*




AGAINST WHATEVER IT IS THAT'S
ENCROACHING

Best of all is to be idle,
And especially on a Thursday,
And to sip wine while studying the light:
The way it ages, yellows, turns ashen
And then hesitates forever
On the threshold of the night
That could be bringing the first frost.

It's good to have a woman around just then.
And two is even better.
Let them whisper to each other
And eye you with a smirk.
Let them roll up their sleeves and unbutton their shirts a bit
As this fine old twilight deserves.

And the small schoolboy
Who has come home to a room almost dark
And now watches wide-eyed
The grown-ups raise their glasses to him.
The giddy-headed, red-haired woman
With eyes tightly shut.
As if she were about to cry or sing. 

Chống lại bất cứ cái chi đang xâm lấn

Bảnh nhất trong tất cả, là ườn ra, đếch làm cái chó gì
Và đặc biệt là vào bữa Thứ Năm
Nhâm nhi ly rượu chát trong khi ngâm kíu ánh sáng:
Cách mà nó già đi, trở nên vàng, rồi xám tro, và sau đó,
ngần ngừ hoài ở ngưỡng đêm
Điệu này là thể nào cũng có đợt sương mù đầu mùa.

Tốt, là có 1 em quanh quẩn bên Gấu
Hai em thì còn gì bằng.
Để cho họ thì thầm giữa họ mí nhau
Và nhìn Gấu, điệu ơi là điệu!
Hãy để cho hai em cuốn tay áo, buông lơi một, hai cái nút
Như buổi chạng vạng tuyệt vời này xứng đáng được chiêm ngưỡng.

Cậu học trò nhỏ tuổi
Trở về nhà, vô căn phòng hầu như đã tối
Và, trố mắt nhìn
Những kẻ lõi đời nâng ly mời chú
Và người đàn bà tóc đỏ, đầu lảo đảo,
Với cặp mắt nhắm tít,
Như thể em sắp khóc, hoặc, hát.

AN ADDRESS WITH EXCLAMATION POINTS

I accused History of gluttony;
Happiness of anorexia!

O History, cruel and mystical,
You ate Russia as if it were
A pot of white beans cooked with
Sausage, smoked ribs and ham hocks!

O Happiness, whose every miserly second
Is brimming with eternity!
You sat over a dish of vanilla custard
Without ever touching it!

The silent heavens were peeved!
They made the fair skies at sunset
Flash their teeth and burp from time to time,
Till our wedding picture slid off the wall.

The kitchen is closed, the waiters shouted!
No more vineyard snails in garlic butter!
No more ox tripe fried in onions!
We have only tears of happiness left!

Bài diễn văn với những chấm than

Tớ kết tội Lịch sử, tham ăn
Hạnh phúc, chán ăn! 

Ôi, Lịch sử, độc ác, và bí ẩn
Mi xực nước Nga, như thể nó là nồi đậu trắng,
Với xúc xích, suờn hun khói, và “ham hocks”!

Ôi hạnh phúc, mỗi thời khắc khốn khổ của nó
Sáng ngời lên với thiên thu, vĩnh viễn!
Mi ngồi lên một dĩa “custa vanilla”
[món sữa trứng va-ni]
Đếch thèm ngó, nói chi sờ thử, nếm thử! 

Những thiên đàng yên lặng dằn dỗi
Chúng tạo những bầu trời đẹp vào lúc hoàng hôn
Nhe răng ra, và lâu lâu ợ 1 phát
Cho tới khi hình đám cưới của chúng ta rớt khỏi tường

Nhà bếp đóng cửa, lũ bồi la ỏm tỏi
Hết còn món ốc sên nho trong bơ tỏi!
Hết còn món dạ dày bò trong hành!
Chúng ta chỉ còn những giọt nước mắt hạnh phúc bị bỏ lại

Rough Outline

The famous torturer takes a walk
Whom does he see standing there in the snow
A pretty girl in a wedding dress
What are you doing out there all alone in the cold 

You're the famous torturer much feared
I beg you to spare my love
Who is in your darkest prison cell
I wish to marry him etc. 

I will not give back your bridegroom
He must be tortured tonight
By me personally
You can come along and help him lament his fate 

She remained where she was
The night was cold and very long
Down by the slaughterhouse a, dog-like creature howled
Then the snow started to fall again

Charles Simic
 

Nan Đề

Tên tra tấn nổi tiếng làm 1 cú tản bộ
Ai đứng ngoài tuyết kia?
Một cô gái đẹp trong chiếc áo cưới
Làm sao mà đứng giữa trời tuyết một mình cô em?

