Ghi
|
Những con thú ăn mồi sống
Nhà văn Bắc Mỹ Paul Theroux,
tác giả The
Mosquito Coast, một cuốn tiểu thuyết thú vị, và nhiều cuốn sách
du lịch rất ăn
khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm sách ở Anh rao bán một số tác
phẩm của
ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ bút của tác giả, là những dòng đề
tặng
Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên, ông bèn viết thư cho nhà văn
Nobel, và
ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ ra đầu ngõ, vén váy, đi vài
đường bồm
bộp [nguyên văn, thay vì đích thân trả lời, Naipaul trao trách nhiệm
này cho bà
vợ mới, một ký giả Pakistani, “đần độn như là nhan sắc đẹp đẽ” của bà,
nhưng
cho dù đần độn, mớ chữ ít ỏi của bà cũng đủ để đi vài dòng chế nhạo].
Sự trả thù của ông Theroux mới khủng khiếp làm sao: Chẳng thua gì giáo
sư
Nguyễn Đăng Mạnh!
Llosa, tác giả bài viết The Predators
mà Gấu đang đi một đường giới thiệu độc
giả Tin Văn, khuyên độc giả chớ có mua cuốn sách vừa tai tiếng vừa rất
ư cụp
lạc, Sir Vidia’s Shadow: A Friendship across Five Continents [Cái
bóng
của Naipaul: Một tình bạn xuyên qua năm lục địa]. Bởi vì vừa đọc vài
dòng, là
bạn không thể nào rứt ra nổi!
Theroux, đệ tử, nhỏ hơn Naipaul chừng 10 tuổi, gặp sư phụ ba chục năm
trước đây
tại Keynia, Đại Học Makerere, nơi cả hai cùng làm việc. Đệ tử bị sư phụ
hớp
hồn, cả về tài năng lẫn nhân cách, vào lúc đó, Naipaul đã nổi như cồn
với những
tác phẩm như A Bend in the River, hay A House for Mr. Biswas. Theroux
trở thành
đệ tử, tài xế, và tà lọt, và để tưởng thưởng, Naipaul thỉnh thoảng cũng
đưa ra
vài ngón nghề, của một thiên tài văn chương, và, lâu lâu, giống như
quẳng cho
một người ăn xin vài đồng lẻ, Naipaul cũng lèm bèm cùng đệ tử, về quan
niệm của
ông về thế giới, về con người, về Phi Châu, về lịch sử.
Những bài học này thật bảnh, thật sáng chói, chắc hẳn, bởi vì đệ tử
ghim vào
ruột, chẳng bỏ qua một chi tiết nào, để rồi bao nhiêu năm sau, gậy ông
đập lưng
ông, đem ra xài, và [vẽ rắn] thêm chân cho chúng.
Đương nhiên là, những quan điểm của Naipaul, trong những lúc phởn phơ
như thế,
không thể nào in ra được. Lúc đó chưa có net, và, như trường hợp hồi ký
NDM,
không có một thằng phải gió nào, không hiểu sao vớ được, và hê ầm lên.
Gấu này
nghi, chính me-xừ NDM cố tình làm ra như vậy! Bởi vì một khi viết ra
được một
câu sướng đến phát điên lên, thí dụ, tả cảnh NDT run như cầy sấy trước
TH, như
con ếch nhìn thấy con cua, mà lại không công bố cho mọi người cùng
thưởng thức
sao?
Cũng thế, với Naipaul. Khi những nhà thơ trẻ Phi Châu tới đọc thơ cho
ông nghe
và xin ý kiến, ông phán, vứt ngay vô thùng rác cho ta! [Có thể Sến cô
nương đã
từng nghe chuyện này, và… mô phỏng chăng, khi phán về NDT?] Có khi ông
nức nở
khen, chữ ai viết mà đẹp thế! Khi được hỏi về giải thưởng thơ của
Hội Nhà
Văn Mít, ông nhỏ nhẹ khuyên, chỉ nên phát giải ba, giải nhất giải nhì
kể như
không có! Được hỏi về văn chương Phi châu, ông thuổng ngay câu của nhà
văn nhớn
ra đi từ Miền Bắc, Vũ Thư Hiên, khi ông này được hỏi về văn học hải
ngoại: “Này
có thứ đó thiệt hả”? [But does it exist?]
