*

 
Trang
NGUYỄN LƯƠNG VỴ





*
Trân trọng giới thiệu
HÒA ÂM ÂM ÂM ÂM
Thi tập thứ ba
 Nguyễn Lương Vỵ
Thư Ấn Quán xuất bản, tháng 7.2007
302 trang
Liên lạc email
Hay gửi $US. 25 (bằng check ghi tên Vy Nguyen) tới:
VY NGUYEN
12621 Wynant Dr.
 Garden Grove – CA 92841 USA
phuong_y nlv

nlv
Trang NGUYỄN LƯƠNG VỴ
*
Trân trọng giới thiệu
HÒA ÂM ÂM ÂM ÂM
Thi tập thứ ba
 Nguyễn Lương Vỵ
Thư Ấn Quán xuất bản, tháng 7.2007
302 trang
Liên lạc email
Hay gửi $US. 25 (bằng check ghi tên Vy Nguyen) tới:
VY NGUYEN
12621 Wynant Dr.
 Garden Grove – CA 92841 USA
Phương Ý
Thơ NLV
*
Thi Ca sẽ giúp “sau trước tỏ nguồn cơn”.  Đến bây giờ ở trong nước và ngoài nước (...), tôi chỉ nhờ thơ Vỵ giúp tôi tin ở những cuộc “viễn mộng” xa xôi... Tôi phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi, đọc suốt đời càng thích.  Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ là “chữ” không thôi, nó chính là Tính Linh của chúng ta, dù chỉ là loại tính linh đầy những máu.
Nguyễn Tôn Nhan
*
Nếu Nguyễn Lương Vỵ chưa được ai gắn cho danh hiệu Lạt Ma chỉ vì anh đã độc quyền hai chữ ...Lạt Quỷ! 
Tính Linh ở chỗ đó, đó! 
Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ 1
Đọc thơ NLV 2
Nhịp hai tay thơ
Nhịp ba chân thơ
Note: Gấu cứ "hẹn với lòng mình", sẽ "buông dao đồ tể", để chỉ lèm bèm về thơ, vậy mà..
*
Việt Báo giới thiệu Nguyễn Lương Vỵ
*
“…Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ và đăng thơ Vỵ từ những ngày Khởi Hành ở trong nước, từ 1969, cùng với những Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Đạt, Trần Hoài Thư, Nguyễn Bắc Sơn, Phạm Thiên Thư, Phạm Văn Nhàn, Ngô Nguyên Nghiễm, Phạm Ngọc Lư, Lê V Trung… những người mà sau nầy nhìn lại, tôi vui như nhìn lại những cánh diều cùng thả lên trời một ngày quá khứ, bất chợt thấy diều bay lồng lộng thinh không một chiều xa vắng xứ người, tôi tìm lại được niềm vui cũ, mà mới, niềm vui bằng hữu văn chương muôn thuở; hay một thoáng ngậm ngùi lúc diều bay thẳng về mặt đất, như vừa rồi tưởng thấy cánh gió băng sương của Nguyễn Bạch Dương, của Nguyễn Phan Thịnh. Mai ta về khóc ngất dấu sương tan. Câu thơ ấy của Nguyễn Lương Vỵ trong bài Một Mình, bài thơ dài đến mười trang; với tôi, đây là một bài tiêu biểu của nhà thơ: lọc chữ chọn vần nhưng vẫn đùa thảnh thơi; đời chết đôi lần mà vẫn vui, tuy kiềm kiệm; vũ trụ ảo hóa mà có khác chi em tuyệt cùng.
Nhưng sao lại Hòa Âmmmm? Hòa âm thế nào?
Đêm rất sâu nên đêm trầm khói sương. Tim buốt âm nên âm rền thấu xương. Đó là một âm trong các Hòa Âm âm âm âm của Nguyễn Lương Vỵ, một tập thơ mà thi-ngữ nhiều sáng tạo, văn-phong khoáng đạt, tạo một phẩm giá thi ca riêng, tôi tin nó sẽ tồn tại lâu dài trên văn đàn và trong lòng người đọc.”
Viên Linh [Khởi Hành số 130, Tháng Tám, 2007]

Vĩnh Biệt Lửa Thiêng
 Tán nhảm về bài thơ của NLV.
Thơ bay như ráng đỏ sang sông:
Câu này ví cảnh HC sang sông, "bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ thơ," theo VC.
Bãi chiều tuổi dại cháy mênh mông
Mang theo tiếng dội ùm hư không:
"Cũng theo hư không mà đi", như một câu nhạc vàng, nhạc sến.
"Không cầu gợi chút niềm thân mật"
Tớ vĩnh biệt Lửa Thiêng, chứ không phải vĩnh biệt Huy Cận.
Nhà thơ, từ bữa ráng đỏ qua sông, thì đâu còn là thi sĩ nữa.
Tolstaya, vĩnh biệt Brodsky, mất năm 1996:
Chỉ cần ông sống thêm bốn năm nữa thôi, thế kỷ chúng ta sẽ có được một kết thúc thật là tuyệt vời. Bây giờ ông mất, căn nhà Nga mới thực sự trống rỗng.
Theo ý đó, Vĩnh Biệt Lửa Thiêng  là một bài thơ muộn. (1)
*
Bi thương hồn Việt huyết gào ngàn
Sắc chàm ưu hận thấm qua trang…
Đây là nói về cuộc chiến. Sắc chàm ưu hận thấm qua trang... là số phận đau thương của cả một miền đất, như là hậu quả của cái vụ ráng đỏ qua sông?
Chân giả lộn đường huyết cũng khô
Đành thôi nhang khói nhắn huyền hồ
“Lòng quê rờn rợn sầu con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Hai câu đầu, có vẻ như là kết cục bi thương của cuộc chiến.
Nhưng hai câu sau, lại là cái số phận của thi sĩ, khi ở hải ngoại?
*
(1) Có những bài thơ viết muộn
Vì không thể viết sớm hơn
Ngặt nỗi thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt mắt sương thôn
NLV
*
Cái ý, "có những bài thơ viết muộn, vì không thể viết sớm hơn", theo Gấu, nó "khủng khiếp" lắm.
Và nó liên quan đến ráng đỏ qua sông, đến giấc mộng lớn đã đạt, sáng ngủ dậy, thấy nước nhà thống nhất.
Nhưng chưa kịp mừng, thì đã thấy bi thương hồn Việt....
Gấu này nhớ, ông anh nhà thơ mà cũng còn mừng hụt, vì cú 30 Tháng Tư.
Ông mừng thực, khi tâm sự với thằng em, thế là mình khỏi viết nữa. Làm một người dân bình thường, cùng nhau xây dựng cái nhà Việt Nam! Chẳng cần làm thơ nữa!
Từ không làm thơ, khỏi phải viết nữa, tới bài thơ viết muộn, là cả trời bi thương.
Bi thương hồn Việt
Sắc chàm u hận...
Đành thôi nhang khói..
*
Theo nghĩa đó, cả tập thơ mới ra lò của NLV, chỉ là một bài thơ viết muộn, sau "Lò Cải Tạo"!


