*


TẠP GHI





Trở lại nơi một thời vang bóng

Chuyện ở thủ đô
CTU

Tôi đi Hà Nội một tháng, gặp một số chuyện “độc” chỉ có ở thủ đô, mang về làm quà kể cho bạn nghe. Kể từng chuyện nhé. 
Niềm tin & quốc tịch
Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó. Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đã mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào thì chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong thì cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rõ, “Nhưng chị đã có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi thì mua thêm ở Sing làm gì?”Chị bình thản chia sẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô thì được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở mình, giờ nhìn đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho mình. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc thì cũng ung thư.”
Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tị nạn chính trị đến tị nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tị nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn. Lỡ có chuyện gì... thì... bay hơn tiếng đã đến Singapore.”
Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi thì làm sao mà… chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?
Tôi tình thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của mình chứ? Đảng viên mà còn tính như thế thì dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?” Chị đáp, “Chị có còn sinh hoạt đảng gì nữa đâu, có cái thẻ thì giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! Còn ông ấy thì phải giữ vì còn phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị còn nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó còn hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên Phát-xít và Cộng sản hay không, nếu có là phăng-teo luôn.”
Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải. Thường thường bậc trung như mình, nghĩ thì cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi thì có chết thì chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng gì mình. Lỡ có chuyện gì thì làm ơn… lỡ sớm sớm giùm một chút.
Cái gì cũng “đéo”
Ngày nay hầu như ở Hà Nội người ta không còn, hay rất hiếm, nói từ “không”, mà thay bằng từ “đéo”. Ra phố thì cái gì cũng “đéo”. Từ già cho tới trẻ, nam hay nữ gì cũng vậy, cũng nói “đéo” thay cho “không”. Thậm chí, có khi bạn còn nghe “đéo” trong các môi trường lẽ ra rất lành mạnh như nhà trường. Cái gì cũng “đéo”. Nghĩa là, “đéo có cái gì mà không đéo”. Giả dụ, ở sạp báo, bạn hỏi, “Ông ơi, có báo Nhân Dân không?” / “Đéo có Nhân Dân, chỉ có Hà Lội Mới thôi!”. Kinh!
Thịt heo tự nuôi, cho nó lành!
Xem ti-vi, thấy một chị tre trẻ ở Hà Nội đặt họ hàng ở quê nuôi heo để ăn dần cho nó an toàn, bảo đảm là heo nuôi với nguồn thực phẩm tự nhiên, không có chất “tạo nạc”. Ai muốn ăn thịt heo thì phải ghi tên trước 8 tháng. Nhà đài VTV tường thuật như thể chị chàng kia thông minh lắm, như muốn khuyến khích mọi người theo cái gương đấy. Mình nghĩ, không chừng chắc rồi cũng tới cái lúc dân ta quay lại như thời bao cấp, cái thời nhà nhà nuôi heo, tự cung tự cấp, ủn ỉn ụt ịt trong mọi nhà, trên mọi hành lang chung cư, cho nó lành. “Sĩ” Ra đây một thời gian ngắn tôi nhận ra được cái tính “sĩ” của dân thủ đô. Tôi gặp một số người cho rằng mình là người Hà Nội chính gốc, có tổ tiên hằng bao nhiêu đời làm quan của triều nhà Hồ, nhà Lê. Những người này có niềm kiêu hãnh về dòng dõi của mình, và họ khinh đám dân nhập cư từ Nghệ An, Thanh Hóa, hay các xứ khác đến sống ở Hà Nội ra mặt. Nếu không khinh ra mặt được thì họ cũng ngấm ngầm tự hào về cái khả năng không nói ngọng nghịu, lẫn lộn hai âm “nờ” và “lờ”, và tự hào về cái giọng thanh tao (nhưng tôi nghe thì có khi chua lét) của họ, chứ không nặng chình chịch và quê mùa của người nhập cư. Họ cho rằng như thế mình mới là “sĩ”, là “kẻ sĩ”; nghĩa là, có thể nghèo, nhưng vẫn sang trọng, một cách nào đó, trong nhân cách thừa kế được từ dòng dõi nhiều đời trước.-

Note: Độc giả thân hữu gửi.
Tks.
TV

Trở lại nơi một thời vang bóng

Volkov: Do you mean the line, "Thank God I was left on this earth without a homeland?” Those words proved prophetic. How did they pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there was this idea of solitude ... of detachment. After all, in that Leningrad topography, there is really a very powerful split. There's a tremendous difference between the center and the outskirts. And suddenly I realized that the outskirts were the beginning of the world, not the end. 'They were the end of the familiar world but the beginning of the unfamiliar world, which is much bigger, much vaster. In principle the idea was that, in leaving for the outskirts, you're distancing yourself from everything you know and setting out for the real world.

Volkov: Bạn tính nói cái dòng thơ “Cám ơn Trời tôi bị bỏ lại trên thế gian này đếch có quê hương?” Đúng là dòng thơ tiên tri. Quái làm sao, nó lại bật ra vào năm 1962?
Brodsky: Chắc là do cô đơn, tách rời. Nói cho cùng, cái địa thế của Leningrad gây chia lìa, (đi hay ở là chọn lựa chết người. TTT). Có 1 sự khác biệt khủng giữa trung tâm và ngoại vi. Và bất thình lình tôi nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới, không phải tận cùng. Chúng là tận cùng của thế giới quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế giới không quen thuộc, lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là bạn tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và bước vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.

Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.

Nguyễn Quốc Trụ

*

Looking on a Russian Photograph, 1928/1995

It's the classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined to be crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at the age of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948, cherished projects betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely watched at home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive Stalin - yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in 1958, he will not be permitted to accept, his book burned, his name excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last symbols of a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky they are, these three, able to experience lives of great crisis and choice. Were they not gifted with an energy that brought them each full-bore into what Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These three men played out their lives across the dark landscape of a cursed country, each sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose the milder climes of the USA circa the late twentieth century - although these times, less sinister certainly than Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the largest sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the sterile, timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too can be boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of information can be far more ruthless than war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time later to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy and sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists your shoulders equal to all working and struggling people, neither higher nor lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver Stone

The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits

Quái đản thật. Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các bạn.

Ở cái xứ Bắc Kít, toàn Kít!

Một bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ nát bấy ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - mỗi người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị phản bội, nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng chặt chẽ khi ở nhà.

Pasternak, đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị đốt, tên bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.

Nhưng, như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1 nền văn minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại nhận ra 1 điều, họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và chọn lựa lớn.

RUINED CHOIRS
How did Shostakovich's music survive Stalin's Russia?

For genuine dissidents, such as Solzhenitsyn and Brodsky, Shostakovich was part of the problem. In an interview, ironically, with Solomon Volkov, Brodsky attacked the effort to locate "nuances of virtue" in the gray expanses of Shostakovich's later life. Such a career of compromise, Brodsky said, destroys a man instead of preserving him. "It transforms the individual into ruins," he said. "The roof is gone, but the chimney, for example, might still be standing."
Cái trò ‘dạng háng’, ‘biển một bên, tớ một bên’… huỷ diệt một con người thay vì giữ được nó… Nó biến con người thành tro than, điêu tàn… Mái nhà thì mất mẹ nó rồi, nhưng cái ống khói, có thể vưỡn còn!

Note: Cái đoạn gạch đít ở trên, áp dụng vào đám tinh anh Bắc Hà [HC, LD... trừ Hữu Loan], thật hợp!

Thư Nhà

Note: Trên TV còn 1 bài của Brodsky, cũng thật “tuyệt cú mèo”, vinh danh bà vợ góa của nhà thơ Mandelstam, tác giả “Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng”, Hope Against Hope. Đọc bài này, độc giả TV muờng tượng, hoặc liên tưởng tới Dương Thu Hương, qua câu phán hiển hách của bà, tao ỉa vào mặt lũ VC.
Bà vợ góa của nhà thơ Nga, cũng phán tương tự, tao ỉa vào mặt cả 1 lớp sĩ phu Bắc Kít!

Tưởng Niệm Nadezhda Mandelstam

Liệu Nadezhda Mandelstam trở thành như là bà bây giờ, là do Cách Mạng, và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ không phải như vậy, bởi vì bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng một câu hỏi như thế, tự thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những vùng đất mờ ảo, của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới thuyết tất định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không phải bởi vì những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là, bất chấp những chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn sẽ vạch ra rằng, theo quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất chấp" đồng nghĩa với "bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử thì cũng chỉ có vậy, nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là con người”, nằm ở trong ngữ nghĩa của từ 'bất chấp'... ".
Gì thì gì, thì đây cũng là một điều tốt lành. Bởi vì, một người đàn bà mảnh mai, yếu đuối đã làm chậm - nếu không muốn nói, về mặt đường dài - đã ngăn chặn, cơn băng hoại văn hóa của cả một dân tộc. Những hồi ức của bà là một cái gì còn hơn cả một chứng tích, về thời của bà.