Naipaul chẳng hề hổ thẹn, khi phán về văn chương Phi châu, một khi đám
trắng bỏ
đi, nó sẽ trở về thời dã man. Và để chọc quê người bản xứ, ông gọi xứ
sở của họ
bằng những cái tên thời còn thực dân.
Llosa thú nhận, ông thừa sức viết vài cuốn sách như thế, về những văn
hữu của
ông, những người mà ông quen biết, bởi vì lúc này, lúc nọ, ông nghe
được cả lố
những điều khủng khiếp từ miệng của họ thốt ra, thường là vào đêm
khuya, khi
rượu vào lời ra, khi mầy tao chi tớ với nhau, và văng ra đủ thứ. Và gặp
một tay
có tài như Theroux [số một, trong số những nhà văn hạng nhì], bạn vô
tình đọc
phải, là không thể nào rứt ra được, chuyện đương nhiên: nhân vật Vidia
S.
Naipaul mà ông ta sáng tạo ra, ở trong cuốn sách của ông, thì cũng độc
địa chẳng
kém chi người kể chuyện, tức chính ngài Theroux, đích thị Ngài.
Bất cứ một cá nhân con người nào, thì cũng có lúc, hoặc thậm xưng, hoặc
cường
điệu, hoặc bốc phét, hoặc lỡ lời, đưa ra một nhận định cay nghiệt, dã
man, hoặc
một câu khôi hài đen, về một ai đó. Ông bạn của tôi [Llosa], Carlos
Barral, một
thiện nhân quân tử, một tay phong nhã có hạng, vậy mà chỉ chơi thêm một
ly gin thứ
nhì, là như ma quỉ được xổ lồng, xổ ra những lời quỉ ma nhất mà tôi
chưa từng
được nghe. Mặc dù độc giả đã được cảnh giác ngay từ đầu, đây là một
cuộc "Thanh
Toán tại OK Corral" giữa sư phụ và đệ tử, nhất là khi đệ tử bị chính
ông thầy,
là người mà mình tôn thờ, chơi mình, gặp thứ đệ tử số 1 trong những nhà
văn
hạng nhì, cỡ như tay NTV với thầy NVT chẳng hạn, làm sao mà trò tha
thầy cho được
cơ chứ! Có thể, trong khi mê mải kể xấu Thầy, trò đã rớt trúng cái bẫy
do mình
đặt ra, bị ma thuật, là cái trò kể chuyện đó hớp mất hồn vía, theo
kiểu, chúng
nhân thường mê hóng chuyện, buôn chuyện? Cũng có thể, nhưng nguyên uỷ ở
đây,
theo tôi, là, cuốn sách, dù muốn dù không, rớt vào loại ‘testament’, di
chúc,
giữa thầy và trò, đúng như NTV đã từng bật mí, bởi vì chỉ có ông mới
biết, thầy
của ông đã từng năn nỉ nhà nước mới như thế nào. Cũng vậy, ở đây trò
Theroux tự
cho mình có bổn phận phải bật mí tất cả những gì xấu xa đê tiện nhất
của sư phụ
Naipaul.
Khủng khiếp nhất, là, cuốn sách cho chúng ta thấy, không chỉ một
Theroux, mà
bất cứ ai trong chúng ta, nói chung, cả nhân loại đều có một lúc nào
đó, không
tránh khỏi bị sa đọa như vậy!
Đọc cuốn sách, Llosa bỗng nhớ đến một tiểu luận của Ortega, thật tuyệt
vời,
được viết như là một lời bạt cho một cuốn sách về săn bắn của bá tước
Yebes.
