hiển nhiên giúp cho ông chuyên chở, cảm nhận, ý nghĩa của từ “sống”, trong “kinh nghiệm sống”, lived experience, ở trong cuốn tiểu thuyết, khi ông mô tả, theo nghĩa, nhớ lại, những cuộc tấn công trên đường phố.
Từ cái nhìn ý thức hệ, Phận Người rõ ràng là phò Cộng [unambiguously pro-Communist]. Tuy nhiên, nó không có tính Stalinist, mà đúng hơn, Trotskyist, bởi vì 1 cách công khai, cuốn sách kết án những mệnh lệnh từ Moscow, đặt để ra cho những người CS Tẫu, bởi những tên thư lại của Quốc Tế CS, hãy trao khí giới của họ cho Tưởng Giới Thạch, thay vì cất giấu để bảo vệ, khi Quốc Dân Đảng trở cờ. Chúng ta đừng quên là khi những giai đoạn này xẩy ra ở TQ, thì ở Liên Xô đang có cuộc lèm bèm lớn, great debate, giữa những người theo Xì, và những người theo Trốt-ky, giữa Cách Mạng thường trực, và chủ nghĩa CS, và nó trở nên thật dữ dằn, và đã bắt đầu xẩy ra những vụ làm cỏ đám Trốt Kít.

Nhưng 1 cách đọc ý thức hệ, hay có mùi chính trị sẽ làm mất đi điểm chính: rằng, cái thế giới mà cuốn tiểu thuyết sáng tạo ra, trong chi ly chi tiết như thế đó, thì mắc nợ nhiều ở sức tưởng tượng và sức mạnh quằn quại, co giật convulsive force [bỗng nhớ đến những hình ảnh như “vết thương dậy thì”, “hơi thở rướn cong” của nữ văn sĩ Túy Hồng, hay beauté convulsive, của Linda Lê (2)], của câu chuyện [tale], hơn là những thời kỳ lịch sử mà nó sử dụng như chất liệu thô [its raw material]

Nó, Phận Người, không giống một cuốn tiểu thuyết cho lắm, nhưng lại giống một bi kịch cổ điển lồng, khảm, cấy, ghép vô [grafted on] đời hiện đại. Một nhóm đàn ông (và một người đàn bà đơn, a single woman, May, một người mà trong thế giới thiết yếu ghét đờn bà của Malraux - sực nhớ đến câu của Gide, thế giới của Malraux đếch có đàn bà trẻ con và tiếng cười – thì chỉ được phác ra, như 1 cái bóng, chỉ sáng sủa hơn 1 tị, so với Valéry và những em bướm tạo nên một phần của cái nền) từ những miền khác nhau của thế giới, đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt kẻ thù hơn họ, để, bằng những từ của Kyo, “đem trả lại phẩm giá” cho những người mà họ chiến đấu cho họ, nhân danh họ [“give back dignity” to those that they are fighting for], những kẻ khốn khổ, thất bại, bị khai thác, bóc lột, những nô lệ dân quê hay thợ nhà máy. Trong cuộc chiến đấu đó, qua đó, họ bị đánh bại, và tiêu trầm, perish, Kyo, Chen, và Katow vươn tới một mặt phẳng đạo đức cao hơn, hoàn tất một sự cao cả, nó diễn tả “phận người”, trong cái dạng kiểu mẫu tuyệt vời nhất, bảnh nhất của nó, “the human condition” in its most exemplary form.


La Condition humaine

Phận Người

Malraux có viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không tin như thế.
.....

Mười bẩy năm đã qua.
Kinh nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá lâu với một quyển sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã đến lúc nên viết những quyển sách khác.

Tháng 3 – 73
THANH TÂM TUYỀN
(1)

Khi đọc Bếp Lửa, 1973, GCC dựa vào kinh nghiệm đọc Lukacs. (1)

Một đời đã… gần qua, nhìn lại, GCC tự hỏi, liệu có ai đọc Lukacs?
Mít chắc không, nhưng, liệu có nhà văn nhớn nào, của thế giới, đọc Lukacs, phương pháp, lý thuyết của ông, như GCC đọc, và áp dụng nó vào 1 tác giả?