Chúng là một cái nhìn lịch sử dưới ánh sáng của lương tâm và văn hoá. Dưới ánh sáng đó, lịch sử nhăn nhó, và cá nhân thực hiện sự chọn lựa của mình: Hoặc là, bỏ công tìm kiếm coi ánh sáng tới từ đâu, hoặc là, phạm một tội liên quan tới gốc rễ con người, đối với chính anh ta/chị ta.
Bà đâu có muốn lớn lao, cao cả như vậy, ngay cả chuyện giản dị, là muốn ngang hàng với chế độ, cũng không. Với bà, đây là một chuyện riêng, nó liên quan tới tính tình, phong cách rất đỗi tư riêng của bà, và điều tạo nên phong cách đó. Và như chúng ta đã biết đấy, một vóc dáng cá nhân như thế, là đã được văn hóa và những sản phẩm tối hảo của nó, tạo nên: những bài thơ của chồng bà. Chính chúng, chứ  không phải hồi ức về chồng, là điều mà bà cố gắng giữ sao cho sống hoài, không thể bị mai một. Chính là vì những bài thơ, chứ không vì ông chồng, mà trong vòng 42 năm trời đằng đẵng, bà trở thành một góa phụ. Lẽ dĩ nhiên, bà yêu chồng, nhưng tình yêu, tự thân nó, là một trong những tinh hoa, tài tình, "phong hoa nhất mực", của những đam mê trọn kiếp. Và tình yêu, nó chỉ có thể có được bản chất phong hoa nhất mực, có được những giấc mơ bay bổng, những viễn ảnh tuyệt vời, là từ nội dung văn hoá, bởi vì nó cần nhiều không gian ở trong đầu, trong tâm hồn, chứ không phải thứ không gian ở trên, và ở xung quanh một cái giường. Ra ngoài không gian đó, nó rớt liền vào không gian giả tưởng một chiều. Bà là goá phụ, đối với văn hóa, và tôi nghĩ, bà yêu chồng nhiều ở những ngày hôm sau, hơn ngày đầu họ lấy nhau. Có lẽ chính vì vậy mà độc giả  nhận thấy những cuốn sách của bà thật gây ám ảnh. Bởi vì điều trên đây, và còn bởi, cái gọi là thân phận của thế giới hiện đại trực diện với văn minh cũng được coi như là một thân phận ở góa [widowhood].

Nếu bà thiếu điều chi, thì đó là sự khiêm nhường. Về điều này, bà không như hai nhà thơ lớn của bà. Nhưng, họ có nghệ thuật của họ. Và thành tựu thơ ca, thứ thượng hảo, khiến họ khiêm tốn, hoặc làm ra vẻ như vậy. Bà thì rất ư là cổ hủ, cố chấp, câu nệ, khó chịu, thích làm theo ý mình; tư tưởng hoặc chưa chín chắn, hoặc phát triển theo kiểu "nghe người ta nói như vậy". Nói ngắn gọn, có rất nhiều cái gọi là sự thủ đắc ở nơi bà, thành thử người ta không ngạc nhiên, về chuyện bà ứng phó với những gì xẩy ra trong thực tế cũng như trong tưởng tượng. Sau cùng sự khó chịu của bà khiến nhiều người phải tránh né, nhưng phải như vậy thôi, bởi vì bà quá chán sự tâng bốc, quá chán được yêu mến bởi Robert McNamara, hay Willy Fisher [tên thực của Đại tá Rudolf Abel]. Tất cả những gì bà muốn, là được chết ở trên chiếc giưòng của bà, và một cách nào đó, bà trông chờ điều này, bởi vì, "ở trên ấy, tôi lại gặp Osip của tôi". "Không đâu, tôi đi trước bạn, lên trên ấy, và sẽ gặp Osip trước bạn", Akhmatova trả lời.

Ước muốn của bà sau đã trở thành hiện thực, và bà chết ở trên chiếc giường của bà. Với một người Nga thuộc thế hệ của bà, đây không phải là chuyện nhỏ nhặt: được chết ở trên chiếc giường của mình. Sẽ có những người than thở, rằng bà hiểu lầm thời của bà, rằng bà tụt hậu, không bắt kịp con tầu lịch sử  chạy về tương lai. Ôi chao, có thể nói, như mọi người đàn bà Nga khác thuộc thế hệ của bà, bà biết quá rõ một điều là, con tầu chạy về tương lai đó ngưng ở trại tập trung hay tại phòng hơi ngạt. Bà may mắn đã hụt chuyến tầu, và chúng ta may mắn, vì bà bảo chúng ta biết lộ trình của nó. Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.
1981

Brodsky

Note: Khi dịch bài viết này, GCC nhớ là, quả là có nghĩ tới DTH, khi nhận ra 1 điều, mà sau này, GCC lèm bèm hoài, Mít, và nhất là xứ Bắc Kít, không làm sao có được sự nhân hậu ở trong văn chương, ngay cả ở DTH.

Thiếu nó, là thiếu cái gọi là văn hóa, như Brodsky viết:

Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn].

Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.

Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.


Sĩ phu Bắc Kít vs Dalai Lama

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!
Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!


“Tôi nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012
"Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại. Tôi hy vọng ở đám lãnh đạo mới, bắt đầu cuối năm này. Những nhà lãnh đạo Đảng CS/TQ bây giờ thiếu tự tin, nhưng tôi nghe từ những người bạn TQ thì sau 1, hoặc 2 năm, đám mới này sẽ đi vài đường khai mở,  và sẽ tự do, dân chủ hơn 1 tị."
Đức Dalai Lama mà tôi thường được yết kiến kể từ 1981, bữa nay cực kỳ sôi nổi. Ngài nhắc tới cuộc gặp Tông Tông Mẽo Obama vào năm 2011. Tôi hỏi Ngài về những cuộc gặp gỡ với những đầu sỏ trên thế giới,, từ Nam Phi tới Anh Quốc, những đấng từ chối gặp Ngài theo đúng nghi lễ, vì sợ Tẫu. Tông Tông Mẽo Obama đếch dám gặp Ngài vào năm 2009, cú “em chả, em chả” đầu tiên, từ một vị Tông Tông Mẽo, kể từ khi vị lãnh đạo Tây Tạng bắt đầu thăm Washington vào năm 1991. Hai cuộc gặp sau cùng đã được thực hiện vào năm 2010 và 2011. Và đều xẩy ra tại Phòng Bản Đồ Bạch Cung thay vì Phòng Bầu Dục, sau khi Bắc Kinh cảnh cáo: “Chúng tớ” kiên quyết phản kháng bất cứ 1 cuộc gặp gỡ chính thức với Dalai Lama, dưới bất cứ hình thức nào. Ở Anh Quốc, thì mấy tay chóp bu như Thủ tướng Gordon Brown và David Cameron cũng kiếm 1 chỗ khác, thay vì số 10 Downing Street. Tháng Sáu này, Phó Thủ Tướng Anh cũng đi 1 đường gặp gỡ nhanh, gọn, đếch có quảng cáo, với Dalai Lama, Ngài gặp gỡ vài ngàn người ái mộ tại
St. Paul's Cathedral. Tất cả những cuộc gặp gỡ đó, kể cả cú tại nhà thờ, thì theo lệ thường, đều đuợc anh Tẫu càu nhàu, “làm đau đớn tình cảm của dân Tẫu”.
“Nếu cái đám đầu sỏ đếch muốn gặp tớ, thì kệ cha họ, đúng không?” Ngài sử dụng ngôn từ cà chớn của thằng cha Gấu. Nhưng dần dần, dân Tẫu nhận ra họ bị bóc lột, khai thác, bị kiểm duyệt. CS/VC Tẫu nói với dân Tẫu, "nhân dân ta" đâu cần thứ dân chủ, nhân quyền kiểu Tây Phương.


Evil Axis

Note: Đọc bài viết của Sến thì nhìn ra truyền thống muôn đời của…  bướm.
Đọc bài viết của David Remnick thì lại nhìn ra, truyền thống của… Brodsky!

August 11, 2012
The Pussy Riot Scandal
Posted by David Remnick



Note: Trên TV còn 1 bài của Brodsky, cũng thật “tuyệt cú mèo”, vinh danh bà vợ góa của nhà thơ Mandelstam, tác giả “Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng”, Hope Against Hope. Đọc bài này, độc giả TV muờng tượng, hoặc liên tưởng tới Dương Thu Hương, qua câu phán hiển hách của bà, tao ỉa vào mặt lũ VC.
Bà vợ góa của nhà thơ Nga, cũng phán tương tự, tao ỉa vào mặt cả 1 lớp sĩ phu Bắc Kít!

Tưởng Niệm Nadezhda Mandelstam

Gửi DTH.
Jennifer Tran 

Trong 81 năm của cuộc đời của bà, Nadezhda Mandelstam trải qua 15 năm là vợ nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, và của thế kỷ này. Và 42 năm là bà vợ goá của ông. Còn lại là tuổi thơ và những năm vừa mới lớn. Trong giới văn, là vợ góa của một nhà thơ lớn là lời giới thiệu bảnh nhất về mình. Điều này lại càng đúng, vào những năm 1930 và 1940, chế độ sản xuất ra quá nhiều những bà vợ góa của văn thi sĩ, đến nỗi vào giữa thập niên 1960, mấy bà đủ túc số để tổ chức một công đoàn. 

"Nadya là một bà goá phụ may mắn nhất",  Akhmatova vẫn thường nói. Khi nói như vậy, là bà muốn nhắc tới sự công nhận rộng rãi, the universal recognition, đối với nhà thơ Osip Mandelstam. Và, mặc dù Akhmatova rất có lý khi nói như vậy, thì đây cũng chỉ là một cái nhìn từ phía bên ngoài, không tính tới đất nước thần thoại chiếm tới 1/6 diện tích quả địa cầu, tức Nga xô, chính nó. Vào lúc mà ông chồng có được danh tiếng như vậy, Nadezhda đã ở vào tuổi sáu mươi, sức khỏe thật là mỏng manh, phía sau bà, là hai thập niên góa bụa, đói khát, thiếu thốn đủ thứ, Cuộc Chiến Lớn, và nỗi sợ triền miên, có thể bị Mật Vụ tóm bắt bất cứ lúc nào, vì là vợ một kẻ thù của nhân dân.

Chết là cùng chứ gì! Thành thử tất cả quãng đời còn lại, chỉ là giải lao, chỉ là hưu nhàn.

V/v Sĩ phu Bắc Kít

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!

Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!

"Tôi nói với tổng thống Obama là những nhà cầm đầu xứ Tẫu mất 1 phần não, đúng cái phần có cái gọi là lương tri”.
"I told President Obama the leaders of the Chinese Communist Party are missing a part of the brain, the part that contains common sense," the Dalai Lama said to me (1) during our conversation in London in mid-June.

