*




*



Witness of Poetry

Vermeer

by Wislawa Szymborska,
translated from the Polish by Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh.

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.



Günter Grass writes final autobiography
German Nobel laureate says new book, a paean to the Brothers Grimm,
 will 'mark the end of my autobiographical writings'

'The last harvest is on the stalk.'


Apologia
Simple remorse is barely worth the trouble.
by Jeffrey Frank

Note: VC đếch chịu ‘sorry’, có thể là do như vậy?


16.8.2010
Happy Birthday Ong!




Kỷ niệm, kỷ niệm

Có lần ngồi nói chuyện văn chương với Già, ông nói bây giờ người ta đọc nhiều nhưng không đọc kỹ… Bạn thấy nhột ran, thấy trong hai chữ "người ta" đó có mình. Những lần Già nhắc tới cuốn sách nào đó bạn hớn hở kêu đọc rồi, nhưng nhắc một đoạn trong đó thì bạn không nhớ. Những lần bạn ngắc ngứ không gọi được tên một nhân vật.  Những lần bạn quên tên tác giả hoặc nhớ tác giả thì quên tên sách. Những lần bạn khen cuốn sách X đó hay những hay làm sao thì bạn không diễn tả được. Giống như lướt đi trên những mối tình hờ hững, đã từng yêu nhưng có lẽ thiếu đậm sâu, đến nỗi chả nhớ nốt ruồi cô ấy nằm ở đâu.
Nguyễn Ngọc Tư:
Chậm từng giọt chữ…

Bình Nguyên Lộc có một truyện ngắn thật tuyệt vời về 'nốt ruồi của cô ấy nằm ở đâu'. Đọc khi mới lớn, xưa quá rồi Diễm ơi, thành thử không làm sao nhớ cặn kẽ từng chi tiết. Đại khái, đây là câu chuyện một anh chàng sinh viên trường thuốc, nhận ra người tình yêu thầm nhớ trộm của anh, ở trong nhà xác, nhờ một nốt ruồi, trong giờ học thực tập về cơ thể học.
Anh mân mê nốt rồi, và mơ mòng nhớ lại 'những ngày câm' của mình!

Lạ, là Gấu, có vẻ như bị câu chuyện ‘ám’, nên sau này, gặp đúng hoàn cảnh trớ trêu, ở trong một giấc mộng!
Nhờ đó, Gấu phịa ra được một lý thuyết văn học, [ôi chao, lại nhớ đến 'thuyết kỳ kỳ' của Thầy Cuốc!], theo đó, nếu bạn đọc một cái chi mà quá mê nó, thì nó sẽ biến thành hiện thực, hoặc nó sẽ tác quái, nhắm vào bạn!
Trong giấc mộng, Gấu gặp, không phải nốt rồi, mà là vết sẹo ở nơi tay cô bạn.
Gấu đã kể câu chuyện này rồi, nay không dám nhắc lại vì sợ Gấu Cái giận!

Gấu Cái có lần nhận xét, trong tất cả những đứa con gái thương mi, đứa nào cũng có tí ti khùng, chỉ có ta là khùng nặng, vì đã lấy mi!
Ui chao, tuyệt!
*

Gấu thực sự không tin nhà văn Mít đọc nhiều, và lại càng thực sự không tin, họ đọc kỹ.
Và chúng ta có thể lập lại câu trên, với giới phê bình Mít: Có thể có một nhà phê bình Mít đọc nhiều, nhưng không phải để làm phê bình gia, mà làm cớm văn nghệ!
Chứng cớ, hai ông, một trong, một ngoài, là NH, và HNT.

Kim Dung tạo ra nhân vật Kiều Phong, uống rượu tới đâu, võ công cao tới đó, đòn đánh ra ác liệt cỡ đó.
Gấu tin rằng, khi ông phịa ra KP, trong đầu ông có hình ảnh một nhà văn, vì cái sự đọc đối với nhà văn, y hệt rượu đối với Kiều Phong.