Có đấy: Orhan Pamuk.
Trong bài Bạt trong cuốn mới nhất của ông, "Tiểu thuyết gia ngù ngờ vãi linh hồn", The naive and the
sentimental novelist, ông nhắc tới G. Lukacs, cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết và có ý định sử dụng nó vào những bài đọc, The Norton Lectures, ở Harvard University.

Bài viết thú lắm [bài viết nào cũng thú lắm],TV sẽ post, và dịch.
*

L’Express:
Nền đạo hạnh nào, cho dù phiến diện, theo ông, chúng ta có thể tái xây dựng nó, cho thế kỷ mới mẻ này?

Steiner:
Thần học xưa kia là chỗ dựa của nền văn hoá cao của chúng ta. Sau cùng, như chúng ta thấy đấy, chính thần học, hay giả thuyết về một Thượng Đế, đã củng cố những giá trị, kể cả những giá trị thẩm mỹ. Nhưng, nếu con người ngày một bớt tin tưởng thì càng cần phải tìm một nền đạo đức của con người, một nền đạo đức không có Thượng Đế, không có Mười Điều Răn, để giúp chúng ta. Phải tự nhủ với nhau, như thế này: "Con người đơn độc trên trái đất, cùng với loài vật, đó là tất cả những gì còn lại với con người." Nếu không có kiếp sau, có thể con người nên sáng tạo ra một nền đạo hạnh thế tục? Lại cũng vẫn những nhà văn lớn chỉ cho chúng ta con đường. Ở cuối tác phẩm Phận Người của André Malraux, một trong hai tay Cộng sản, sắp sửa chết bằng một cái chết cực kỳ ghê rợn, đã nhường viên thuốc độc (cyanure) cho người kia, để giúp cho anh ta không phải chịu đau đớn. Anh đã hành động bằng một đạo đức, theo đó, chính con người phải trách nhiệm về cái phẩm giá tối hậu của con người. Chúng ta có những cái nền, những nhà tư tưởng về nỗi cô đơn trơ trọi của con người không Thượng Đế, lẽ dĩ nhiên, trong đó có những triết gia vô thần cổ điển lớn. (1)