(1)

*

News from the Dalai Lama
Jonathan Mirsky

"I told President Obama the leaders of the Chinese Communist Party are missing a part of the brain, the part that contains common sense," the Dalai Lama said to me during our conversation in London in mid-June.
But it can be put back in. I am hopeful about the new Chinese leadership beginning late this year. The Communist leaders now lack self-confidence, but I have heard from my Chinese friends that after a year or two the new ones will take some initiatives, so more freedom, more democracy.
The Dalai Lama, with whom I have been talking periodically since 1981, was in an ebullient mood even for him. He was referring to a meeting with Obama in 2011. I had asked the Dalai Lama about those national leaders throughout the world, from South Africa to Britain, who refuse to hold formal meetings with him because they fear Beijing's anger. President Obama declined to meet him in 2009, the first rebuff from an American president since the Tibetan leader began visiting Washington in 1991.
Two meetings finally took place, in 2010 and 2011. Both were held in the White House Map Room rather than the Oval Office, after Beijing had warned against such an encounter: "We 'firmly oppose any foreign official to meet with the Dalai Lama in any form." In Britain, Prime Ministers Gordon Brown and David Cameron found other venues for their meetings, far from 10 Downing Street. This June Cameron and Deputy Prime Minister Nick Clegg held a brief, unpublicized meeting with the Dalai Lama, who was about to address several thousand admirers in St. Paul's Cathedral. All such meetings, including the one at the cathedral, are routinely condemned by Beijing as “hurting the feelings of the Chinese people”.
"If these national leaders don't see me that's up to them," the Dalai Lama said. "But slowly Chinese people realize they have been exploited, censored. The Communists tell them they don't need Western-style democracy and human rights." In recent months, there have been reports of self-immolations by Tibetans in China and Tibet, and there are concerns that the human rights situation is worsening. Yet as in previous meetings, the Dalai Lama reflected without rancor on Chinese Communist rule over Tibet. "What has kept Tibetans going for 2,500 years? The Dharma." This is the traditional Buddhist view of the universe and its principles of human behavior and wisdom. "How old is the Communist Party? Less than two hundred years [it was founded in 1921]. Admiration for Tibetans throughout the world is always rising. Attitudes toward the Chinese Communist Party, inside and outside China, couldn't be worse."
He noted that the Party sees how Aung San Suu Kyi, the Burmese opposition leader and a fellow Nobel Peace Prize laureate, was admired throughout the world for more than twenty years when she was a captive in Rangoon and now, free at last, is welcome everywhere. She was in London in June, and Beijing cannot have been happy to see her meeting with the Dalai Lama. The Dalai Lama told Suu Kyi that he admired her courage. The Dalai Lama said that the reason Chinese Nobel Peace Prize winner Liu Xiaobo is serving an eleven-year prison sentence for “subversion is "because he is not just one individual. There are thousands of intelligent, thinking people in China who agree with him that change is necessary." This means more transparency, he insisted, an end to violence, and a real legal system. "And there are also 1.3 billion other Chinese who because of their great culture have the brains to distinguish right from wrong. More and more they are aware of their rights." The Party fears them, he added, and Liu is supposed to be a warning-an example, he agreed, of the Chinese saying "Strike the rooster to frighten the monkey."
Particularly interesting was what the Dalai Lama had to say about the eleventh Panchen Lama, the second-most- eminent religious figure in Tibetan Buddhism, who has been chosen by the Chinese leadership in Beijing, in an apparent effort to impose further control on Tibet. The authentic eleventh Panchen, Gedhun Choekyi Nyima, was chosen by the Dalai Lama in 1995 while the Tibetan leader was in exile in India. In accordance with tradition, he made the choice five years after the tenth incarnation died. Beijing immediately denounced the choice as illegitimate, kidnapped the child and his family-who have never been seen again-and imprisoned for subversion the abbot of the Tashilhunpo monastery, the Panchen's traditional seat, who had first identified little Choekyi Nyima as a possible eleventh Panchen. Employing "authentic" rituals, the Communist Party then chose its own boy, Gyaincain Norbu. It was only too plain that this rigamarole, as the Dalai Lama has remarked to me over the years, was a dress rehearsal for Beijing to select his own successor, the fifteenth Dalai Lama, who it hopes will be accepted by Tibetans, as their choice of Panchen has failed to be.
I was surprised, therefore, by the Dalai Lama's comments about the spurious Panchen. He mentioned 2008, when an uprising swept throughout Tibet proper and regions of China at       populated by many Tibetans. Chinese properties were destroyed, some Han were killed, and a number of Tibetans are estimated to have been killed at the hands of the Chinese police and army.
"Of course Beijing wanted the boy to denounce the uprising," the Dalai Lama observed. "But some of his friends have told me that he remains a Tibetan deep inside and preferred of to remain silent. Beijing couldn't use him." +
-July 13, 2012
NYRB August 2012

Nguyễn Quang Thiều: Trở về mái nhà xưa

Cái tít của nhà thơ dởm, chắc là được “gợi ý” từ của Gấu, và Gấu, từ ông cậu của Gấu, và ông cậu của Gấu, từ Nguyễn Tuân


Trở lại nơi một thời vang bóng

Hai vị tác giả liên quan mật thiết đến Hà Nội của Gấu là Phạm Cao Củng và Lê Văn Trương.
Nếu sau này vô Nam, Gấu mê đọc Kim Dung, khi đó ăn khách, đăng fơi ơ tông hàng ngày trên nhật báo, và dân Sài Gòn phải xếp hàng chờ tờ báo ra lò, xuất xưởng, thì với Gấu, những ngày ở Hà Nội cũng thế, cũng chờ những tập kiếm hiệp của PCC vừa ra là vồ liền, và cứ thế vừa đi vừa đọc, [nhưng nhớ là chưa bao giờ đụng cột đèn], chưa về đến nhà thì đã ngốn xong, những Long Hình Quái Khách, Giao Trì Ngọc Nữ, Bồng Lai Hiệp Khách, Ngọc Kỳ Lân…
Mãi sau này thì Gấu mới biết toàn là chưởng lô can, tác giả là Phạm Cao Củng.

Phạm Cao Củng còn viết 1 bộ chưởng có tên là Nhỡn Kiếm Đạo, tia mắt phóng ra tới đâu là giết người tới đó, phịa hết cỡ nói như thế, đâu ngờ có cuốn phim kiếm hiệp Nhật Bản, trong có nhân vật y chang. Phim tuyệt cú mèo: Shinobi: Heart Under Blade (2005).
GCC không dám lèm bèm về phim, sợ bị chửi, mi coi rồi, thì để người chưa coi, coi.
Ở Hà Nội, thằng bé nhà quê là Gấu đã có lần bị 1 đấng người lớn ngồi phía sau xách tai kéo bổng lên khỏi ghế ngồi, vì cái tội nói trước nội dung phim!
Kỷ niệm đó cũng “nhớ đời”, chẳng thua lần nằm trong phòng, phía bên này bức tường, trố mắt nhìn ra bên ngoài hành lang, tối thui, chẳng thấy gì, chỉ nghe tiếng xột xoạt quần áo, tiếng thở hổn hển của ông bếp già làm cho ông Tây Trẻ, và 1 bướm Hà Nội…  bà cô của Gấu tới ngay bên, kéo lỗ tai xách dậy, tát cho vài cái, kỷ niệm đó mà chẳng tuyệt sao!

Truyện trinh thám của PCC mới đúng là thần sầu, gãi thật đã ngứa quãng đời mới lớn ở Hà Nội của Gấu. Rất ly lỳ, rất hợp lý, rất tam đoạn luận, rất toán học…

Truyện dài Kho Vàng Ba Bể của ông, liên quan đến kho tàng nhà Mạc, hóa ra lại mắc mớ đến người cháu gái của ông, Phạm Tú Châu, như trong bài viết trên Blog NL cho biết, người cháu gái này dịch Tuyết Sơn Phi Hồ, mà TSPH thì lại liên quan đến kho tàng ở núi Tuyết Sơn, liên quan tới cuộc tình của ông già/bà già của cậu bé Hồ Phi, liên quan tới mối thù giữa mấy họ Hồ, Miêu, Phạm, Điền, anh em kết nghĩa cùng phò Sấm Vương Lý Tự Thành …
(1)
Trong những tác phẩm của KD, Gấu mê nhất Tuyết Sơn Phi Hồ.


Quán có tên Rendez-vous (Điểm Hẹn), gần ngay bên hồ, kế bên khách sạn Phú Gia, nơi ngày xưa nổi tiếng với món vịt quay, như lời chỉ dẫn của Sơn, người bạn mới quen. "Anh cứ nói cho tới Phú Gia cũ là taxi hay xe ôm biết liền". 

"Cho tôi một đời khác và tôi sẽ hát ở Café Rafaella. Hay giản dị chỉ ngồi ở đó." (Joseph Brodsky). Ngồi đây, tôi chỉ nhớ, nó rất gần rạp Lửa Hồng ngày xưa, một rạp ciné của hướng đạo, chuyên chiếu những phim như Tarzan, Zorro, cho đám con nít nhà nghèo thành phố. Một trong những thiên đường tuổi thơ của tôi.

*

Note: V/v Nguyễn Trí Cầm.
Trong gia phả ghi là:
Nguyễn Chí Cầm, sinh tháng 1 1915, tức tháng 12 năm Giáp Dần
Vụ Trưởng, Chánh Văn Phòng Uỷ Ban Dân Tộc, Đảng viên DCSVN
Tham gia cướp chính quyền ở huyện Hạc Trì Phú Thọ

Ông cụ Gấu:

Nguyễn Tái Dương
Giáo viên, tốt nghiệp trường Sư Phạm, trường Thể Thao Phan Thiết
Sinh 1911, bị VN QDD sát hại năm 1946 [4-2] ở Việt Trì [3-1 Bính Tuất]

Chú Cầm như thế, chưa bảnh bằng Chú Tam:
Nguyễn Chí Tam
Sinh 1924
Tham gia cướp chính quyền ở huyện Quảng Oai, năm 1945, và là Phó chủ tịch đầu tiên của huyện. Cũng là người lập chính quyền đầu tiên ở làng. Tốt nghiệp trường sư phạm, trường võ bị Trần Quốc Tuấn khóa 3, truờng Trung lao (?), trường Thể Thao Phan Thiết, Học Viện Cao Cấp Mali Nốp Ky (?)
Đảng Viên, Đại Tá phó tư lệnh Quân Đoàn
Dự chiến dịch Hồ Chí Minh, tham gia giải phóng Miền Nam, tiếp quản Dinh Tổng Thống.