Thoạt đọc, thì tưởng như một thứ tạp ghi, một thứ áo thụng vái nhau,
dành cho
bạn, là một nhà quí tộc, nhưng đây đúng là một trầm tư trầm trọng về
một cái
hang động thời tiền sử nằm ở trong tim trong hồn con người hiện đại. Và
ở trong
cái hang động đó vẫn còn nguyên cái bản năng nguyên thuỷ, và cái ước
muốn, đòi
hỏi, cái nhu cầu không có không được: xé xác, ăn tươi nuốt sống con mồi.
Ortega xem xét những liên hệ của con người với Thiên nhiên, sự quyến rũ
u ám,
có từ thời cổ đại của cái chết, ở nơi con người, những từ ngữ, những
tiếng la
rú, của con người và loài vật khi chứng kiến hoặc kinh nghiệm sự hung
bạo. Đúng
như Huizingua nhìn thấy sự trình bầy mang tính biểu tượng, the symbolic
presentation, của tiến hoá lịch sử ở trong những trò chơi, Ortega,
trong bản
văn phức tạp, bí ẩn, nhìn ra những nhập thân khác nhau của trò săn bắn,
như
tổng số của phận người. Trong cuộc phát triển của con người, từ hang
tiền sử
tới nhà chọc trời, hình ảnh trung tâm là cuộc săn đuổi mang tính huỷ
diệt, máu
me, chết chóc, mà không một nền văn minh, tôn giáo, triết học nào giải
thoát
chúng ta ra khỏi. Con người cần giết, nó là một loài ăn sống nuốt tươi
con mồi.
Man needs to kill; he is a predatory being. Nó làm như vậy từ bao nhiêu
ngàn
năm, bởi vì đó là cách độc nhất để sống còn đối với nó, để có thịt mà
ăn, để
khỏi bị ăn thịt. Nó làm điều này kể từ khi có nó, hoặc tàn nhẫn, hoặc
nhẩn nha,
thanh lịch, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua uỷ quyền, bằng dao, bằng
súng,
bằng những nghi lễ, bằng những biểu tượng; nếu nó không làm, thì sẽ bị
nghẹt
thở, giống như một con cá bị lấy ra khỏi nước. Chính vì vậy mà hình ảnh
một con
thú hai chân, đi giầy bốt, mặc áo da thú, cầm khẩu súng lắp đạn, nhắm
vào con
một nai vàng ngơ ngác dạo trên lá vàng khô, (mà một số người coi là một
bức
tranh dũng cảm hào hiệp, ‘gallant’), gây gai gai nơi mấy đầu ngón tay,
như là
một hình ảnh ám ảnh, nhức nhối về phận người.
Văn chương là một nghệ thuật ‘thề phanh thây uống máu quân thù’, thề ăn
sống
nuốt tươi địch thủ. Literature is a predatory art.
Bạn đọc dư sức tưởng tượng ra được, nỗi hả hê của NDM, sau khi viết
xong câu
văn, tả cảnh ông ta đích mắt chứng kiến con mồi NDT run như cầy sấy,
trước con
vật ăn mồi sống, là TH!
Văn chương là một thứ nghệ thuật xé xác, ăn sống nuốt tươi con mồi. Nó
huỷ diệt
cõi thực với những biểu tượng, xây dựng một thế giới giả, a mock world,
và mang
nó vào cuộc đời giả, fictitious life, với sự kỳ quái, fantasy, và những
chữ,
một kỷ xảo được xây dựng bằng những vật liệu chôm chĩa từ đời sống.
Nhưng tiến
trình xây dựng thường kín đáo, thường xuyên vô thức, kể từ khi nhà văn
chôm
chĩa – và nhào nặn, làm biến dạng, cái gì đã được sống, cái gì là thực,
what is
lived and what is real, bằng bản năng, và bằng trực giác nhiều hơn là
bằng sự
vô tư thoải mái, luôn luôn ý thức đuợc cái việc mà mình đang chôm chĩa
đó, và
sau đó, nghệ thuật, ma thuật, trò khéo tay về ngôn từ của anh ta phủ
một tấm
màn không thể nào lọt qua được, lên những gì đã được chôm chĩa từ đời
sống. Và
nếu anh ta có tài, tội ác của anh ta không bị phát hiện.