Tất cả những cuốn tiểu thuyết của Malraux đều bảnh, ngon cơm, excellent. Tuy nhiên, Hy Vọng, L'Espoir, dài quá, Những kẻ chinh phục, Les Conquérants, Con đường vương giả, La Voie Royale, và Thời Khinh Thị, Le Temps du Mépris, [bản tiếng Anh, An Age of Oppression], thì lại ngắn quá. Phận Người là 1 kiệt tác, xứng đáng được nhắc tới, kế bên tác phẩm của Joyce, Proust, Faulkner, Thomas Mann, hay Kafka, như là 1 trong những sáng tạo ngất ngư con tầu đi, sáng loà đến làm mù con mắt, one of the most dazzling creations, của thời chúng ta. Tôi phán điều này với sự xác tín của 1 kẻ đã đọc nó ít lắm thì cũng nửa chục lần, và, mỗi lần mỗi rùng mình khi tên khủng bố Chen cắm lưỡi dao vào nạn nhân đang nằm ngủ, và cảm động rơi nước mắt trước hành động hoành tráng, cao vời vợi của Katow, khi anh trao viên thuốc độc cyanure cho anh Tẫu trẻ tuổi, cũng bị kết án thiêu sống như anh ta, bởi những tên tra tấn của Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch.
Mọi thứ ở trong cuốn tiểu thuyết thì đều tuyệt hảo: Câu chuyện kể sử thi, the epic story, với những gia vị là chất mùi mẫn, vãi linh hồn vào những lúc ngưng nghỉ, spiced with romantic interludes, sự tương phhản giữa cuộc phiêu lưu cá nhân và những cuộc lèm bèm ý thức hệ; tâm lý và văn hóa đối nghịch của những nhân vật, và những hành động điên rồ của Nam tước Clappique, thì, như cú điểm xuyết của sự thái quá, và phi lý – hay là chúng ta có thể nói, cái sự không thể tiên đoán được, và tự do – cú điểm xuyết, nếu thiếu nó, thì cuộc đời quá lô gíc, hay dùng từ của Gấu Cà Chớn, quá cà chớn, quá đơn điệu, hay, dùng toán học để mà giải thích: sau điều đó, thì là điều đó!
Nhưng trên tất cả, tính hiệu quả của thứ văn xuôi cà giựt [syncopated] cứ thế mà xuội dần đi [pare-down] bắt người đọc luôn luôn phải sử dụng tới trí tưởng tượng để lấp đầy những khoảng trống, chúng vờ đi, đếch thèm để ý tới những cuộc đối thoại và những miêu tả của cuốn truyện.
Phận Người dựa trên một cuộc cách mạng thực, xẩy ra vào năm 1927 ở Thượng Hải, được dẫn dắt bởi Đảng CS TQ, và đồng minh của nó, Quốc Dân Đảng, chống lại Những Người Của Chiến Tranh, Men of War, như tên gọi đám nhà binh chuyên quyền cai trị 1 nước Tầu chia rẽ lúc đó, một nước Tầu mà những thế lực Tây Phương toan tính biến thành thuộc địa với dân Tầu như nô lệ, bằng sức mạnh, hay bằng tham nhũng. Một đặc sứ của Mao, Chu Ân Lai - nhân vật Kyo trong truyện, một phần dựa trên nhân vật có thực Chu Ân Lai này - dẫn dắt cuộc cách mạng. Nhưng không như Kyo, Chu Ân Lai không bị giết, và sau khi đánh bại chính quyền quân sự, Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo quay qua chống đồng minh của họ, là Đảng CS Trung Hoa, và, như cuốn tiểu thuyết mô tả, đã tàn bạo trấn áp đồng minh cũ của nó. Chu Ân Lai trốn thoát, gặp lại Mao, đồng hành với Mao trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, và là cố vấn, kẻ uỷ quyền, deputy, của Mao trong suốt cuộc đời còn lại của ông.

Vargas Llosa

La Condition humaine

Phận Người


Cuộc đời của Malraux mới khốc liệt, đa dạng, mâu thuẫn, và có thể giải thích bằng nhiều đường hướng, mâu thuẫn, chỏi lẫn nhau. Nhưng, không nghi ngờ chi, cuộc đời của ông bày ra [offer] một sự kết hợp tuyệt vời của tư tưởng và hành động, ở mức “đỉnh của đỉnh”, bởi vì trong khi tham dự, gia nhập những biến động, những thảm họa long trời lở đất của thời của ông, thì, cùng lúc, ông còn là 1 con người được trời phú cho thông minh cực thông minh, sáng suốt cực sáng suốt, và, chưa kể ở trong ông còn cái mầm sáng tạo, nhờ thế, ông vẫn giữ cho mình được 1 khoảng cách với biến động, với kinh nghiệm sống thực, và chuyển nó thành suy tư, thành chiêm nghiệm phê bình, hay những giả tưởng thần sầu.
Có 1 dúm nhà văn, như ông, những người đồng thời với ông, hoàn toàn trực tiếp tham dự biến động, lịch sử: Orwell, Koestler, T.E. Lawrence. Cả ba ông này đều viết những tiểu luận thần sầu về cái thực tại bi đát mà họ sống ở trong nó, nhưng chẳng có ai tóm bắt được nó, và chuyển hóa nó thành giả tưởng một cái tài năng như Malraux.

Note:
Nhận xét của Vargas Llosa, về T.E. Lawrence, GCC không có ý kiến, vì chưa từng đọc ông này, nhưng về Koestler và Orwell, sai.