Chú Tam, những ngày sau 30 Tháng Tư, có đến thăm bà chị của Gấu, vợ Nguyễn Hoạt, Hiếu Chân. Ông là Tướng Xe Tăng, ủi sập Dinh Độc Lập của Ngụy.
Sau nghe nói, ông bị VC làm thịt!

Đúng là cả lò nhà mày là CS, chỉ có mi là Ngụy!


*

Gấu @ Đền Hùng
Đằng sau Gấu là danh ngôn của Bác: Vua Hùng lo dựng nước, Bác Cháu VC ta lo bán nước!

*

Gấu @ Nhà Cũ.

Căn nhà này, thằng em trai xây cất lại, nền lấn ra phiá trước, so với căn nhà cũ, nay biến thành vườn. Nhà cũ, có cây táo, có cái sân gạch, để phơi lúa, và nền đất. Gấu đã từng xém chết khi chui vô cái hòm đựng thóc, dùng làm bàn thờ, và do hai cái mễ mục, Gấu bò sao đạp trúng 1 cái, thế là nó sập xuống, và như Gấu đã từng kể ra 1 lần rồi, đúng lúc đó, Gấu như sống lại 1 kinh nghiệm cũ, và bèn xoài người ra, nhờ vậy thoát chết, thoát gẫy cẳng, chỉ bị 1 cú kinh hồn bạt viá (1)
Tay thợ chụp hình, là con ông chú của Gấu. Chú Thanh, con bà vợ lớn, vợ cả. Bà này, sau tố mẹ chồng, cho mẹ chồng đi tù. Mẹ chồng là Bà Tư, em của ông nội của Gấu, là Ông Ba. Cô Dung, bà cô me tây của Gấu, là con Bà Tư. Ông Thanh là em trai của Cô Dung. Lần Gấu về Việt Nam, đúng vào lúc ông chú Thanh mất, và Cô Dung của Gấu, ở Pháp, cũng về. Bà bị lên máu, phải đưa vô bịnh viện Chợ Rẫy. Gấu vô thăm, bà nói, tụi nó nói mày chết rồi mà!
Do Gấu ghiền, Cô Hoàn, em Cô Dung, sợ Gấu viết thư xin tiền Cô Dung, bèn giấu biệt địa chỉ, và nói với Cô Dung, nó chết rồi.
Bà Dung cũng giận thằng cháu, vì muốn Gấu lấy cô con gái, cái gia đình tháng tháng Gấu đến lấy tiền đóng tiền học. Mày lấy nó, là mày có đủ thứ hết.
Bà đâu biết, chính gia đình cô con gái cũng không chịu. Một phần, họ ghét me Tây, như bà cô của Gấu, cũng như bạn của bà cô của Gấu, tức bà con ruột thịt của họ, cũng me Tây. Họ sống nhờ me Tây nhưng rất ghét me Tây.
Một phần, Gấu, vừa lùn, vừa lé, cô gái chê!

(1)

"Tôi trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật"

Đêm 23 tháng Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu thanh niên đứng kế bên lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện khác, ông già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh niên, mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con thuyền chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót ngọn sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy, tám tuổi, thấy bạn cùng lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm được. Và cứ thế lao xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp sửa chìm nghỉm, bèn nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi đã hoàn hồn, đứng ngơ ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai nạn. Như thể, cậu đã trải qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó đã từng xẩy ra, trong một giấc mơ, có thể.
Cậu có cảm tưởng, anh bạn lớn tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và anh ta sẽ can thiệp, đúng lúc.
Rõ rệt nhất là lần chơi bắn bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn, chiếm cả một góc gian nhà chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên hai tấm mễ gỗ, hay ngựa gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi những cơn lũ lụt, và những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào cũng lo trữ lúa.
Hòn bi lăn tít vào gầm hòm. Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá mục, cùng sập xuống.
Như sống lại giấc mơ, cậu xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc mễ chia giùm sức nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy vắt cơm để thu hồi lại.
Lớn lên, cậu mất dần khả năng kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp dí - có một điều gì liên can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như thể gia đình ông bị trù yểm, bởi nước.
*
Ông già của ông già bị đảng phái thủ tiêu, bằng cách cột đá vào người bỏ xuống sông.
Đứa em trai, tử trận tại một khúc sông, do một viên đạn từ bên kia bờ bắn xuống nước dội lên.
Bản thân ông đã từng bị thương nặng tại bờ sông Sài-gòn.
Lần đó, đúng ra là đi luôn, nếu không có kẻ thế mạng: một chuyên viên Phi Luật Tân mới chân ướt chân ráo tới Sài-gòn.
*
Nhưng được bỏ qua, không có nghĩa là được tha thứ. Ông già thấy nhẫn nhục, cam chịu.
Đó là một chuyến đi được tổ chức rất chu đáo. Và có lúc ông già nghĩ rằng sẽ thành công...
*

"Tôi trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan Thomas mở đầu “Hồi tưởng & Hoang tưởng”.
Với ông, khả năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó xẩy ra, ở một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi nó. "Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều, rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống.
Điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng. Cách đây vài năm, tôi [D.M. THomas] đi thăm Lydia, người chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp ẹp, tối thui. Chủ nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt lủn, lủng lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà phê, loại uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm sao liên hệ bà với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có muốn đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi đi theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng.
Một luồng mầu sắc và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh tuyệt vời. Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một người đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải tóc.
Tôi yêu liền ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.

Chẳng có gì đáng kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác những bức họa đã hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô con gái.

"Tôi nghĩ chắc là bà đã có bảo hiểm những bức họa?"
 "Không, nếu bị đánh cắp, cái gì có thể thay thế?"

Trở lại bếp, bà cho tôi coi những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu của ông.
Một trong những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ bí, đáng sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì đứng tim, ngay trên đường phố Moscow, đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago, đã "ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô con gái Lydia đã trở thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Liền đó, ông kể lại một kinh nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác sĩ tâm thần làm ông nhớ đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một cái gì liên can đến mặc cảm Oedipe).
"Thay vì đi nhà thờ, cậu đã tới một sex shop".
"Đúng như vậy". "
Rồi trí tưởng của tôi đầy rẫy những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà bác sĩ gọi điện thoại:
"Tôi không thể gặp anh bữa nay. Tôi phải đi đám ma.
"Oh, I am sorry, tôi mong không phải là một người thân của bà.
"Thảm thay, đúng như vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết luận, đâu có gì là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không phải cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...". 

Chỉ là lộng giả thành chân.
Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm giác ghê rợn, khủng khiếp, khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh.
Như thể cuộc chiến lập lại, khi giả tưởng "xuất hiện". 

Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Ông già quen anh bạn, những ngày cả hai cùng làm việc cho một hãng tin nước ngoài. Anh là nhiếp ảnh viên. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít, có lần, trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào về mấy quí tướng của mình.
Ng. quả thực rất khôn ngoan. Nếu có gì đó, làm anh thất vọng về chính mình, có lẽ là, anh đã không theo đuổi nghề "phóng viên chiến tranh" cho tới cùng. Anh giải thích, làm cho hãng tin Mỹ một thời gian, anh chuyển qua một hãng tin Nhật. Ông già không gặp anh từ dạo đó. Rồi bỏ nghề, về nhà đuổi gà cho vợ.
"Mày có nhớ được bao nhiêu thằng tụi mình quen, đã tử mạng ? Ở chiến trường, cái máy chụp hình trông xa giống như khẩu súng. Còn chữ Press ở trên ngực, gặp VC tụi nó cũng chẳng tha. Sau Mậu Thân, bà vợ tao hoảng quá, không cho tao làm phó nháy nữa".
Cũng có thể còn một lý do. Tuy nhỏ con, nhưng anh có một sức hấp dẫn đặc biệt, với phụ nữ.
Anh vẫn mơ tưởng, ngoài người vợ anh đã ly dị, có với nhau một đứa con trai; ngoài bà vợ sau anh đang chung sống, có được một đứa bé gái - vì mê bả, anh giải thích, anh đã không bỏ đi, những ngày tháng Tư năm đó - còn một việc gì, chiến cuộc dành riêng cho anh, những kẻ bỏ cuộc hơi sớm. Như thể nó cho anh "hoãn dịch", để thực hiện sứ mạng này.

"Tôi để dành tôi cho tương lai", Phan Văn Hùm, (hay Tạ Thu Thâu ?), đã nói vậy, khi từ chối làm việc với những người CS. Một người quen của ông già cũng đã nói một câu tương tự, khi từ chối lệnh nhập ngũ.
Anh bạn phóng viên mơ tưởng "làm một việc, để trả ơn nhân dân Mỹ," khi đem đến cho họ tin tức, về những "con mực", mật ngữ của anh. Anh giấu kín những "tài liệu vô giá" đó, chỉ thêm vào, một bức thư, bằng tiếng Anh, do ông già viết. Một thứ "bạch thư", đại khái vậy. Thì cũng nhờ mớ tiếng Anh còn sót lại, ông già đã được "tổ chức", qua anh bạn phóng viên, chấp nhận.

Sau này, bữa theo vị linh mục người Pháp, tới văn phòng ODP, tại Bangkok, nằm trong building khổng lồ City Bank, ông thấy lại tất cả những đơn từ, thư viết tay, hình ảnh, hôn thú, giấy khai sinh..., tất cả những gì ông gửi từ Việt Nam, những ngày cực khổ, việc gửi thư là một xa xỉ... Không thấy bức "bạch thư". Như vậy, ông già nghĩ thầm, nó thuộc về một hồ sơ khác, nằm ở Bộ Quốc Phòng, như Steel, nhân viên tại Toà Lãnh Sự Mỹ, tại Vientiane, nói. "Steel, như cái này này," anh giơ chân đập vào tủ sắt kế bên. Trong bữa gặp gỡ, anh có nhắc tới Alan Dawson, một ký giả Mỹ làm cho UPI. "Ông ta là bạn tôi, hiện đang làm việc tại Bangkok. Các anh có thể tới đó gặp ông ta. Nhưng tôi không thể giúp đỡ gì, trong việc này. Tôi sẽ chuyển bức thư đi, vậy thôi." Trước khi nói chuyện anh đã cẩn thận đóng cửa văn phòng, không cho nhân viên người Lào tại sứ quán biết, về cuộc gặp mặt giữa những điệp viên CIA, hoặc MIA, "dởm". Sau khi đọc qua hồ sơ ODP, nhìn hình hai người lớn, và mấy đứa nhỏ, vị linh mục người Pháp nói, "Bây giờ ta có thể giúp con được rồi. Ta sẽ đưa con tới sở cảnh sát Bangkok. Họ sẽ bỏ tù vợ chồng con mấy tháng. Sau đó, Cao Uỷ sẽ đưa các con tới trại tị nạn."