Chỉ một ông Yann Martel không thôi, qua những lá thư gửi cho thủ trưởng của ông Gấu đang nhẩn nha đọc, cho thấy, cái đọc của ông mới uyên bác làm sao. Và trong cái sự uyên bác đó, có cái phần của riêng ông. Nói rõ hơn, khi ông viết về bất cứ một tác giả nào, là có cái phần nhận xét, có cái sự đọc của riêng ông, đối với tác giả đó, chứ không phải, như một con vẹt, ông sao y bổn chánh, những điều đã có người viết về họ.
Trong những bài essays của Pamuk, về Dos, về Camus, là những phát giác của riêng ông, về họ, và chúng làm bật ra một điều thật quan trọng: Đây là cái nhìn của một Đông Phương, là ông, một người Thổ Nhĩ Kỳ, về Dos, về Camus, về Tây Phương, và hệ quả của chúng mới thật càng quan trọng: Chúng là những lời tiên tri, cảnh báo Tây Phương, sau cú 911.
Một vị độc giả, còn là nhà văn, nhận xét về Gấu, nhân đọc bài viết về Nguyễn Tuân: NQT viết về bất cứ ai, là viết về NQT, và một vị độc giả khác, đọc những dòng trên, vội vàng cảnh báo Gấu, này đừng hoang tưởng về mình!
Sai!
Trong bài viết về Nguyễn Tuân, Gấu có viết như thế này:

“Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt....”.

Từ 'những giọt nước đánh dấu con đường từ giếng trời về trần gian' của Nguyễn Tuân, tới 'những hòn đất ném theo ném theo mãi xuống lòng huyệt': Cái sự nói về NQT ở đây, là nói về nỗi đau thương của biết bao nhiêu con người Miền Nam đã từng đi lượm xác em, xác anh, xác chồng… trong cuộc chiến vừa qua!
Hoang tưởng cái con khỉ!

Đọc, là đừng có thiên kiến, đừng có hận thù, đừng có ghen tuông, đố kỵ. Gấu ‘cảnh báo’ ‘một số độc giả TV’, ‘đa số thực sự là băng đảng Hậu Vệ’!
Đa số những cái mail Gấu nhận được từ họ, đều được viết trong nông nổi. Chưa kịp 'đọc nhiều, đọc kỹ', bài viết trên TV là đã hăm hở chửi!
Với bất cứ nhà văn, bắt buộc phải có cái phần 'hoang tưởng' trên, khi đọc bất cứ một tác phẩm của thiên hạ.



Len Deighton: Thi sĩ của truyện điệp viên

(1) HNT: Hội Nhà Thổ; không phải HNT, nick HN, nick NTH.


Vụ Án

Tình yêu trong tác phẩm Phạm Thị Hoài
Nhà văn Phạm Thị Hoài, giống như Nguyễn Huy Thiệp, cũng nhìn vấn đề tình yêu với một cặp mắt đầy ngờ vực.
NHQ Blog VOA

Đọc Sến Cô Nương như thế này, thì thật khó mà suy ra rằng, Thầy Cuốc 'rất chịu' bà chị của ông!

Cách đọc NHT và PTH của Thầy Cuốc, vẫn luẩn quẩn ở trong vòng ‘hiện tượng’, chưa nhìn ra đâu là bản chất của hiện tượng, nhìn cây thấy cây, chẳng thấy rừng, là vậy.
Cả hai ông/bà này, khi mô tả tình yêu Bắc Kít nhếch nhác, thảm hại như thế, trước hết, và trên tất cả, là để chửi bố thứ tình yêu ‘ở hai đầu nỗi nhớ’, thứ tình cảm lãng mạn cách mạng ‘cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn’, ‘đường ra trận mùa này đẹp lắm’:
Thay vì mô tả cái đẹp khốn kiếp của tình yêu cách mạng này, thì chọn thứ tình yêu nhếch nhác thảm hại kia, với cái mặt nổi của nó, là đốp chát, là chua như kít mèo, là kết án, tất cả chỉ là sến!

Nếu tất cả chỉ là sến, thì thứ tình yêu đích thực, theo kiểu ‘thánh nữ' của GNV, thứ tình khùng, "Anh yêu em bởi vì anh yêu Hà Lội", thí dụ, nó ở đâu, nó.. có không, ở cái xứ Bắc Kít?
*
“Ngờ vực” cũng không đúng! (1)

Cái từ 'vấn đề' trước 'tình yêu', cũng có vấn đề!
Có vẻ như Thầy Cuốc không rành tiếng Mít!
Bạn thân của Thầy, thì lầm 'gục ngã' với 'vấp ngã'!