Trong trường hợp cuốn sách của Theroux, không phải như vậy. Tác giả
chẳng hề cố
gắng giấu diếm hay biện minh: Ông ta có một cú cần phải thanh toán với
một
người bạn cũ, một người mà ông rất kính mến. Người này đã chơi ông một
cú thật
đau. Vì vậy, ông giết ông ta, viết một cuốn sách đáp lễ, thật dữ dằn,
miếng đất
ném đi, hòn chì ném lại là vậy.
May mắn thay, những người bị giết kiểu này, thì thường sống sót, và
mạnh khoẻ.
Tôi, Llosa, hy vọng, ông Naipaul sống sót liều độc dược. Ông ta là nhà
văn bảnh
nhất hiện đang còn sống của dòng văn chương viết bằng tiếng Anh, một
trong
những nhà văn vĩ đại mà thời đại chúng ta đã sản xuất ra được. Trong
những tiểu
thuyết, tiểu luận, sách du lịch, hồi ký được xuất bản trên toàn thế
giới, độc
giả thưởng thức một thứ văn xuôi cực kỳ chính xác và thông minh, tác
giả sẵn
sàng gạt bỏ không tiếc thương những chi tiết rườm rà, vô bổ. Tính châm
biếm của
chúng thì thực là tế nhị, đôi khi đểu giả, cay độc, thường xuyên làm
toé máu,
và từ đó, sự thực lộ ra, những sự thực phản bác hay chọc quê những ý
nghĩ, tư
tuởng đã được đóng hộp của thời đại chúng ta. Không ai đập phá tan tành
những
ngụy biện, những dối trá của trò ngoan đạo của Thế Giới Thứ Ba, không
ai phạng
một cách chi li, tới nơi tới chốn, và thật là diệu vợi, thái độ khệnh
khạng,
tầm phào, lãng nhách của đám trí thức hãnh tiến Ấu Châu, như Naipaul đã
làm,
trong những cuốn tiểu thuyết của ông, hay là với một sức mạnh trí thức,
mà ông
đem lại cho những bài tiểu luận của mình, hay chứng minh một cách đầy
dẫn dụ
tính ma mị, xảo quyệt, và tính cơ hội thường được ẩn giấu ở bên dưới
những lý
thuyết hay những thái độ như vậy. Chính vì thế mà ông muốn trở thành
hơi bị
ghét một cách phổ cập, đại chúng, that is why he tends to be
universally
detested, mặc dù bất cứ một nhà phê bình cũng phải cúi chào tài năng
của ông.
GCC's
Novel
Những con
thú ăn mồi sống
Nhà văn Bắc
Mỹ Paul Theroux, tác giả “The Mosquito Coast”, một cuốn tiểu thuyết thú
vị, và
nhiều cuốn sách du lịch rất ăn khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm
sách ở
Anh rao bán một số tác phẩm của ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ
bút của
tác giả, là những dòng đề tặng Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên,
ông bèn
viết thư cho nhà văn Nobel, và ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ
ra đầu
ngõ, vén váy, đi vài đường bồm bộp [nguyên văn, thay vì đích thân trả
lời, Naipaul
trao trách nhiệm này cho bà vợ mới, một ký giả Pakistani, “đần độn như
là nhan
sắc đẹp đẽ” của bà, nhưng cho dù đần độn, mớ chữ ít ỏi của bà cũng đủ
để đi vài
dòng chế nhạo.
Sự trả thù của
ông Theroux mới khủng khiếp làm sao: Chẳng thua gì giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh!
[Ông
này cũng đem sách văn hữu tặng, bán ve chai, lấy tí tiền còm!]