Ông là tên tra tấn nổi tiếng và ai cũng rất sợ
Tôi năn nỉ ông tha cho người yêu của tôi
Đang nằm trong phòng giam âm u
Tôi mong được kết hôn với anh ta, vân vân và vân vân

Ta sẽ không trả lại chú rể cho cô bé đâu
Tối nay nó sẽ bị tra tấn
Cô có thể tới coi
Và giúp anh ta than thở số phận của mình

Cô gái đứng đó, nơi cô đứng đó
Đêm thì lạnh và thật là dài
Ở bên dưới phố, Phượng Trong Thành Nội,
kế bên căn nhà đ
ồ tể
một con vật giống như 1 con chó sói
tru lên.
Và tuyết lại bắt đầu đổ xuống

LINDENS

 
So much sweetness-
the city's been anesthetized;
a skinny boy, who barely
takes up space on earth,
and a dog,
and I, a soldier in an unseen war,
and a river I love.
The lindens bloom.

Adam Zagajewski

Đoan

Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ

SEPARATION


I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings, minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.

And for us? No elegies, no sonnets about parting,
 a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.

 Xa cách

Tôi đọc mà phát thèm thơ những người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa dở như hạch.

Và cho chúng ta ư? Không bi khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.

Note: Bài đầu, đúng là của Simic.
Hai bài sau, thua!

Thấy ghi là Trang thơ Giáng Sinh 2011.
NQT

Peter Stitt, trong “Imagination in the Ascendant: Charles Simic's Austerities", in trong Essays on the Poetry, phán: Simic nổi tiếng vì cái trò “chỉ là đồ chơi”, với cái độc ác của con người , Simic is famous for his handling of human cruelty.
Và ông dẫn chứng bằng bài thơ trên, Nan Đề, tạm dịch Rough Outline.

Gấu rất s thơ Simic, thời gian đầu đọc ông. Bây giờ thì quen, hoặc bớt sợ rồi!
Bạn đọc bài thơ trên, mà chẳng thấy sợ sao?

Một tay phê bình phán:
Charles Simic là một câu [C.S. is a sentence)
Quả thế thật:

Touching me, you touch
The country that has exiled you
The Wind

Cả bài thơ, chỉ có mỗi một câu.

Gió
Đụng ta, mi đụng
Cái xứ sở đã đầy mi lưu vong

SLAUGHTERHOUSE FLIES

Evenings, they ran their bloody feet
Over the pages of my schoolbooks.
With eyes closed, I can still hear
The trees on our street
Saying their moody farewell to summer,

And someone at home recalling
The weary old cows, hesitating,
At long last growing suspicious
Just as the blade drops down on them.

Ruồi Lò Mổ

Chiều tối, chúng rê chân máu
Lên trang vở của tôi
Mắt nhắm, tôi vẫn nghe cây ngoài đường
Ảo não giã từ mùa hè

Và một người nào đó ở nhà, nhớ tới
Những con bò già rã rời, ngần ngại,
Với nỗi nghi ngờ dài, sau cùng,
Mỗi lúc một tăng,
Và đúng lúc đó,
Lưỡi dao bổ xuống.

LITTLE UNWRITTEN BOOK

Rocky was a regular guy; a loyal friend.
The trouble was he was only a cat.
Let's practice, he'd say; and he'd pounce
On his shadow on the wall.
I have to admit, I didn't learn a thing.
I often sat watching him sleep.
If the birds tried to have a bit of fun in the yard,
He opened one eye;
I even commended him for good behavior.

He was black except for the white gloves he wore.
He played the piano in the parlor
By walking over its keys back and forth.
With exquisite tact he chewed my ear
If I wouldn't get up from my chair.
Then one day he vanished. I called.
I poked in the bushes.
I walked far into the woods.

The mornings were the hardest. I'd put out
A saucer of milk at the back door.
Peekaboo, a bird called out. She knew.
At one time we had ten farmhands working for us.
I'd make a megaphone with my hands and call.
I still do, though it's been years.
Rocky; I cry!
And now the bird is silent too.

Cuốn sách nhỏ không viết

Rocky là một gã đường được, một tên bạn đúng là bạn
Kẹt 1 phát, là hắn chỉ là một con mèo
Hãy thực tập này, gã nói, và thế là gã phóng lên vồ cái bóng của gã ở trên tường
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng học được gì, từ cú phóng đó.
Tôi thường ngồi ngắm gã ngủ.
Nếu những con chim bày trò gì đó ở ngoài sân
Gã mở 1 con mắt.
Tôi đã từng đi 1 đường mo ran, này, hãy cư xử cho đèm đẹp, nghe chưa!