Malraux chưa từng có tác phẩm giả tưởng nào vươn tới đỉnh như Trại Loài Vật, và Đêm Giữa Ban Ngày, chúng là những giả tưởng đánh động lương tâm của con người, trước thảm họa. Cái sự thực – hay dùng chữ của Vargas Llosa, cái thực tại bi đát mà họ sống, và từ chiêm nghiệm, và từ đó, đẻ ra giả tưởng, cũng khác nhau.
TTT, rất mê Malraux, và đã để 1 nhân vật của ông thốt ra câu ‘dưng không trồi lên sự thực’, cái sự thực dưng không trồi lên này đúng là “cũng” của cả TTT và Malraux.

Tác phẩm của TTT mà chẳng từ sự thực thời của ông ư?
Không có Hà Nội, 1954, và cuộc di cư khủng khiếp, làm sao có Bếp Lửa?
Nhưng Bếp Lửa là của TTT, trong đó, ngoài những sự kiện lịch sử trên, còn có 1 anh chàng Tâm ngất nga ngất như, khật khà khật khừ, của riêng TTT.

Applebaum nhận ra điều này, khi phán về Trại Loài Vật Bóng Đêm: Thiếu, chỉ 1 trong hai cuốn, là cả Âu Châu bị nhuộm đỏ.
Tuyệt!
Malraux, TTT không có thứ tác phẩm đó.

Bản thân GCC, nếu những ngày mới lớn, không được chích 1 mũi thuốc ngừa VC – không đọc Bóng Đêm Giữa Ban Ngày – chắc chắn đi vô rừng, vô bưng, làm đệ tử Hoàng Phủ Ngọc Tường, và biết đâu, tay cũng đầy máu rồi.

Vị trí của Malraux, trong lịch sử thời của ông, chưa khủng bằng của Koestler, như Steiner phán trong bài viết tưởng niệm ông, La Morte d’Arthur:
Koestler, sinh năm 1905, ở Budapest, đứng đứng chỗ của những chấm dứt cân não của thế kỷ 20 -lịch sử, chính trị, ngôn ngữ, và khoa học - đụng vô.
K [….] stood on the exact terrain where the nerve ends of the 20th century history, politics, language, and science touch.

Trong 1 bài viết về Steiner, VL cho biết, rất mê cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của ông, nhưng sau cuốn đó, hết đọc được Steiner, và gọi ông là 1 thứ enfant terrible của thế kỷ.
Theo GCC, Vargas Llosa không có được sự thâm hậu, và cùng lúc, không có được nỗi đau…  Lò Thiêu, nên không đọc nổi Steiner.

Ngược lại, Steiner thiếu sự tưởng tượng phong phú nên cũng không làm sao viết ra được những tác phẩm giả tưởng, “dưng không trồi lên sự thực”!
TTT, không chỉ mê Malraux, mà còn mê, và đã từng dịch Nabokov, và ông này, còn bảnh nữa, bỏ thực tại vào trong ngoặc, và sau đó phịa ra đời sống, thứ đời sống con đẻ của giả tưởng!
Bởi vậy mà Nabokov chê và đã từng phán, đếch biết những đấng nhà văn cà chớn như Faulkner, Camus….

Bài “tribute” của Steiner về Koestler, La Morte d’Arthur, tuyệt, GCC hăm he dịch hoài, nhưng mà “căng” quá, cả về cân não [chưa sống tới chỉ, chưa tịnh, lặng được cái đầu, mải lo… tán em thi sĩ… ] lẫn nội lực [khả năng tiếng Anh], thành ra cứ “hợm hợm, khoan khoan” hoài!

Steiner viết:

Bóng Đêm Giữa Ban Ngày của Arthur Koestler là một trong những tác phẩm cổ điển của thế kỷ. Nó giáo dục hàng hàng thế hệ về những ghê rợn, khủng bố, tang thương điêu tàn, mà thế kỷ đó gây nên. “Di Chúc Tây Ban Nha”, Spanish Testament, (còn có tên Dialogue with Death, "Lèm bèm với Thần Chết"], cũng xém bảnh bằng cuốn đó. "Những kẻ mộng du", The Sleepwalkers, đặc biệt là chương về Kepler, là 1 trong những bữa tiệc nhân gian thuộc loại Nhất Dạ Đế Vương, hiếm, lạ, của sự tái sáng tạo mang tính tưởng tượng đáng tin cậy, của khoa học lớn, của thứ lô gíc thơ ca của khám phá [one of the rare feasts of convincing imaginative re-creation of great science, of the poetic logic of discovery].