Cũng lại một chuyến vượt biên, nhưng bằng đường bộ. Ông già vốn không tin con đường Đức Thánh Trần chỉ bảo. Gia đình ông, bị thần nước trù yểm, kể từ thời Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, cũng nên. Quê ông vốn vùng núi Tản, sông Hồng.

Trên ghe, đa số là người theo đạo. Khi đã tuyệt vọng, họ hy vọng vào Chúa. Tiếng cầu kinh nổi lên, lúc đầu còn rời rạc, nhưng dần dần át tiếng mưa bão. Phép lạ, phép lạ, ông già loáng thoáng nghe có người suýt soa. Vài phút trước đó, ông đã được anh thợ máy, sau khi thất bại không thể làm cho máy chạy, từ dưới hầm tầu bò lên, nhìn trời, ngó đồng hồ... Sau đó, anh giải thích, bão ven biển vốn vậy. Tới gần sáng là ngưng. Vả lại ghe chưa ra xa bờ. Nếu sửa cho máy nổ, chắc là tiêu rồi, anh vừa nhìn vào bờ vừa thẫn thờ nói. Trên bờ loáng thoáng những ruộng muối...

Anh bạn đi cùng đã thả xuống biển những chứng tích cuối cùng, của chuyến đi...

NQT

Ông chú Thanh, em trai  Cô Dung, bỏ bà vợ lớn ở quê, ra Hà Nội, chạy xe đường Hà Nội - Hải Phòng, nhà ở phố Lò Sũ, gần Bờ  Hồ. 1954, ông vô Nam cùng bà vợ bé. Bà Thanh, bà vợ bé này, rất thương Gấu. Khi thằng em trai Gấu tử trận, bà cho tiền làm mả, làm bia, rất kiên cố, còn hoài với trời đất, nhưng trước khi chuồn, vợ chồng Gấu quá rành VC, bèn bốc mộ cả mẹ và em, hoả thiêu, đem tro vô chùa, nhờ cúng bái giùm, tháng tháng gửi tiền.

Vợ chồng ông Thanh, là chủ rạp xi nê ở Chợ Tân Định. Bà Thanh do làm ăn lớn quá, bị sập tiệm, bị đám bạn cũ, cũng là chủ nợ, tố luờng gạt. Ông Thanh cũng bị chúng tố, bèn ra thông báo, ai làm người đó chịu, và bỏ Bà Thanh.
Bà Thanh đi tù, đến 30 Tháng Tư, nhà tù Ngụy tiêu theo Nguỵ, bà về nhà, ra đường bán quần áo.
May làm sao, lúc lên voi, do không có con cái, bà nuôi 1 đứa con gái, con lai. Cô này sau đi Mẽo, theo diện con lai, thế là bà cũng đi theo. Gấu sau đó, không còn gặp.

Thú vị nhất, là, khi nghe tin Bà Thanh đi Mẽo, Ông Thanh tới gặp, đề nghị cho ông đi theo. Bà lắc đầu.
Khi đó, ông sống với 1 bà, chủ 1 rạp chiếu bóng, cũng có đâu mấy người con. Ông Thanh, chú Gấu, cao, lớn, rất đẹp trai, nhìn tướng ông con trai là biết. Bà cô, Cô Dung của Gấu, dáng người cao, sang, không có vẻ chi là Mít hết!   

Gấu có 1 kỷ niệm khủng, về Ông Chú Thanh của Gấu, những ngày đầu vô Sài Gòn.
Ông vô trước, vô sớm lắm. Chạy taxi. Bữa Gấu theo bà cụ tới trình diện, ông chạy xe chưa về. Khi ông về, ông kể chuyện, bữa nay gặp khách hẩu. Một gia đình Bắc di cư, mới vô, không biết đường xá chi hết, gọi xe của ông, và đưa cái địa chỉ, kế ngay đó, nhưng họ đâu biết. Ông chú của Gấu bèn cho gia đình di cư đi tham quan thành phố, thăm Sài Gòn, và luôn cả Chợ Lớn, rồi trở về, cũng chỗ cũ, kế đó, đúng hơn, và tính tiền.

Tất nhiên, làm sao không?

Về đất Bắc, Gấu gặp lại bà chị, và ông em, gặp thằng cháu, con ông Thanh, và nhớ lại toàn những kỷ niệm thật là thê lương.

Anh cháu này, ngay sau giải phóng, là bèn vô Nam, gặp lại Bố. Có ghé nhà Gấu. Về gặp lại, anh kể, nhà toàn sách, ngoài ra chẳng có gì hết.
Khi đó, chưa phần thư.

Bà bạn của Cô Dung của Gấu, me Tây, có hai chồng. Mỗi tháng bà ở với mỗi ông nửa tháng. Gấu nhớ là, lần đầu tiên nghe bà cô kể về bạn của bà, Gấu sững sờ vì lạ. Và suốt đời tự hỏi, liệu, về mặt tình cảm, bà có chia đôi, y chang như vậy không?
Hà, hà!
Sau Gấu đọc trong "Ngàn Lẻ Một Đêm", có 1 chuyện y chang. Có hai ông ăn trộm, một ông ban ngày, một ông ban đêm, một bữa lạ sao, cùng trọ chung 1 khách điếm, và, "lạ sao", rất hợp nhau, và bèn cùng ngồi ăn, và cùng lôi, mỗi ông, 1 nửa con gà ra, để cùng ăn.
Và ngã ngửa ra, là hai nửa con gà, ráp lại thì thành 1 con gà!
Đến lúc đó, thì hiểu, họ cùng [dùng, cũng được] chung 1 cô vợ.
Bạn nào đã đọc "Ngàn Lẻ Một Đêm", thì biết câu chuyện kết thúc ra sao.
Tuyệt lắm.
Gấu nhớ là, đây là chuyện Gấu mê nhất trong "Ngàn Lẻ Một Đêm"!
Lý do, bật mí sau!
Hà, hà!

Bạn có thể mường tượng ra là, những người thân thương ruột thịt của Gấu còn ở lại Đất Bắc, có 1 nửa con gà, và Gấu cũng có 1 nửa con gà.
Khi Gấu về, là để ráp hai nửa lại.




Trở lại nơi một thời vang bóng

Cái tít của nhà thơ dởm, chắc là được “gợi ý” từ của Gấu, và Gấu, từ ông cậu của Gấu, và ông cậu của Gấu, từ Nguyễn Tuân

*

Bài viết của Gấu về chuyến về Hà Nội lần đầu, năm 2001, đăng trên báo Viet Mercury

Gấu, trước khi về xứ Bắc Kít sau cả nửa thế kỷ xa cách, trong túi thủ địa chỉ của ông cậu, số phôn của NHT, thấy...  nhẹ quá, bèn phôn HPA, khi đó còn ở Sài Gòn, mày giới thiệu tay nào ở Hà Nội. Anh giới thiệu NQT. Trên đường về, Gấu liên lạc với NQT liền, anh lúc đó đang ở cách xa Hà Nội vài chục cây số, 1 trại phục hồi nhân phẩm thì phải. Mừng lắm. Và cho biết HPA quí anh lắm, có lần phán, thơ bây giờ tụ lại ở xứ Bắc Kít, và ở xứ Bắc Kít, tụ lại ở NQT.
Đại khái thế.

*

Đỗ Minh Tuấn:

Tay này rất quí Gấu, và tình nguyện chở đi yết kiến mấy vị chức sắc, như Hoàng Ngọc Hiến, Dương Tường…
Gấu trước đó, đã đọc 1 bài viết của anh về hoa, về Nguyễn Du, nhớ đại khái, trên tờ Văn Học của NMG, và còn nhớ bài gây ấn tượng. Bữa đó, Gấu cũng nói ra ý kiến của Gấu về bài viết trên. Anh thú lắm, vì, hình như cũng có nghe giang hồ truyền tụng, Gấu chưa từng khen giả đò ai cả!

Làm gì có chuyện trước 1975 Gấu nhắc tới những đại gia như Mai Thảo, Võ Phiến!
Bởi thế mới quên bài viết về VP nhằm trám lỗ hổng trên trang VHNT, tờ Tiền Tuyến, do Gấu phụ trách!

Bị ám ảnh bởi câu nói của HPA, khi đám bạn văn VC chưa từng gặp, lũ lượr kéo nhau tới nhà ông cậu - ông tỏ vẻ ngạc nhiên, cả 1 nửa thế kỷ mới về mà sao nhiều bạn kéo tới thế - và khi 1 trong họ đề nghị ngày mai đi ăn, Gấu bèn gật dầu, và sau đó bèn lắc đầu, mời các bạn ghé nhà ông cậu làm bữa hàn huyên của đứa con hoang đàng, còn bữa tiệc kia tính sau, và bà chị ruột, cứ nghĩ thằng em được bữa ăn free, bạn VC mời, bèn ngã ngửa ra, mặt một đống, bảo thằng em, tao đã bảo mà, chẳng đứa nào dám bỏ tiền ra mời mày đâu!
Đúng lúc đó, bạn NQT từ dưới cầu thang đi lên, và có thể, có nghe loáng thoáng.
Gấu ngượng chín người, khi khách về, kêu bà chị sạc 1 trận, bà giận bỏ về quê luôn, mấy ngày sau mới lại xuống, vì chuyến đi trở về làng cũ, tiện thể ghé quê hương nhà chồng của bà.
Chả là, Gấu có tật, rượu vào lời ra, sợ ra quán, thất thố.
Sau bữa hàn huyên, le retour de l’enfant prodigue, thấy mọi người thật tình, thật tâm, Gấu bèn nhận lời ra quán.
Gấu đãi!
Nhưng cái cú ăn quán tiếp theo, do NBD đãi, mới hoành tráng, sang trọng, và mới đáng nhớ, vì Gấu được gặp nữ sĩ, và mết liền.
Thì cũng dân Sơn Tây nhà mình!