Một con mèo mun, trừ cặp bao tay trắng
Gã chơi dương cầm ở phòng khách,
Bằng cách bước tới bước lui trên những phím đàn
Với 1 cú thần sầu, gã “day day” cái tai của tôi
Nếu tôi cứ ngồi lỳ trên ghế, đếch chịu đứng dậy
Thế rồi 1 ngày, gã biến mất.
Tôi gào gọi
Tôi lục lạo mấy bụi cây.
Tôi đi vô cả những cánh rừng

Những buổi sáng mới căng ơi là căng
Một cái dĩa sữa để ở cửa sau
Peekabo, một con chim gọi lớn. Ẻn biết.
Có 1 dạo có chừng mươi người làm vườn trại cho chúng tôi
Tôi vòng tay làm cái ống loa, và gọi lớn.
Tôi vẫn làm như vậy, dù bao năm tháng đã qua đi
Rocky, tôi khóc thảm thiết
Và bây giờ
Những con chim
Cũng nín thinh

Jackstraws

My shadow and your shadow on the wall
Caught with arms raised
In display of exaggerated alarm,
Now that even a whisper, even a breath
Will upset the remaining straws
Still standing on the table 

In the circle of yellow lamplight,
These few roof-beams and columns
Of what could be a Mogul Emperor's palace.
The Prince chews his long nails,
The Princess lowers her green eyelids.
They both smoke too much,
Never go to bed before daybreak.

Charles Simic: Jackstraws

jack·straw: Trò chơi rút 1 cọng rơm trong 1 bó, làm sao không đụng tới những cọng còn lại [a game in which a set of straws or thin strips is let fall in a heap with each player in turn trying to remove one at a time without disturbing the rest]

Rút cọng rơm

Bóng của GNV và của BHD thì ở trên tường
Xoắn vào nhau, bốn cánh tay dâng cao
Trong cái thế báo động hơi bị thái quá,
Và bây giờ, chỉ cần một lời thì thầm,
có khi chỉ một hơi thở thật nhẹ
Cũng đủ làm bực mình cả đám còn lại
Vẫn đứng trên mặt bàn 

Trong cái vòng tròn ánh sáng đèn màu vàng
Vài cây xà, cây cột
của cái có thể là Cung Ðiện của Hoàng Ðế Mogul.
GNV cắn móng tay dài thòng,
BHD rủ cặp mí mắt xanh.
Cả hai đều hút thuốc lá nhiều quá,
Chẳng bao giờ chịu đi ngủ trước khi đêm qua.

Charles Simic


THE TIGER

in memory of George Oppen

In San Francisco, that winter,
There was a dark little store
Full of sleepy Buddhas.
The afternoon I walked in,
No one came out to greet me.
I stood among the sages
As if trying to read their thoughts.

One was huge and made of stone.
A few were the size of a child's head
And had stains the color of dried blood.
There were some no bigger than mice,
And they appeared to be listening.

"The winds of March, black winds,
The gritty winds," the dead poet wrote.

At sundown his street was empty
Except for my long shadow
Open before me like scissors.
There was his house where I told the story
Of the Russian soldier,
The one who looked Chinese.

He lay wounded in my father's bed,
And I brought him water and matches.
For that he gave me a little tiger
Made of ivory. Its mouth was open in anger,
But it had no stripes left.

There was the night when I colored
Its eyes black, its tongue red.
My mother held the lamp for me,
While worrying about the kind of luck
This beast might bring us.

The tiger in my hand growled faindy
When we were alone in the dark,
But when I put my ear to the poet's door
That afternoon, I heard nothing.

"The winds of march, black winds,
The gritty winds," he once wrote.
 

Ông Ba Mươi

Tưởng nhớ George Oppen

Khóc đi Nguyễn,
Mùa này gió biển thổi điên lên lục địa
TTT 

Ở San Francisco, mùa đông đó
Có một cửa tiệm tối thui
Đầy những tượng Phật thiu thiu ngủ.
Một buổi xế trưa tôi bước vô
Chẳng ai bước ra chào đón.
Tôi đứng giữa những vị hiền giả
Như cố đọc tư tưởng của họ.