Llosa, tác
giả bài viết “The Predators” mà Gấu đang đi một đường giới thiệu độc
giả Tin
Văn, khuyên độc giả chớ có mua cuốn sách vừa tai tiếng vừa rất ư cụp
lạc, “Sir
Vidia’s Shadow: A Friendship across Five
Continents” [Cái bóng của Naipaul: Một tình bạn xuyên qua năm lục địa].
Bởi vì
vừa đọc vài dòng, là bạn không thể nào rứt ra nổi!
Theroux, đệ
tử, nhỏ hơn Naipaul chừng 10 tuổi, gặp sư phụ ba chục năm trước đây tại
Keynia,
Đại Học Makerere, nơi cả hai cùng làm việc. Đệ tử bị sư phụ hớp hồn, cả
về tài
năng lẫn nhân cách, vào lúc đó, Naipaul đã nổi như cồn với những tác
phẩm như A
Bend in the River, hay A House for Mr. Biswas. Theroux trở thành đệ tử,
tài xế,
và tà lọt, và để tưởng thưởng, Naipaul thỉnh thoảng cũng đưa ra vài
ngón nghề,
của một thiên tài văn chương, và, lâu lâu, giống như quẳng cho một
người ăn xin
vài đồng lẻ, Naipaul cũng lèm bèm cùng đệ tử, về quan niệm của ông về
thế giới,
về con người, về Phi Châu, về lịch sử.
Những bài học
này thật bảnh, thật sáng chói, chắc hẳn, bởi vì đệ tử ghim vào ruột,
chẳng bỏ
qua một chi tiết nào, để rồi bao nhiêu năm sau, gậy ông đập lưng ông,
đem ra
xài, và [vẽ rắn] thêm chân cho chúng.
Đương nhiên
là, những quan điểm của Naipaul, trong những lúc phởn phơ như thế,
không thể
nào in ra được. Lúc đó chưa có net, và, như trường hợp hồi ký Nguyễn
Đăng Mạnh,
không có một thằng phải gió nào, không hiểu sao vớ được, và “hê” ầm
lên. Gấu nghi,
chính me-xừ Nguyễn Đăng Mạnh cố tình làm ra như vậy! Bởi vì một khi
viết ra được
một câu sướng đến phát điên lên, thí dụ, tả cảnh Nguyễn Đình Thi run
như cầy sấy
trước Tố Hữu, như con ếch nhìn thấy con cua, mà lại không công bố cho
mọi người
cùng thưởng thức sao?
Cũng thế, với
Naipaul. Khi những nhà thơ trẻ Phi Châu tới đọc thơ cho ông nghe và xin
ý kiến,
ông phán, vứt ngay vô thùng rác cho ta! [Có thể Sến cô nương đã từng
nghe chuyện
này, và… mô phỏng chăng, khi phán về nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, khi
anh gửi tác
phẩm, “Tiếng Nói”, dịch Linda Lê, xin ý kiến bà chị, không ngửi
được!(1)]
Có khi
ông nức nở khen, chữ ai viết mà đẹp thế! Khi
được hỏi về giải thưởng thơ của Hội Nhà Văn Mít, ông nhỏ nhẹ khuyên,
chỉ nên phát giải ba, giải nhất giải nhì kể như không có! Được hỏi về
văn
chương Phi châu, ông thuổng ngay câu của nhà văn nhớn ra đi từ Miền
Bắc, Vũ Thư
Hiên, khi ông này được hỏi về văn học hải ngoại: “Này có thứ đó thiệt
hả”? [But
does it exist?]
Naipaul chẳng
hề hổ thẹn, khi phán về văn chương Phi châu, một khi đám trắng bỏ đi,
nó sẽ trở
về thời dã man. Và để chọc quê người bản xứ, ông gọi xứ sở của họ bằng
những
cái tên thời còn thực dân.