Khi Thảo Trường chưa đi xa, một lần gặp anh ở Cali, khi đó anh chưa biết gì về trang Tin Văn, Gấu khoe được nhiều người đọc, nhất là ở trong nước, và đề nghị, chỉ có cách đó để ra mắt độc giả trong nuớc, khỏi bực mình vì kiểm duyệt.
Anh gật gù hài lòng, và cho đăng gần như toàn bộ tác phẩm của anh trên TV, chỉ có tí bực mình nhỏ, khi Gấu chọn cái tên, "Quán Thảo Trường", và bèn chỉnh, tôi có bán cái chó gì đâu mà... Quán?

Cái vụ Tràng Thiên ra sách ở trong nước thật quá sức tưởng tượng của Gấu.
Một anh bạn giải thích, có thể người nhà, bà con ở trong nước, chứ không phải VP.
Đếch được.

Thứ nhất, cái tên Tràng Thiên, vốn VP chỉ sử dụng để dịch, chưa hề dùng cho sáng tác. (1)
Khi trong nước dùng cái tên đó, là phải có ý kiến của VP.
Làm sao mà phải đổi tên của chính mình?
Võ Phiến là từ Viễn Phố thân thương mà ra mà!
Y chang cái vụ dịch cái tên Mẽo ra cái tên Việt, khi ký tên lãnh tiền Mẽo viết VHTQ!

Note: Cái vụ này phải viết ra liền, ông VP mà đi xa là đếch viết được nữa!

*

Bức hình Gấu mang về Bắc, cho thằng em trai, để lên bàn thờ, hy vọng nó nhớ đến Mẹ một chút.
Khi Gấu về, canh cánh trong lòng, sẽ nói thằng em, khi nào rảnh vô Nam, mang tro than của Mẹ và của Chú về Bắc, nhưng ngó cung cách bà chị ruột, ông em ruột, Gấu bỏ ngay ý định.
Chán thế!
Những ngày 30 Tháng Tư 1975, cả gia đình kéo nhau ra Tòa Đại Sứ Mẽo, giúi cái xe Honda vào tay anh lính Ngụy, xin cho vô bên trong, bà cụ không đi, nói thôi tao về Bắc, giữ con cho thằng Bảo [đứa em trai út của Gấu]. Một lát sau, thấy cụ tất tưởi chạy ra, nhớ mấy đứa nhỏ quá, thôi đi hết, chết ở nơi quê người cũng được!
Sau đó, quá nửa đêm, cả nhà lại kéo về nhà!

*

Công trường cầu Việt Trì, nơi ông cụ Gấu bị một đấng học trò làm thịt.

Nghe kể lại, ông bị bắn, và bị buộc 1 khối đá, rồi thẩy xuống sông, cho xác không nổi lên. Hình bên dưới, là bà chị con ông Bác [tóc bạc], và cô con gái ông chú của Gấu, Chú Cầm, huyện uỷ VC tại Việt Trì, thời kỳ đó. Cô con gái ông chú cho biết, ông cụ Gấu bị bắt hai lần cả thảy. Lần đầu trước Tết, khi nhà trường cho học sinh nghỉ học ăn Tết, và phát phần thưởng, trong phần thưởng có truyền đơn của VC. Ông cụ bị tay Trùm toán võ trang, 1 lực luợng QDD, bắt vì những tờ truyền đơn, nhưng tha liền sau đó. Ông về làng Thanh Lạng, quê của Gấu, ăn Tết, ở bên kia sông. Bà cụ tham mấy phiên chợ Tết ở lại tới chiều 30, về làng, mang bức thư mời dự tiệc tất niên của nhóm võ trang.
Và không về nhà nữa.
Theo cô con gái của ông chú Gấu, thì ông cụ bị bắt vì chúng đề nghị ông đại diện cho QDD, ra tranh cử Quốc Hội VC. Ông từ chối, và nghe nói, còn chửi anh học trò, vì cái tội, để cho đệ tử dưới quyền thu thuế mãi lộ, những ngày chợ. Lúc đó, Việt Minh đã có kế hoạch tấn công Việt Trì, và trước khi bỏ chạy, anh học trò làm thịt Thầy.
Vẫn theo cô con gái ông chú, ông cụ Gấu chỉ là cảm tình viên của VC. Bởi thế, mấy anh chị em của Gấu còn ở lại Đất Bắc không được VC công nhận là con liệt sĩ.
Cũng được. 


*

*

&

NBD & NQT, 2001, Hà Nội. [Hình mới kiếm thấy]


"Đã từ lâu mảnh đất thân thương này gọi bảo tôi viết về nó."
Arioxt (Thơ trào phúng).

(Stanhđan trích dẫn; chương mở đầu cuốn "Tu viện thành Pácmơ", dịch giả Huỳnh Lý, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, năm2001).
"Trở lại nơi một thời vang bóng" là tên một bài viết đăng hai kỳ trên báo Hà Nội Mới, số đề ngày 2 và 9 tháng Bẩy, 1994, về chuyến đi thăm ba nước Cộng Hòa Ucraina, CH Cadaxtan và Liên Bang Nga của thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và phu nhân, một số vị bộ trưởng và 20 nhà doanh nghiệp, từ ngày 8 tới 17.6.1994.
Tác giả bài viết, Nguyễn Anh Trâm, khi đó là thư ký tòa soạn tờ báo trên.
Ông là em trai của mẹ tôi.
Rời Hà Nội năm 1954, lần "trở lại nơi một thời vang bóng" trong trí tưởng một thằng bé di cư ngày nào, tôi đã được ông cậu, nay đã già, ra tận sân bay Nội Bài, để "nhận mặt" thằng cháu. Bởi vì trong ba người – hai người kia là bà chị và đứa em trai của tôi, cách biệt nhau từ những năm 1945 – chỉ có ông "may ra" nhận ra tôi.

Số là, ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975 được ít lâu, do yêu cầu công tác (chắc vậy), ông đã vào Sài Gòn, và nhân đó, đã "tranh thủ" thời gian, để gặp chị và cháu. Và ông đã đến cơ quan của tôi, Bưu Điện Sài Gòn, để xác nhận một điều: cha của "đồng chí này" bị đảng phái sát hại ngay những ngày đầu cách mạng.


* 

Chuyến "qui cố hương" (chữ của một nhà văn Việt Nam ở nước ngoài chúc mừng nhân chuyến đi), một phần là để tìm lại những kỷ niệm thời con nít, biết đâu còn sót lại ở nơi quê nhà, Sơn Tây, rồi những ngày chạy tản cư lên Phú Thọ khi giặc Pháp nhảy dù xuống cánh đồng làng (1949); những ngày học ở Hà Nội... và những "chi tiết lịch sử" liên quan tới cái chết của cha tôi. Trong những ngày ở miền Nam, và sau này, ở nước ngoài, "một nửa" gia đình tôi đã lấy ngày 30 Tết năm đó, là ngày người cha rời cái làng nhỏ bé ven đê sông Hồng, để rồi chẳng bao giờ trở về, làm ngày cúng giỗ ông.

Bây giờ, tôi đã biết rõ ngày ông mất. Cha tôi bị sát hại ngày mồng ba Tết (1946) tại Việt Trì, nơi ông làm hiệu trưởng một trường tiểu học. Tôi cũng đã đến nơi ông bị sát hại: bị bắn, sau đó xác bị cột đá, thẩy xuống sông, để cho đừng bao giờ nổi lên. Bà chị tôi nhắc lại một chi tiết đau lòng, theo đó, chính tôi đã từng nhìn thấy kẻ giết bố mình, nhờ cái quần kẻ đó mặc. Một cái quần dạ, bị chuột cắn, thủng một lỗ lớn, và mẹ tôi đã phải vá lại. Trong trí nhớ của tôi, chi tiết trên không hẳn như vậy. Tôi nhớ, có lần mẹ tôi nói, bà đã nhìn thấy kẻ mặc bộ đồ com lê của chồng, bữa ông ra đi. Tuy tin chắc chồng không còn, bà sau đó vẫn lặn lội nhiều nơi, vẫn giả đò hy vọng. Trong số những người bị bắt có một vài người cùng làng; trong có một ông chú của tôi, Nguyễn Trí Cầm, khi đó là Bí Thư Việt Minh, cơ sở Hạc Trì (Bạch Hạc và Việt Trì, thuộc tỉnh Vĩnh Yên). Vài ngày sau khi bố tôi bị sát hại, chú tôi và một vài người cùng bị bắt, dùng nước uống bọn cai tù chia cho hàng ngày, tích tụ lại, và nước tiểu, "tưới" lên một mảng tường đất, và trốn thoát, nhân một bữa đám cai tù mải ăn uống say sưa. Đám người nói trên sau bị Việt Minh truy đuổi phải chạy qua Trung Quốc.
Ông Nguyễn Trí Cầm sau cho đứa em trai út của tôi biết, cha tôi khi đó chỉ là cảm tình viên của Việt Minh. Lý do cái chết của cha tôi: Đảng phái nói trên đã mời cha tôi, một nhân sĩ tại địa phương, làm đại diện cho họ tại quốc hội, nhưng ông từ chối.
Trong bao năm trời, em tôi xin xác nhận là con liệt sĩ, nhưng không được. 