Làm Dáng

Nghệ Thuật Làm Dáng

La Condition humaine

The Hero, the Buffoon and History

Phận Người

*

Người cực kỳ thông minh mà Em đã từng gặp:
André Malraux


La Condition humaine

The Hero, the Buffoon and History

Phận Người

Người Hùng, Tên Hề và Lịch Sử

Tên hề.

Thay vì tên hề, thì TTT dùng từ “kẻ làm dáng”, để chỉ những nhân vật của Mặc Đỗ, trong Bốn Mươi, Siu Cô Nương.

Mặc Đỗ hỏi lại, nhân vật của TTT, trong Ung Thư, có…. làm dáng không?

Tháng 11, 1996, khi tro cốt của André Malraux được đưa vô Điện Chư Thần, Pantheon, ngược hẳn với những lễ lạc vinh danh ông, thì là 1 làn sóng phê bình nặng nề đả kích cả con người lẫn tác phẩm của ông, ở cả hai bên bờ đại dương, ở Mẽo cũng như ở Âu Châu. Phê bình văn học đẩy tới mức làm thịt tác phẩm & con người, trong có những tay cự phách như Simon Leys, mà GCC đã từng chôm bài viết của ông, trên tờ NYRB.
Nếu chúng ta tin ở những bài điểm sách, phê bình này, thì Malraux chỉ là 1 thứ nhà văn được thổi lên như bong bóng, những cuốn tiểu thuyết, tồi, một nhà viết tiểu luận chuyên bốc phét, với một văn phong thùng rỗng kêu to, và những tuyên bố khùng điên ba trợn về lịch sử hay triết học, ở trong đó, thì chẳng khác gì những chùm pháo bông, những trò loè bịp của 1 tay chuyên bịa đặt ra những huyền thoại về mình.
Tôi không đồng ý với cái nhìn không đúng, và có thiên kiến về tác phẩm của Malraux. Đúng, ông quả có tài phù thuỷ trên mớ chữ nghĩa, nhưng cái này thì thuộc về truyền thống của Tẩy rồi, đâu phải của riêng ông! Như rất nhiều đồng nghiệp của ông, trong những tiểu luận, ông chơi trò hiệu ứng tu từ, bảnh quá đến nỗi, sau cùng bài viết rơi vào miền tăm tối!
Và, đúng như thế, Malraux quả là 1 trong những vị phù thuỷ về trò chơi chữ nghĩa, đến biến nó thành 1 đức hạnh
[Đời thì đếch ra cái đéo gì, nhưng đéo có gì như đời, La vie ne vaut rien mais rien ne vaut la vie, thí dụ].
Ngay cả ở trong 1 tản văn hoành tráng, nhưng chẳng nói lên được điều gì, như Những tiếng nói của sự im lặng, Les Voix du silence, thì cái hoành tráng rỗng tuếch đó mới đẹp làm sao, there was so much beauty in that tangled emptiness of words that was enchanting.
Nhưng nếu như 1 nhà phê bình, ông có lạm dụng tu từ, hơi bị quá, thì, như một tiểu thuyết gia, ông đúng là 1 thứ khuôn mẫu của hiệu quả và chính xác. Trong những cuốn tiểu thuyết của ông, bảnh, cực bảnh, là Phận Người, La Condition Humaine. Ngay khi đọc nó, trọn cuốn, trọn đêm, và sau đó, biết tí ti về ông qua cuốn của Pierre de Boisdeffre, tôi ngộ ngay ra cuộc đời của ông chính là cuộc đời mà tôi thèm đi theo.
Và tôi cứ ôm ấp giấc mộng lớn đó, suốt thời gian những năm sáu mươi, là 1 tay ký giả ở Pháp, tôi theo dõi, ghi chép [cover] những diễn văn hành động, của người hùng của tôi, lúc đó là Bộ Trưởng Văn Hóa của Đệ Ngũ Cộng Hòa. Tôi ngấu nghiến những gì được ông viết về ông, hay người ta viết, qua những trang tự thuật, tiểu sử, chúng chẳng khác chi những nhân vật của ông, và những cuộc phiêu lưu của họ.