Một đấng bự, bằng đá
Một vài đấng chỉ bằng cái đầu một đứa trẻ
Và có những vệt máu khô
Có một vài đấng chẳng lớn hơn con chuột nhắt
Và, ui chao, họ đều như có vẻ đang lắng nghe!

“Những trận gió tháng Ba, những trận gió đen,
Những trận gió gan góc”, nhà thơ đã mất, viết.

Vào lúc trời về chiều, con phố của ông trống rỗng
Nếu không tính đến cái bóng dài thòng của tôi
Mở ra trước mắt tôi như cây kéo
Có căn nhà của ông, nơi tôi kể câu chuyện
Về người lính Nga
Trông giống như 1 anh Tẫu.

Anh ta nằm, bị thương, trong cái giường của cha tôi
Và tôi mang cho anh ta, nước và quẹt
Và anh ta cho lại tôi một con hổ nhỏ
Bằng ngà. Miệng nó mở ra, giận dữ
Nhưng mình chẳng có sọc, vằn nào.

Có 1 đêm tôi sơn con hổ
Mắt sơn đen, lưỡi, đỏ.
Má tôi giúp tôi, cầm cây đèn
Trong khi tần ngần, không biết thứ may mắn nào
Con vật mang lại cho chúng tôi.

Con hổ trong tay tôi uể oải gầm gừ
Khi chúng tôi trơ trọi trong bóng tối
Nhưng khi tôi áp tai vô cửa phòng nhà thơ
Buổi chiều hôm đó, tôi không nghe thấy gì.

“Gió Tháng Ba, gió đen,
Gió gân guốc,” nhà thơ, có lần viết.


&

Note: Cuốn này, mua "xôn" mất "áo mưa", mừng quá!

Little Boat, Take Care

We see nothing except what is unimportant to see,
I recall my father saying.
His room was empty of furniture.
Even the wall next to his bed where he rested his head
Now seemed unfamiliar. 

Come evening, store windows have their own reveries.
When found out, they appear surprised
To see us and not someone else walking by.
Lost soul, where have you been hiding?
I thought I heard one of them whisper

As I made my way back to the car
Which sat alone in a huge parking lot
With a pretty view of the bridge and the bay.
One little sailboat still left on it,
Heading bravely out to the open sea.

Charles Simic: Master of Disguises

 

Cánh buồm nhỏ kia ơi, hãy cẩn trọng

Chúng ta chẳng nhìn thấy gì,
ngoại trừ điều chẳng đáng nhìn
Tôi nhớ cha tôi nói như vậy
Căn phòng của ông thì trống trơn,
chẳng bày biện một món gì
Ngay cả bức tuờng kế cái giuờng ông thường dựa đầu
Bây giờ thấy kỳ kỳ không giống như ngày nào 

Chiều tối tới, những cửa kính nhà hàng
có những giấc mơ của riêng chúng.
Khi bị phát giác, chúng có vẻ ngạc nhiên
Nhìn chúng tôi, không phải một người nào đó, bước qua
Những cô hồn vất vưởng kia ơi, tụi mi trốn ở đâu rồi?
Tôi nghĩ, vừa nghe có tiếng thì thầm của một trong bọn.

Khi tôi làm 1 tua trở về với chiếc xe
Nằm cô đơn tại bãi đậu lớn
Có cái nhìn thật đẹp về phía cây cầu và bãi biển
Một cánh buồm nhỏ vẫn còn bị bỏ ở đó,
Can đảm lên đường, ra biển rộng ngoài kia

Charles Simic

SINISTER COMPANY

Just the other day
On the busy street
You stopped to search your pockets
For some change
When you noticed them following you:

Blind, deaf, mad and homeless,
Out of respect keeping their distance.
You are our Emperor! they shouted.
Chief executioner!
The world's greatest tamer of wild beasts!

As for your pockets,
There was a hole in each one
At which they drew close
Touching you everywhere,
Raising a paper crown to your head.

Bạn hiểm

Đúng bữa đó đó
Trên phố đông người
Bạn ngưng lại để lục túi
Kiếm tiền lẻ
Và đúng lúc đó bạn để ý họ theo bạn:

Mù, điếc, khùng, vô gia cư
Giữ 1 khoảng cách, do kính trọng.
Mi là Hoàng Đế của chúng ta! Họ la lớn
HPNT!
Tên thuần hóa thú dữ vĩ đại nhất của thế giới!