***

 "Trong bài viết này, tôi không nhắc lại những hoạt động cụ thể trong chương trình làm việc của Thủ tướng... Tôi muốn nói thêm về đất nước, con người và cuộc sống hôm nay ở các quốc gia đã một thời vang bóng... những kỷ niệm không thể xoá nhoà... chuyến đi thăm... lần này chưa đủ... phải trở lại, và trở lại nữa."
"Họ [những nhà báo trên chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi] quen nhiều cánh rừng, công viên, đường phố rợp bóng cây của Ki-ép. Vào mùa này, những cây Tô-pơn lại thả những chấm hoa vào không trung đầy nắng. Hoa gặp gió, được gió mang đi rắc bụi khắp kinh thành".
Nguyễn Anh Trâm chú thích: Cây Tô-pơn không cao lắm, có những quả nhỏ như hạt đậu xanh. Trước khi kết trái, Tô-pơn thả vào không gian những chùm hoa nhỏ li ti như những chấm hoa gạo. Vào tháng 5, tháng 6, hoa Tô-pơn bay khắp thành phố Matxcơva, và Ki-ép.
Ở một chỗ khác trong bài, ông viết: "Người ta bảo, ai đến thăm Xanh Pê téc-xbua vào đúng thời điểm của những đêm trắng xuất hiện thì đó là một diễm phúc để ghi nhớ suốt đời."

***

 Tôi trở lại đất Bắc cũng vào tháng Sáu. Không (diễm phúc) đêm trắng. Không (trang trọng) thảm đỏ. Quê hương đón tiếp tôi, trên chiếc xe 12 chỗ ngồi, bằng một thảm rơm rạ trải dài mãi ra, dọc con đê, trên con đường từ Hà Nội về một làng quê ven sông Hồng, thuộc tỉnh Sơn Tây.
Trên xe ngoài vợ chồng ông cậu, bà chị, đứa em trai, bà chị con người bác và đứa cháu nội của bà, còn hai bà cô bên ngoại, và một hai em học sinh người làng, ra Hà Nội học, nhân có xe, tiện thể quá giang.

Lộ trình chuyến đi: Ngày đầu ghé Thanh Trì, nơi quê cha đất tổ dòng họ Nguyễn. Ngủ tại đây, sáng hôm sau qua phà Trung Hà, tới Thanh Sơn quê hương nhà chồng của bà chị.
Hai vợ chồng có được một đứa con gái. Chồng vào Nam chiến đấu, mất tích. Bà chị ở goá từ năm 25 tuổi. Mới gần đây thôi, bà mới được công nhận là vợ liệt sĩ. Cô con gái đã có gia đình, được hai cháu, một trai, một gái. Ngày thứ ba, lên Tu Vũ, quê hương nhà chồng của bá Sửu, bà chị ruột của mẹ tôi. Trên đường về cùng ngày ghé Việt Trì, nơi cha tôi bị sát hại.

Sông Hồng đang mùa nước lớn, có những khúc đê, xe mon men bên cạnh biển. Cô Nguyên, một trong hai bà cô của tôi cho biết, có những năm nước lớn, có thể ngồi trên mặt đê, để rửa ráy chân tay. Cô như muốn nhắc nhở tôi một điều, cơn đe dọa muôn đời của thiên nhiên đối với mảnh đất này, vẫn còn nguyên đó. Cái công trình vĩ đại nhất của nhân loại mà một nhà phi hành gia có thể nhìn thấy, từ phi thuyền, là Vạn Lý Trường Thành, nhưng theo một nhà sinh thái học, nó chẳng là gì nếu so với con đê ở miền bắc Việt Nam, đắp rồi lại xóa, đời này sang đời khác, cho đến nay, vẫn còn nguyên hiểm họa.
Cũng theo nghĩa đó, một nhà sử học cho rằng, nhà Nguyễn chấm dứt với Tự Đức: trong đời ông vua này trị vì, 18 lần vỡ đê. Còn với người Pháp, công cuộc "khai hóa" của họ chấm dứt ngay từ khi vừa tới Việt Nam, cho dù kéo dài 100 năm: không lo đê điều, mà lại lo xây dựng đường hỏa xa Đông Dương. Nên nhớ Đồ Phổ Nghĩa đã nhìn Sông Hồng như là một tương lai chở của về Tây, sau khi đã thất bại với sông Mekong.
[Không hiểu Jean Dupuis có một cái tên Việt như trên, chỉ vì đọc lên, nghe như "đồ phi nghĩa"?]
Khi tôi rời đất Bắc, cô Nguyên còn nhỏ xíu. Ông ngoại tôi mấy đời vợ. Cô Nguyên là con bà ba. Thời kỳ cải cách ruộng đất, bà ba may mắn đem ba người con trai (ba ông cậu cùng học một lớp với tôi) xuống Hà Nội.

Trong một truyện ngắn viết ở hải ngoại, do thông tin sai lạc, tôi viết, ông ngoại tôi, nhân đội cải cách sơ ý, đã nhẩy xuống sông tự tử. Thực sự, ông bị bắt cùng hai cô gái út. Bị đánh đập, tất nhiên, để khảo của. Cô Nguyên kể, đã từng bảo bố, thôi cứ nộp vàng cho đỡ đau. Bị giam cầm, ngay tại Phú Cuờng, tức làng tôi, Thanh Trì, "cái nôi" của cách mạng trong vùng. Sau bà ba cho người mang vàng về nộp đội cải cách để chuộc chồng và con. Ông ngoại tôi chết vì già yếu tại Hà Nội.
Nay xin đính chính ở đây.

Người đầu tiên, ngoài ba người thân đã viết ở trên, "đại diện" Hà Nội tiếp đón tôi, là một "người ở Thanh Xuân", (Thanh Xuân, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội)

Tôi có số diện thoại và địa chỉ của anh, qua một bạn văn, hiện ở Đức sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Ngay khi còn nhấp nha nhấp nhổm trên chiếc ghế, tại căn nhà của ông cậu, tôi đã điện thoại cho anh…. "Như vậy là chiều nay tụi mình sẽ gặp nhau", anh trả lời. Hà Nội đang nóng như thế, chợt đổ mưa. Và tôi đã phải "trả giá" cho sự mát mẻ bằng một cú điện thoại của người bạn chưa từng gặp. Anh cho biết, khu vực nhà anh ngập nước, và hẹn bữa khác.

Bữa khác, là ngay ngày hôm sau.

Hai đứa chúng tôi, lần đầu gặp nhau, dưới cơn mưa Hà Nội.

 ***

 Đêm giã từ Hà Nội (chữ của Mai Thảo), của tôi, tại một quán cà phê ngay bên bờ Hồ, có "người ở Thanh Xuân", cùng một số bạn bè mới quen khác, trong có Nguyễn Việt Hà, tác giả "Cơ hội của Chúa", một cuốn tiểu thuyết gây chấn động cả ở trong nước lẫn hải ngoại. Tôi hỏi đùa anh: "Bao giờ thì anh viết tiếp, cơ hội của chúng ta?"

Của Hà Nội? 

***

 
Quán có tên Rendez-vous (Điểm Hẹn), gần ngay bên hồ, kế bên khách sạn Phú Gia, nơi ngày xưa nổi tiếng với món vịt quay, như lời chỉ dẫn của Sơn, người bạn mới quen. "Anh cứ nói cho tới Phú Gia cũ là taxi hay xe ôm biết liền". 

"Cho tôi một đời khác và tôi sẽ hát ở Café Rafaella. Hay giản dị chỉ ngồi ở đó." (Joseph Brodsky). Ngồi đây, tôi chỉ nhớ, nó rất gần rạp Lửa Hồng ngày xưa, một rạp ciné của hướng đạo, chuyên chiếu những phim như Tarzan, Zorro, cho đám con nít nhà nghèo thành phố. Một trong những thiên đường tuổi thơ của tôi. 

Nhà thơ người Nga Joseph Brodsky, trong bài Chiến Lợi Phẩm, viết về những kỷ niệm ấu thời của ông trong thành phố St. Petersburg, đã nhắc đến tiếng hú của người rừng Tarzan, và khẳng định một điều, vào những năm đầu thập niên 1950, loạt phim Tarzan đã "đọc bài ai điếu cho chủ nghĩa Stalin" (de-Stalinization), còn hơn tất cả những bài diễn văn của Khrushchev ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên xô, và sau đó. 

Những phim Tarzan, Zorro, và những phim sau đó, khi thằng bé lớn hơn một chút, thì cũng vẫn những phim mà Joseph Brodsky đã từng mê mẩn, như Đại uý Blood, Tướng Cướp Rừng Xanh (Robin Hood)… là những món quà Hà Nội dành cho tôi, một thằng bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội để học. Ôi chao, tôi vẫn còn nhớ một trong những niềm vui lớn lao của lũ học trò chúng tôi hồi đó, là sưu tầm những tờ chương trình, đúng ra là những tờ tóm lược một cuốn phim đang được trình chiếu. Một tờ chương trình, cũng một phim đó, ở rạp Majestic lẽ dĩ nhiên bảnh hơn của một rạp khác, thí dụ vậy. Tuy lớn hơn nhà thơ Nobel ba tuổi, nhưng tôi chẳng thể nào có được một "sở hữu thiêng liêng" như ông: hình tài tài tử Errol Flynn trong phim Sea Hawk: "Trong nhiều năm tôi [Brodsky] đã cố gắng bắt chước hứ hứ cái cằm, và nhúc nhích lông mày bên trái. Cái sau thì tôi thua." Và tôi [đứa con của Hà Nội] cũng không làm sao có tình yêu, mà nhà thơ nói là ông cùng chia sẻ nó với… Hitler: mối tình lớn, của thời niên thiếu, với cô đào [người Đức] Zarah Leander. Nhà thơ chỉ được coi mỗi một lần, mỗi một phim, của cô đào này, "Road to the Scaffold" (Đường tới Đoạn Đầu Đài, tên tiếng Đức: Das Herz einer Konigin), về cuộc đời hoàng hậu Scotland, Mary, Queen of Scots. [Chắc là nhà thơ không được biết, con trai tài tử Errol Flynn đã tham dự cuộc chiến Việt Nam như là một nhiếp ảnh viên của hãng UPI, và tử trận – như một nhiếp ảnh viên - tại đây].

  Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố Huế, bởi vì chỉ còn nó là sống sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất – đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi lắng nghe! – sau Hà Nội Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và để đánh đổi sự sống sót, nó đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.