Tôi cũng là 1 thứ thần tượng hóa những tác giả mà mình say mê, thành ra gần như tôi chẳng hề bỏ qua một chi tiết dù nhỏ nhặt về họ: Họ làm gì và không làm gì, bạn và thù của họ, và đám này đóng góp ra sao, hay bịa đặt ra sao, cho hậu thế. Và tôi ngỡ ngàng trước con số lạ thường về ông - những phát giác có tính công chúng, những phản bội, những buộc tội, những xì căng đan - chúng càng làm tăng thêm sự giầu có về ông, con người của huyền thoại. Ông không chỉ là một nhà văn lớn, mà còn là 1 con người, không hiểu xoay sở ra làm sao, trong 75 năm của cuộc đời ông [1901-1976] luôn có mặt, không chỉ có mặt, mà còn đóng vai trò ngôi sao sáng, ở những biến động lớn của lịch sử  - cách mạng Trung Hoa, những cuộc chiến đấu chống lại chế độ thuộc địa ở Á Châu, phong trào chống phát xít ở Âu Châu, cuộc chiến Tây Ban Nha, cuộc kháng chiến chống lại Nazi, sự cáo chung, huỷ diệt chế độ thuộc địa và tái tạo dựng nước Pháp dưới thời De Gaulle – và để lại dấu ấn bảnh tỏng, a distinct mark, của mình, lên thời của mình.
Ông là người bạn đường của chủ nghĩa CS, và là một nhà quốc gia hăm hở, đầy nhiệt huyết, một nhà xb đen của sách báo khiêu dâm, [a publisher of clandestine pornography], một tay đầu cơ thị trường chứng khoán [a speculator on the Stock Exchange], ông giầu sụ nhờ nó, và trắng tay chỉ trong vài tháng, hoang phí, nướng sạch tiền của vợ, một tên cướp, a raider, lột tượng ở một ngôi đền ở Banteai-Srei, ở Cambodia, và bị án tù ba niên, nhưng nhờ là 1 nhà văn tai tiếng [tăm tiếng] và nhờ "bạn quí" viết thư, lên tiếng can thiệp, nên được ân xá. Một tay âm mưu chống thực dân [an anti-colonialist conspirator] ở Sài Gòn, một sức mạnh chủ lực, dẫn đạo [a driving force] ở đằng sau những tờ báo văn nghệ tiền phong, một tay “promoter”, sáng lập viên, của Biểu Tượng, Lập Thể Đức, và đã kinh qua tất cả những kinh nghiệm nghệ thuật và thi ca của những năm 20 và ba mươi, một trong những nhà phê bình và lý thuyết gia điện ảnh đầu tiên, một kẻ tham gia, và nhân chứng của cuộc bãi công cách mạng ở Canton vào năm 1925; một tay tổ chức, và là thành viên của cuộc thám hiểm tìm kiếm kho tàng của Nữ Hoàng Saba ở Arabia; một nhà trí thức dấn thân, và một hình tượng cây tháp, a towering figure, trong tất cả những hội nghị và tổ chức của những nghệ sĩ, nhà văn bài Phát Xít ở Âu Châu; người tổ chức Phi Đội Tây Ban Nha, [sau đổi là the “André Malraux Squadron”], để bảo vệ nền Cộng Hòa trong thời gian nội chiến Tây Ban Nha; một người hùng trong lực lượng Kháng Chiến Pháp; Đại Tá, Colonel, của lữ đoàn Alsace-Loraine Brigade; một nhà hỗ trợ chính trị  và bộ trưởng trong tất cả những chính quyền của Tướng De Gaulle, người mà, những cuộc gặp gỡ của cả hai, từ lần gặp lần thứ nhất vào tháng Tháng 1945, đã tạo ra một sùng bái thần thánh, tôn giáo, a religious devotion, ở nơi ông.