Bất giác Gấu lại nhớ tới những ngày mới ra ngoài này, nghe một em Mít xuớng ngôn viên tường thuật một cuộc họp mặt, hay gặp gỡ trong cộng đồng Mít, tại một thành phố địa phương, ‘có sự tham dự của rất nhiều nhân vật tai tiếng Mít’ [em nhầm 'tăm tiếng' với 'tai tiếng'!]
Chán quá!
[Nhưng biết đâu đấy, em dùng đúng từ, chính Gấu mới 'bé cái lầm'?]

(1)
Đúng ra phải viết, NHT và PTH nhìn tình yêu với cặp mắt ngờ vực.
Nhưng nếu viết như vậy, tuy đúng văn phạm, thì lại sai về nhận định, vì cả hai không ngờ vực tình yêu, mà chỉ biết, chỉ mô tả thứ tình yêu nhếch nhác, tha hóa.

Theo như mô tả của Thầy Cuốc, cả hai đâu biết gì, về một thứ tình yêu nào khác, để mà… ‘ngờ vực’?


Vermeer

by Wislawa Szymborska,
translated from the Polish by Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh.

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.


Trong cái "nghiệp" phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người. Riêng trường hợp ông bạn, tôi quên, nhưng rất nhiều lần tôi nhớ. Có khi vừa nhớ, vừa cầu mong, hy vọng rằng bài phê bình của mình có thể có ích nào đó. Ngay cả trường hợp ông bạn, tôi cứ tự hào một cách thật tếu là, biết đâu, nhờ lời nói "khích" của tôi, ông đã để lại cho đời hai đại tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo Tiền Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho Huỳnh Phan Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ, cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một tuyển tập truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với các nhà xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một bữa ăn linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi tới Vào Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm tắt nội dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng khiếp! (Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.

Chưa hết, người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp". Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà trả lời sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà, một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng. Một ấn bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây Nguyễn Thị Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất..
.
Một chuyến đi

‘Ô nhục’, đúng là bài điểm cuốn ‘Vào nơi gió cát’, của Nguyễn Thị Hoàng.
Về già, nghĩ lại, G tự hỏi, tại sao mi lại cư xử như vậy, và bỗng lại nhớ đến ông anh nhà thơ, và giọng cười sảng khoái của ông, khi cho đăng bài điểm sách, lấy ngay cái từ 'khủng khiếp' làm cái tít cho bài điểm, ông còn gật gù, 'tớ' chắc phải bắt chước 'cậu', ý ông muốn nói, mời ăn OK, nhưng viết thì cứ viết theo đúng cái 'tâm' của mình!

CTTNT chắc là tự truyện, thuật câu chuyện NTH tất tả ngược xuôi, vừa lo thăm nuôi chồng, nơi quân lao, tội trốn lính, vừa lo cứu chồng ra khỏi địa ngục lao công chiến trường, chủ yếu là vác đạn, tải đạn, dành cho đào binh. Vất vả ngược xuôi như thế, nhưng không quên Huế. Gấu vẫn thấy thoang thoảng, loáng thoáng đâu đó, mỗi lần đọc, hoặc nghe ai đó, nhắc tới Huế, những trang viết dành cho Huế, cho thời con gái, cho thời đi học của bà, chúng thật đẹp, như để cân bằng, và hơn thế nữa, để ‘thách đố’ những trang ‘đen thui’ viết về cuộc chiến, và nhớ mãi cái cảnh, khi cứu thoát chồng ra khỏi ngục thất, buổi tối đầu tiên ‘về nhà’, bà vợ biểu chồng, anh thắp nhang bàn thờ tạ ơn trời phật, ông bà đi.

*

Nói tới văn học Việt Nam thế kỷ XX, tôi cho rằng không thể bỏ được văn học Sài Gòn trước năm 1975. Tại sao? Tôi tự giải thích cho tôi thế này. Sau 100 năm, muốn hiểu người Việt ở thế kỷ XX, nếu chỉ đọc miền Bắc thì không đủ. Theo tôi cần nghiên cứu thêm cho thấu đáo cả văn học miền Nam, đọc lại Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật Nam...

Nhớ tới thế kỷ XX không phải chỉ thấy chiến công, mà còn để thấy những đau đớn của con người, lầm lạc của con người, vất vả làm người của con người, đọc để hiểu con người Việt Nam thế kỷ XX vui buồn sướng khổ như thế nào.