Llosa thú nhận,
ông thừa sức viết vài cuốn sách như thế, về những văn hữu của ông,
những người
mà ông quen biết, bởi vì lúc này, lúc nọ, ông nghe được cả lố những
điều khủng
khiếp từ miệng của họ thốt ra, thường là vào đêm khuya, khi rượu vào
lời ra,
khi mầy tao chi tớ với nhau, và văng ra đủ thứ. Và gặp một tay có tài
như
Theroux [số một, trong số những nhà văn hạng nhì], bạn vô tình đọc
phải, là
không thể nào rứt ra được, chuyện đương nhiên: nhân vật Vidia S.
Naipaul mà ông
ta sáng tạo ra, ở trong cuốn sách của ông, thì cũng độc địa chẳng kém
chi người
kể chuyện, tức chính ngài Theroux, đích thị Ngài.
Bất cứ một
cá nhân con người nào, thì cũng có lúc, hoặc thậm xưng, hoặc cường
điệu, hoặc bốc
phét, hoặc lỡ lời, đưa ra một nhận định cay nghiệt, dã man, hoặc một
câu khôi
hài đen, về một ai đó. Ông bạn của tôi [Llosa], Carlos Barral, một
thiện nhân
quân tử, một tay phong nhã có hạng, vậy mà chỉ chơi thêm một ly gin thứ
nhì, là
như ma quỉ được xổ lồng, xổ ra những lời quỉ ma nhất mà tôi chưa từng
được
nghe. Mặc dù độc giả đã được cảnh giác ngay từ đầu, đây là một cuộc
"Thanh
Toán tại OK Corral" giữa sư phụ và đệ tử, nhất là khi đệ tử bị chính
ông
thầy, là người mà mình tôn thờ, chơi mình, gặp thứ đệ tử số 1 trong
những nhà
văn hạng nhì, cỡ như tay Nguyễn Trọng Văn, với thầy Nguyễn Văn Trung,
chẳng hạn,
làm sao mà trò tha thầy cho được cơ chứ! Có thể, trong khi mê mải kể
xấu Thầy,
trò đã rớt trúng cái bẫy do mình đặt ra, bị ma thuật, là cái trò kể
chuyện đó hớp
mất hồn vía, theo kiểu, chúng nhân thường mê “hóng chuyện”, “buôn
chuyện”? Cũng
có thể, nhưng nguyên uỷ ở đây, theo tôi, là, cuốn sách, dù muốn dù
không, rớt
vào loại ‘testament’, di chúc, giữa thầy và trò, đúng như Nguyễn Trọng
Văn đã từng
bật mí, bởi vì chỉ có ông mới biết, thầy của ông đã từng năn nỉ nhà
nước mới
như thế nào. Cũng vậy, ở đây trò Theroux tự cho mình có bổn phận phải
bật mí tất
cả những gì xấu xa đê tiện nhất của sư phụ Naipaul.
Khủng khiếp
nhất, là, cuốn sách cho chúng ta thấy, không chỉ một Theroux, mà bất cứ
ai
trong chúng ta, nói chung, cả nhân loại đều có một lúc nào đó, không
tránh khỏi
bị sa đọa như vậy!
Đọc cuốn
sách, Llosa bỗng nhớ đến một tiểu luận của Ortega, thật tuyệt vời, được
viết
như là một lời bạt cho một cuốn sách về săn bắn của bá tước Yebes.
Thoạt đọc,
thì tưởng như một thứ tạp ghi, một thứ áo thụng vái nhau, dành cho bạn,
là một
nhà quí tộc, nhưng đây đúng là một trầm tư trầm trọng về một cái hang
động thời
tiền sử nằm ở trong tim trong hồn con người hiện đại. Và ở trong cái
hang động
đó vẫn còn nguyên cái bản năng nguyên thuỷ, và cái ước muốn, đòi hỏi,
cái nhu cầu
không có không được: xé xác, ăn tươi nuốt sống con mồi.