Ông cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.

Anh chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của Hà Nội bây giờ.
 

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy. Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục. 

 Nguyễn Quốc Trụ 

Chú thích hình: Từ trái qua phải: Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, buổi tối tại quán cà phê Rendez-vous (Điểm Hẹn) bên Bờ Hồ Hà Nội (tháng Sáu 2001).


Trở lại nơi một thời vang bóng

 Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố Huế, bởi vì chỉ còn nó là sống sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất – đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi lắng nghe! – sau Hà Nội Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và để đánh đổi sự sống sót, nó đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.

Ông cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.

Anh chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của Hà Nội bây giờ. 

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy. 

Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.

phuc

Bà chị Phúc của Gấu, con duy nhất của Bác Giáo Thái, ông anh ruột của ông cụ Gấu.
Bà đã từng cảnh cáo Gấu, lần Gấu trở lại đất Bắc, khi chỉ hình ông bố, và huân chương Đảng của ông:
-Cả lò nhà mày là Cộng Sản. Ra ngoài ấy liệu liệu mà viết!

Chưa hết đâu, Hà Nội càng khuya càng nhìn rõ cái nhọc nhằn của phụ nữ. Phần đông phu quét đường, phu hốt rác ban đêm là phụ nữ. Họ làm việc trong thầm lặng. Khẩu trang che ngang miệng, chổi cầm tay, vừa đi vừa đẩy cái xe cút-kít, họ cúi xuống lề đường nhặt từng gói rác trong những căn nhà hai bên phố vứt ra, họ đi vòng những gốc cây quét đống rác ai đó vừa đổ vội cuối ngày. Đôi khi họ nhặt lên một bó hoa tàn, đứng tiếc rẻ, ngắm nghía một chút, lưỡng lự một chút, rồi mới bỏ vào thùng xe. Có bao giờ họ nhận được một bó hoa tươi không nhỉ?

Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố Huế, bởi vì chỉ còn nó là sống sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất – đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi lắng nghe! (1) – sau Hà Nội Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và để đánh đổi sự sống sót, nó đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.
Ông cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.
Anh chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của Hà Nội bây giờ.

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.

(1)
Cái câu mô phỏng lời nhạc TCS này, chắc cũng phải đi một lời bàn Mao Tôn Cương, cho nó sáng ra:
Gia đình ông ngoại của Gấu, trong thời gian xẩy ra cải cách ruộng đất, sau khi ông chồng bị bắt, bà vợ thứ ba bèn đem đám con chuồn về Hà Nội, nhờ vậy mà thoát. VC không dám làm mạnh, tại Hà Nội, nơi có những cơ quan nước ngoài, sợ bứt dây động rừng.

Tô Hoài, trong Cát Bụi Chân Ai, có mô tả cuộc bỏ chạy vĩ đại này:
"Ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa thùng cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."
Một chuyến đi

Trở lại nơi một thời vang bóng

THE BACK STREETS OF MOSCOW

Ui chao, hồi này già quá, cơ thể rệu rạo,
hệ thống miễn nhiễm hết còn OK,
thành thử con vai rớt Bắc Kít hoành hành, đáng sợ thực! (1)
NQT

(1) Xạo!
Một độc giả TV

Những con phố sau của Hà Nội

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.

Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.

Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.

Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu

Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
*

*

Nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee, trong bài điểm cuốn tiểu sử nhà văn Ba Lan, Bruno Schulz (Regions of Great Heresy: Bruno Schulz, A Biographical Portrait, nguyên tác tiếng Balan của Jerzy Ficowski; Theodosia Robertson dịch qua tiếng Anh, nhà xb Norton, 255 trang, $25.95), đã kể ra, một trong những đam mê từ những ngày còn con nít của Bruno Schulz, là ngồi lê la trên sàn nhà, mải mê vẽ, hết bức họa này tới bức họa khác, trên những tờ báo cũ. Sau này, trong những chuyến di chuyển vào thế giới sáng tạo, chỉ là một đứa trẻ vẫn sống cái "tuổi thiên tài" (the age of genius), vẫn cố – một cách vô thức - tìm cách tiếp cận cõi huyền đó (the realm of myth). Và hình như, đây là người đàn ông mà đứa trẻ ngày xưa đã trở thành. Và tất cả những gì mà người đàn ông này hăm hở đòi cho được, chỉ là tái sở hữu những quyền năng đầu đời của mình, hay nói một cách khác, là để "trưởng thành ở trong tuổi thơ" ("mature into childhood").
Lần trở về Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không phải tuổi thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao phen dọ dẫm về nó.
Trong một lần dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa Đông Dương.
Tôi viết, làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi Nhật chiếm Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô tôi nói, cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà, nhưng tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn hơn bà tệ lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm giá thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.
Cái villa mà hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu khi nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên khác, và rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.
Ngày xưa, đứng trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một viện bảo sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma ám, cứ ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai bên, tôi đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia đình nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự trước, và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.
Còn bên trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ Hallais, ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe tiếng người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc khuất khuất ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.
Đi đêm mãi có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi thường leo vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ mượn đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la, tôi giật mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi theo, chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.
Đúng là để gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé bằng những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu thì ít, nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như cũng học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận nhà xin lỗi.
Bài học đầu tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã không học được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu ngốc kể trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.
*
"Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền).
Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard, nơi có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là chừng nào, trên khuôn mặt "cô bé". (2)
Trên khuôn mặt Sài Gòn.
NQT

Chú thích:
(1) Bót Lê Văn Ken, như bạn Thảo Trường còn nhớ, và cho biết. Tks. NQT
(2) BHD. Em không có nốt ruồi son mà là cái răng khểnh!
*
TV post lại ở đây, bài viết đăng trên The New Yorker, June, 8 &15, 2009, Tuổi Thiên Tài, The Age Of Genius, của DAVID GROSSMAN
Đọc đoạn mở đầu bài viết, Gấu bồi hồi nhớ lại cái truyện ngắn đầu tay của mình.

THE AGE OF GENIUS
Tuổi Thiên Tài
The legend of Bruno Schulz.
Giai thoại về Bruno Schulz
BY DAVID GROSSMAN

Vào một buổi chiều Mùa Xuân, Easter Sunday, 1933. Đằng sau quầy tiếp khách một khách sạn nhỏ ở Warsaw là Magdalena Gross, một điêu khắc gia, và cái khách sạn khiêm tốn của bà là nơi đám văn nghệ sĩ và trí thức thường tụ tập. Ở hành lang lúc đó có một bé gái người Do Thái, chừng 12 tuổi, quê ở Lodz, cha mẹ gửi học. Một người đàn ông nhỏ, ốm, xanh xao, bước vô khách sạn. Anh ta có vẻ sợ hãi, theo cô bé Do Thái.
Gross hỏi, anh là ai.
-Schulz, anh ta trả lời, và nói tiếp:
-Tôi là một thầy giáo, tôi viết một cuốn sách, tôi…
Bà ngắt lời:
-Anh từ đâu tới?
-Từ Drohobycz
-Anh là một thợ múa ư?
-Cái gì? Ô, không phải.
-Nhưng mà anh tính làm gì ở đây?
Và người đàn ông nói, giọng thầm thì:
-Tôi là một giáo sư trung học. Tôi có viết một cuốn sách. Vài truyện ngắn. Tôi phải đi Warsaw nội trong đêm và trao nó cho Madame Nalkowska.
Gross nhìn xuống, ngắm nghía anh chàng đàn ông. Zofia Nalkowska là một tác giả Ba Lan nổi tiếng , và là một nhà viết kịch. Bà còn rất quen thân với nhà xb nổi tiếng Roj.
Bà mỉm cười hỏi:
-Nhưng mà làm thế nào mà anh gặp được, và trao cuốn sách cho bà đó?
Người đàn ông lắp bắp, mắt quay đi, giọng nài nỉ:
-Người ta nói với tôi là Madame Gross quen biết Madame Nalkowska… Nếu bà ấy tỏ ra rộng rãi, tốt bụng…
Theo cô bé Do Thái, có thể vì người đàn ông có vẻ quá sợ hãi, và có thể, vì cái vẻ cứng đầu, bướng bỉnh thật là ảo não, tuyệt vọng của anh ta khiến bà Gross bỏ giọng trêu chọc và đi đến chỗ để điện thoại.
Bà nói chuyện với Zofia Nalkowska về người đàn ông.
-Nếu tôi phải đọc bản thảo của bất cứ thằng cha căng chú kiết nào thì làm sao tôi có thì giờ viết cái của tôi?
Bà Gross thầm thì, năn nỉ:
-Hãy làm ơn một lần mà. Bà chỉ cần nhìn vài hàng trang đầu tiên, nếu thấy không được thì nói thẳng cho anh ta biết, để anh ta hết còn nghi ngờ về tài năng của mình, và đi làm nghề buôn, thay vì làm nhà văn! (1)
Bà Zofia Nalkowska miễn cưỡng nhận lời
Bà Gross quay lại nói với anh chàng đàn ông:
-Lấy một cái tắc xi. Nửa giờ nữa, bà ta sẽ tiếp anh, trong 10 phút.
Schulz chạy ào ra ngoài. Một giờ sau, anh quay lại. Không còn tập bản thảo.
Bà ta nói sao? Bà Gross cũng nóng ruột.
-Bà ấy ra lệnh tôi đọc mấy dòng đầu bản thảo. Đọc thật lớn. Bà lắng nghe. Bất thình lình, bà ra lệnh ngưng. Rồi bà biểu tôi, hãy để lại bản thảo, trở lại khách sạn, bà sẽ liên lạc liền…

(1) Ui chao bạn có nhớ cái đoạn TTT kể chuyện lần đầu tiên đọc MT, và sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và MT tâm sự, anh mà chê nó, là tôi bỏ cái mộng “đành làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái lần gửi bản thảo truyện ngắn đầu tay xuống tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày viết truyện ngắn hả, tao nghe thằng T nói, mà nó còn nói, mày viết được lắm....
*

Gấu có tới ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh,  trang VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong đó.

Quả thế thật. Đây là câu chuyện mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là những cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?