Văn học miền Nam trước 1975 còn mãi và có giá trị của nó. Ấy là không kể, bạn có biết không, nhìn vào văn học cả nước hôm nay, thấy có nhiều vấn đề ta đang rất bí mà văn học miền Nam trước 1975 đã đặt ra, như vấn đề văn hóa đại chúng, vấn đề ca ngợi một cách vô lối bạo lực và tính dục...
VTN: Một cách tồn tại ngược chiều gió thổi (1)

Viết như thế, thì cũng chưa đủ, chưa đi tới tận cùng, tới ‘trái tim của bóng đen’!

Bởi vì, ai ai cũng nhận ra một điều thật là hiển nhiên, tất cả những băng hoại đạo đức, tình cảm, những tội ác chưa từng xẩy ra, đều chỉ xảy ra sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Trước đó, chưa hề xẩy ra, ở cả hai miền.

Bởi vì công nhận văn chương Miền Nam, thì cũng chẳng hết ‘ô nhục’, chẳng ‘rửa nhục’ gì cho những nhà văn như THT, khi ông, có vẻ như, coi 'ô nhục' như là một cách vinh danh những người lính VNCH trong có ông!
(1)

Cái tít như thừa một chữ, và làm Gấu nhớ tới câu của Arendt vinh danh Benjamin, tay này đếch chịu học bơi, theo chiều, hoặc ngược chiều dòng nước.

Gấu này đã từng phán, lịch sử dựng nước Mít ta có một nếp gấp: Kể từ khi có Đàng Trong, thì Đàng Ngoài, trước đó, chỉ lo giặc phương Bắc, bắt đầu nhìn về phương Nam, với cặp mắt thèm thuồng!
Sau biến cố 30 Tháng Tư, xuất hiện nếp gấp thứ nhì, báo hiệu sự diệt vong của giống Mít!
Giả như vưỡn còn, thì cái giống dân này cũng chẳng còn gì để mà tự hào!
Nếu có chăng, thì cũng ‘cẩm’ như Do Thái, giống dân kiêu ngạo tự coi được Thượng Đế chọn, chosen people, để Đức Quốc Xã làm lễ Tế Thiêu!
Mít bảnh hơn, chúng tự chọn để được chính thằng anh ruột của chúng đưa vô Lò Cải Tạo!

Tây đặc một thời.

BONJOUR TRISTESSE BY FRANCOISE SAGAN

After the grim work of the Second World War and the hard work of the post-war reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the French literary scene like a carnival. It announced what seemed like a new species, youth, la jeunesse, who had but one message: have fun with us or be gone; stay up all night at a jazz club or never come out with us again; don't talk to us about marriage and other boring conventions; let's smoke and be idle instead; forget the future who's the new lover? As for the tristesse of the title, it was an excuse for a really good pout.
YANN MARTEL

Sau một ‘cần lao’ khốc liệt thời Đệ Nhị Chiến và một ‘cần lao’ cật lực tái xây dựng thời hậu chiến, Buồn Ơi Chào Mi nổ ra như một trái bom trên nền trời văn học Pháp và cùng với nó, là một ngày hội. Nó thông báo sự ra đời của một chủng loại mới, tuổi trẻ, la zơn nét, la jeunesse, thứ sinh vật mới mẻ này có một thông điệp, và chỉ một mà thôi: hãy vui chơi với tụi tớ, nếu không, biến đi cho được việc; nhẩy nhót suốt đêm tại một vũ trường jazz, nếu không, đừng bao giờ rủ tụi này đi chơi; đừng nói với tụi này về hôn nhân, về ba lẩm cẩm khác, hãy hít đến mụ cả người ra, hãy vờ tương lai – ai là thằng bồ mới của mi?
Và cái từ buồn ở trong cái tít quả đúng là một cái trề môi, 'thôi bỏ đi tám'!

Ui chao, đám jơn nét VC ở trong nước, con cháu của những đại gia Bắc Bộ Phủ, hay HNV, hay HNT, quả đã xử sự đúng như vậy, nhưng ở trong tim trong gan trong hồn trong não của chúng, có một nỗi buồn, đúng hơn, một 'ô nhục': thắng trận!

Một ông sĩ quan VNCH như một THT, làm sao có được nỗi ô nhực ‘bảnh’ như thế?