Ortega xem
xét những liên hệ của con người với Thiên nhiên, sự quyến rũ u ám, có
từ thời cổ
đại của cái chết, ở nơi con người, những từ ngữ, những tiếng la rú, của
con người
và loài vật khi chứng kiến hoặc kinh nghiệm sự hung bạo. Đúng như
Huizingua
nhìn thấy sự trình bầy mang tính biểu tượng, the symbolic presentation,
của tiến
hoá lịch sử ở trong những trò chơi, Ortega, trong bản văn phức tạp, bí
ẩn, nhìn
ra những nhập thân khác nhau của trò săn bắn, như tổng số của phận
người. Trong
cuộc phát triển của con người, từ hang tiền sử tới nhà chọc trời, hình
ảnh
trung tâm là cuộc săn đuổi mang tính huỷ diệt, máu me, chết chóc, mà
không một
nền văn minh, tôn giáo, triết học nào giải thoát chúng ta ra khỏi. Con
người cần
giết, nó là một loài ăn sống nuốt tươi con mồi. Man needs to kill; he
is a
predatory being. Nó làm như vậy từ bao nhiêu ngàn năm, bởi vì đó là
cách độc nhất
để sống còn đối với nó, để có thịt mà ăn, để khỏi bị ăn thịt. Nó làm
điều này kể
từ khi có nó, hoặc tàn nhẫn, hoặc nhẩn nha, thanh lịch, hoặc trực tiếp
hoặc
gián tiếp qua uỷ quyền, bằng dao, bằng súng, bằng những nghi lễ, bằng
những biểu
tượng; nếu nó không làm, thì sẽ bị nghẹt thở, giống như một con cá bị
lấy ra khỏi
nước. Chính vì vậy mà hình ảnh một con thú hai chân, đi giầy bốt, mặc
áo da
thú, cầm khẩu súng lắp đạn, nhắm vào con một nai vàng ngơ ngác dạo trên
lá vàng
khô, (mà một số người coi là một bức tranh dũng cảm hào hiệp,
‘gallant’), gây
gai gai nơi mấy đầu ngón tay, như là một hình ảnh ám ảnh, nhức nhối về
phận người.
Văn chương
là một nghệ thuật ‘thề phanh thây uống máu quân thù’, thề ăn sống nuốt
tươi địch
thủ. Literature is a predatory art.
Bạn đọc dư sức
tưởng tượng ra được, nỗi hả hê của Nguyễn Đăng Mạnh sau khi viết xong
câu văn,
tả cảnh ông ta đích mắt chứng kiến con mồi Nguyễn Đình Thi run như cầy
sấy, trước
con vật ăn mồi sống, là Tố Hữu!
Văn chương
là một thứ nghệ thuật xé xác, ăn sống nuốt tươi con mồi. Nó huỷ diệt
cõi thực với
những biểu tượng, xây dựng một thế giới giả, a mock world, và mang nó
vào cuộc
đời giả, fictitious life, với sự kỳ quái, fantasy, và những chữ, một kỷ
xảo được
xây dựng bằng những vật liệu chôm chĩa từ đời sống. Nhưng tiến trình
xây dựng
thường kín đáo, thường xuyên vô thức, kể từ khi nhà văn chôm chĩa – và
nhào nặn,
làm biến dạng, cái gì đã được sống, cái gì là thực, what is lived and
what is
real, bằng bản năng, và bằng trực giác nhiều hơn là bằng sự vô tư thoải
mái,
luôn luôn ý thức đuợc cái việc mà mình đang chôm chĩa đó, và sau đó,
nghệ thuật,
ma thuật, trò khéo tay về ngôn từ của anh ta phủ một tấm màn không thể
nào lọt
qua được, lên những gì đã được chôm chĩa từ đời sống. Và nếu anh ta có
tài, tội
ác của anh ta không bị phát hiện.
Trong trường
hợp cuốn sách của Theroux, không phải như vậy. Tác giả chẳng hề cố gắng
giấu diếm
hay biện minh: Ông ta có một cú cần phải thanh toán với một người bạn
cũ, một
người mà ông rất kính mến. Người này đã chơi ông một cú thật đau. Vì
vậy, ông
giết ông ta, viết một cuốn sách đáp lễ, thật dữ dằn, miếng đất ném đi,
hòn chì
ném lại là vậy.