NGUYỄN HÀN CHUNG

XÁC CHỮ HỒN ÂM

Nhân đọc HOÀ ÂM ÂM ÂM ÂM   của Nguyễn Lương Vỵ

(Thư Ấn Quán 2007)                                                            

Ngày còn ở Việt Nam, tôi chưa từng quen biết Nguyễn Lương Vỵ dù cùng quê Quảng Nam với anh, khi sang Mỹ, tôi cũng chưa hề gặp anh, thi thoảng có email hoặc phone cho nhau ít câu thăm hỏi.
Ấy là về người, còn thơ thì tôi có đọc anh theo lối cách 'không điểm huyệt', nghĩa là bài nào tôi thấy thâm hậu hồn nhiên “thấu tử cung cuộc sống’’ thì đào bới  ngôn âm, bài nào tôi thấy anh buông tuồng chữ nghĩa thì xin kính nhi viễn chi, vậy.
Anh mần thơ ra răng, xin mời bạn đọc thấu thị xuyên tầng cõi thơ ta bà tá hoả, anh xào xáo “theo cái máy động của trời đất’’

Thơ Vỵ bỡn cợt một cách nghiêm cẩn giống như cô gái giang hồ say rượu nắm chắc cái lai quần trinh nguyên môt thuở bời bời dậm đạp :

Ta thấy ta quá cỡ sặc sừ
Câm trời nín đất nứ nừ nư
Ngọng nghịu mà thâm như cái đó”

(Một Mình ) 

Đúng như tên gọi, tuy tập thơ đến mấy chục bài chữ là chữ Việt có, Tây có, Quảng Nam pha rề có, nhưng dường như chữ hơi bị chìm trong huyệt tuyết tinh mà trỗi lên chân khí huyền âm, tinh âm, âm hao, âm mao, âm sấm chẻ, hồn âm, nhú âm cuồng, âm thạch động, âm đáy vực, hoài âm hoài …. Nhưng trên hết, cao hết, anh đã sử dụng vô lượng sát na thần công hoà âm âm âm âm thành ảo âm đến mức “thơ dầm buốt nguyệt - tuyệt cùng như em tắt kinh”.
Tắt kinh để hoài thai những câu thơ ấm ớ cho vui  nhưng  đủ  lực ngạo thị đất trời  vùi sinh dập tử làu chùi mênh mông .
Thi thoảng anh có những câu thơ động rung buốt lạnh từ sống lưng những thằng thơ lưu lãng “Một tiếng đàn vô thanh…Sợ xác no hồn đói” (Độc tấu I )
Nguyễn Tôn Nhan rất thấu cảm thơ Vỵ khi cho rằng chỉ thấy tính linh phải  đâu là chữ. Chữ chỉ là xác“tinh âm chìm trong dây-Hoà âm ghìm trong tay - Nở ra hoa tinh khí….Một vệt dài sinh tử” (Hoà Âm Độc Huyền Cầm )
Phải có một cơ duyên nào đấy Nguyễn Lương Vỵ mới ngộ âm từ “hạt bụi réo sinh linh’’. Phải chăng từ một sợi lông của càn khôn tuý luý, anh làm thơ như ngẫu nhĩ trùng lai không vị bất cứ cái gì  mà là vị tất. Từ ngữ trong thơ anh cũ rích một cách vô cùng mới mẻ. Anh đi hồn nhiên trên lối mòn vần điệu của một gã tuý tiên hát âm thơ bằng giọng điệu quê nhà: xanh lè, sặc máuthương tưởng đến linh lung . Các bài Chân Dung, Lửa và Chữ, Hoà Âm Đại Hồ Cầm, Hoà Âm Cầm Dương Xanh, Bất Tuyệt, Nhân Đọc  Thuỷ Mộ Quan … theo tôi đã đủ độ “khạc hết máu tinh hoa-khạc hết máu tinh ma” trong  hồn âm  Nguyễn Lương Vỵ .
Tôi và Vỵ cùng một lứa bên trời lận đận trong nghề thợ đụng mưu   sinh trên đất Mỹ. May mà còn lại ít câu thơ để rồi đây Tý Ngọ  Mẹo Mùi xương tàn cốt rụi còn có cái để mà leo lét bay. Tôi cạn nghĩ chữ còn có thể mất chứ rốn âm rên rền tức tửi vẫn còn.
Houston TX, 11 Aug 2007
* chữ in nghiêng lấy từ trong thơ NLV