Về cái vụ túi của bạn:
Hai túi hai bên, túi nào thì cũng có 1 lỗ hổng
Và đúng vào lúc đó, bạn hiểm kéo tới sát gần
Đụng mọi chỗ, mọi nơi
Đội 1 cái vương miện bằng giấy lên đầu bạn.

IN THE JUNK STORE

A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.

I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.

Charles Simic: The Little Something

Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ

Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!

Gấu lật lật 1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!

Hà, hà!

Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….

UNMADE BEDS

They like shady rooms.
Peeling wallpaper.
Cracks on the ceiling,
Flies on the pillow.

If you are tempted to lie down.
Don't be surprised.
You won't mind the dirty sheets,
The rasp of rusty springs
As you make yourself comfy.
The room is a darkened movie theater
Where a grainy,
Black-and-white film is being shown.

A blur of disrobed bodies
In the moment of sweet indolence
That follows lovemaking.
When the meanest of hearts
Comes to believe
Happiness can last forever.

Giường chiếu xô bồ

Họ thích những căn phòng lù mù
Giấy dán tường long tróc
Sàn nhà cọt kẹt
Ruồi bậu trên gối

Nếu bạn tính đặt lưng
Đừng ngạc nhiên
Và cũng đừng thèm để ý đến khăn trải giường dơ
Tiếng ken két của những lò so sét gỉ
Cố cảm thấy thoải mái
Căn phòng là một rạp hát tối thui
Nơi một cuốn phim đen trắng lem nhem những cục sạn đang được chiếu

Lờ mờ những thân hình trần trụi
Vào khoảnh khắc nhếch nhác ngọt ngào
Liền sau cú làm tình
Khi chút bèo bọt của con tim
Cũng tin rằng hạnh phúc
Có thể kéo dài vĩnh viễn

           

THE ONE TO WORRY ABOUT

I failed miserably at imagining nothing.
Something always came to keep me company:
A small nameless bug crossing the table,
The memory of my mother, the ringing in my ear.
I was distracted and perplexed.
A hole is invariably a hole in something.

About seven this morning, a lone beggar
Waited for me with his small, sickly dog,
Whose eyes grew bigger on seeing me.
There goes, the eyes said, that nice man
To whom (appearances to the contrary)
Nothing in this whole wide world is sacred.

I was still a trifle upset entering the bakery
When an unknown woman stepped out
Of the back to wait on me dressed for a night
On the town in a low-cut, tight-fitting black dress.
Her face was solemn, her eyes averted,
While she placed a muffin in my hand,
As if all along she knew what I was thinking.

Người âu lo

Tôi thất bại một cách thê thảm khi tưởng tượng chẳng cái gì
Một cái gì luôn luôn tới cặp kè với tôi:
Một con bọ nhỏ không tên bò qua bàn
Hối nhớ về bà cụ, tiếng chuông reo trong tai.
Tôi sao nhãng, và xốn xang
Một cái lỗ thì lúc nào mà chẳng là 1 cái lỗ trong một cái gì đó. 

Chừng bẩy giờ sáng, một gã ăn xin bơ vơ, mình ên
Đợi tôi, với con chó nhỏ bịnh hoạn của anh ta
Mắt trở lên lớn hơn khi nhìn thấy tôi,
Đây rồi, cặp mắt nói, gã đờn ông dễ chịu,
Với anh ta (bề ngoài khác hẳn như thế)
Chẳng có gì, trên trọn thế gian rộng lớn này, là thiêng liêng.

Tôi thì vưỡn hơi có tí bực đi vô tiệm nướng bánh
Khi một người đàn bà không quen biết,
bước ra khỏi phía sau, đợi tôi,
ăn bận cho một đêm trong thành phố,
trong cái áo dài đen cổ thấp, chật gọn.
Mặt bà ta trang trọng, mắt nhìn đi chỗ khác
Trong lúc đặt vô tay tôi cái bánh muffin
Như thể bà biết tỏng tôi đang nghĩ gì.

THAT LITTLE SOMETHING

for Li-Young Lee

 The likelihood of ever finding it is small.
It's like being accosted by a woman
And asked to help her look for a pearl
She lost right here in the street. 

She could be making it all up,
Even her tears, you say to yourself,
As you search under your feet,
Thinking, Not in a million years ... 

It's one of those summer afternoons
When one needs a good excuse
To step out of a cool shade.
In the meantime, what ever became of her? 

And why, years later, do you still,
Off and on, cast your eyes to the ground
As you hurry to some appointment
Where you are now certain to arrive late?