Vargas Llosa

Làm Dáng
Nghệ Thuật Làm Dáng

La Condition humaine


The Hero, the Buffoon and History

Phận Người

Người Hùng, Tên Hề và Lịch Sử

Tên hề.

Thay vì tên hề, thì TTT dùng từ “kẻ làm dáng”, để chỉ những nhân vật của Mặc Đỗ, trong Bốn Mươi, Siu Cô Nương.

Mặc Đỗ hỏi lại, nhân vật của TTT, trong Ung Thư, có…. làm dáng không?

Tháng 11, 1996, khi tro cốt của André Malraux được đưa vô Điện Chư Thần, Pantheon, ngược hẳn với những lễ lạc vinh danh ông, thì là 1 làn sóng phê bình nặng nề đả kích cả con người lẫn tác phẩm của ông, ở cả hai bên bờ đại dương, ở Mẽo cũng như ở Âu Châu. Phê bình văn học đẩy tới mức làm thịt tác phẩm & con người, trong có những tay cự phách như Simon Leys, mà GCC đã từng chôm bài viết của ông, trên tờ NYRB.
Nếu chúng ta tin ở những bài điểm sách, phê bình này, thì Malraux chỉ là 1 thứ nhà văn được thổi lên như bong bóng, những cuốn tiểu thuyết, tồi, một nhà viết tiểu luận chuyên bốc phét, với một văn phong thùng rỗng kêu to, và những tuyên bố khùng điên ba trợn về lịch sử hay triết học, ở trong đó, thì chẳng khác gì những chùm pháo bông, những trò loè bịp của 1 tay chuyên bịa đặt ra những huyền thoại về mình.
Tôi không đồng ý với cái nhìn không đúng, và có thiên kiến về tác phẩm của Malraux. Đúng, ông quả có tài phù thuỷ trên mớ chữ nghĩa, nhưng cái này thì thuộc về truyền thống của Tẩy rồi, đâu phải của riêng ông! Như rất nhiều đồng nghiệp của ông, trong những tiểu luận, ông chơi trò hiệu ứng tu từ, bảnh quá đến nỗi, sau cùng bài viết rơi vào miền tăm tối!
Và, đúng như thế, Malraux quả là 1 trong những vị phù thuỷ về trò chơi chữ nghĩa, đến biến nó thành 1 đức hạnh
[Đời thì đếch ra cái đéo gì, nhưng đéo có gì như đời, La vie ne vaut rien mais rien ne vaut la vie, thí dụ].

Vargas Llosa

Làm Dáng

Nghệ Thuật Làm Dáng

*

*

Source





La Condition humaine

The Hero, the Buffoon and History

When in November 1996 the French government decided to move the remains of Andre Malraux to the Pantheon, there was a very harsh critical reaction against his work in the United States and Europe, in contrast to the many events organized in his honor by President Jacques Chirac and his supporters. A critical revision that, in some cases, amounted to a literary lynching. See, for example, the ferocious article in the New York Times - that barometer of political correctness in the Anglo-Saxon world - by a critic as respectable as Simon Leys. If we were to believe him and other critics, then Malraux was an overrated writer, a mediocre novelist and a wordy and boastful essayist with a declamatory style, whose delirious historical and philosophical declarations in his essays were mere verbal fire-works, the conjuring tricks of a charlatan.

I do not agree with this unjust and prejudiced view of Malraux's work. It is true, he did have a certain propensity to excessive wordiness - a congenital vice of the French literary tradition - and at times, in his essays on art, he could strain after rhetorical effect and fall into tricky obscurity (like many of his colleagues). But there are charlatans and charlatans. Malraux was one to the highest possible degree of rhetorical splendor, brimming over with such intelligence and culture that in his case the vice of wordiness often became a virtue.

Even when the tumultuous prose that he wrote said nothing, as is the case in some pages of Les Voix du silence (The Voices of Silence), there was so much beauty in that tangled emptiness of words that it