May mắn
thay, những người bị giết kiểu này, thì thường sống sót, và mạnh khoẻ.
Tôi,
Llosa, hy vọng, ông Naipaul sống sót liều độc dược. Ông ta là nhà văn
bảnh nhất
hiện đang còn sống của dòng văn chương viết bằng tiếng Anh, một trong
những nhà
văn vĩ đại mà thời đại chúng ta đã sản xuất ra được. Trong những tiểu
thuyết,
tiểu luận, sách du lịch, hồi ký được xuất bản trên toàn thế giới, độc
giả thưởng
thức một thứ văn xuôi cực kỳ chính xác và thông minh, tác giả sẵn sàng
gạt bỏ
không tiếc thương những chi tiết rườm rà, vô bổ. Tính châm biếm của
chúng thì
thực là tế nhị, đôi khi đểu giả, cay độc, thường xuyên làm toé máu, và
từ đó, sự
thực lộ ra, những sự thực phản bác hay chọc quê những ý nghĩ, tư tuởng
đã được
đóng hộp của thời đại chúng ta. Không ai đập phá tan tành những ngụy
biện, những
dối trá của trò ngoan đạo của Thế Giới Thứ Ba, không ai phạng một cách
chi li,
tới nơi tới chốn, và thật là diệu vợi, thái độ khệnh khạng, tầm phào,
lãng
nhách của đám trí thức hãnh tiến Ấu Châu, như Naipaul đã làm, trong
những cuốn
tiểu thuyết của ông, hay là với một sức mạnh trí thức, mà ông đem lại
cho những
bài tiểu luận của mình, hay chứng minh một cách đầy dẫn dụ tính ma mị,
xảo quyệt,
và tính cơ hội thường được ẩn giấu ở bên dưới những lý thuyết hay những
thái độ
như vậy. Chính vì thế mà ông muốn trở thành hơi bị ghét một cách phổ
cập, đại
chúng, that is why he tends to be universally detested, mặc dù bất cứ
một nhà
phê bình cũng phải cúi chào tài năng của ông.
Note: Bài viết
này, được 1 bạn văn đăng lại, trên
blog của anh, thành thử Gấu phải “bạch hóa” mấy cái tên viết tắt, cho
dễ hiểu,
và nhân tiện, đi thêm 1 đường về Naipaul.
Ông này cũng thuộc thứ cực độc,
nhưng quả là 1 đại sư phụ. TV sẽ đi bài của Bolano viết về ông, đã giới
thiệu
trên TV, nhưng chưa có bản dịch.
Bài viết này, theo GCC, đến lượt nó, qua khứu
giác của Bolano, làm bật ra con thú
ăn thịt người nằm sâu trong 1 tên…. Bắc Kít!
Hà, hà! (2)
*
(1)
Tôi thử đọc,
khó vào quá, chắc chắn không phải vì LL, mà vì bản dịch…
Vừa đọc vào
đã gặp những câu, từ khó chấp nhận. Không phải vì chúng Tây, mà vì
chúng thiếu
tự nhiên và sinh động, không toát lên một giọng riêng, một mầu sắc, một
mùi vị
gì đáng để ý. Còn nếu đó là dụng ý của người dịch hòng trung thành với
văn bản
thì lại thiếu triệt để, chưa đủ cách điệu. Chúng đơn giản là văn dịch,
văn nhân
tạo.
(2)
hà, hà
Saturday,
September 20, 2014 1:03 PM
Đọc TV, tôi
ghét nhất là mấy chữ “hà, hà” của Bác.
Tôi thường giật mình nhìn trước nhìn sau
xem làm sao mà Bác có thể bắt việt vị tôi đang tủm tỉm cười thú vị.
Cảm ơn Bác
Kính chúc sức
khoẻ bình an
NTP
Đa tạ.
Thương hiệu
của Gấu là hai tiếng đó!
Best regards
NQT
|
|