Charles Simic 

Dịch theo kiểu classic : 

Một chút gì 

Sẽ chẳng bao giờ biết được đâu
Chút gì rất nhẹ ... tựa hôm nào
Nàng đến kề bên, nhờ tìm giúp
Giữa đường rơi một hạt minh châu 

Có thể rằng Nàng bịa đấy thôi
E rằng nước mắt cũng vờ rơi
Mắt dò dưới chân, lòng thầm nghĩ
Tìm suốt triệu năm cũng chỉ hoài 

Hôm ấy, một chiều của mùa hè
Cuồng chân trong bóng mát im che
Viện trăm ngàn cớ mà ra khỏi ...
Còn Nàng , vì cớ gì vậy kìa ? 

Thế thôi mà sao sau bao năm
Thi thoảng mắt lại dò mặt đường
Những lần vội đến nơi hò hẹn
Dù biết mười mươi, trễ, chuyện thường (1)

K

Tks. NQT

GCC biết đến cái tên Li-Young Lee là qua bài thơ trên.

LEE: I feel a poetic truth is closer than any truth that we can approach. The closer something is to poetry, the closer it is to reality. Let's just take the lyric poem as an example-the manifold quality of a lyric poem, the instantaneousness of a lyric poem, the feeling that many consciousnesses are simultaneously being enacted-that is closer to reality. The lyric moment is reality. But we don't always live in that reality. The lyric moment is closer to the truth, to me, than a narrative which is a fictive process.
My hope when I was writing this book was that I could proceed by a deeper compass than narrative fictive logic. I don't think I escape narrative in this book, but I wish I could.

Note: Câu trả lời trên chứa chất trong nó tham vọng viết văn của GNV:

Văn phải được chuyên chở bằng thơ. Gấu này không thể chịu nổi văn Bắc Kít, câu cụt thun lủn, chưa viết đã hăm he lên lớp, hăm he giải thích, hăm he chính luận.
Không tin, đọc SCN là thấy liền!

Gấu nhớ là, khi viết xong câu văn dưới đây, trong truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở Sài Gòn, Gấu sướng mê tơi, lấy xe chạy rong suốt 1 cõi Sài Gòn, ta sẽ là nhà văn, ta sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết nối liền hai thành phố….
Ui chao, sao mà rồ dại một cách tuyệt vời như thế cơ chứ!

Niên học cuối cùng của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết. (a)

Cuối cùng/bắt đầu/ xô đẩy/… câu văn chạy tới đâu, tình yêu BHD rạt rào tới đó!

Charles Simic

The Dictionary

Maybe there is a word in it somewhere
to describe the world this morning,
a word for the way the early light
takes delight in chasing the darkness
out of store windows and doorways

Another word for the way it lingers
over a pair of wire-rimmed glasses
someone let drop on the sidewalk
last night and staggered off blindly
talking to himself or breaking into song.

Từ điển

Có thể có một từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng. 

Một từ khác, qua đó, nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng dây,
mà một người nào đó, bỏ rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm bèm với chính mình, hay bật thành bài ca.

Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st, 2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy trên Blog NL nên bê về đây.

Còn bài này cũng thú lắm:

June 25, 2013
Vasily Grossman: Loser, Saint [Kẻ Thua, Vì Thánh]
Posted by Sam Sacks

Note: Nhân trong bài viết của NL nhắc tới Borges & Tư & Từ Điển, bèn đi thêm bài này.

On Acquiring an Encyclopedia

Here's the huge Brockhaus encyclopedia,
with those many crammed volumes and an atlas,
here is Germanic dedication,
here are neo-Platonists and Gnostics,
the first Adam is here and the Adam of Bremen,
the tiger and the Tartar,
painstaking typography and the blue of oceans,
here are time's memory and time's labyrinths,
here are error and truth,
here the protracted miscellany more learned than any man,
here the sum total of all late hours kept.
Here, too, are eyes of no use, hands that lose their way,
pages unreadable,
the dim semishade of blindness, walls that recede.
But also here is a habit new
to that long-standing habit, the house,
a drawing-card and a presence,
the mysterious love of things-
things unaware of themselves and of us.

-A.S.T. 

Jorge Luis Borges: Selected Poems, [Penguin Classics]

Về chuyện có bộ Bách Khoa

Đây là bộ bách khoa toàn thư Brockhaus tổ bố
Với rất nhiều tập chật ních từ và tập bản đồ
Đây là lời đề tặng bằng tiếng Đức
Đây là những tân-Platonists, những Gnostics
Adam đầu tiên ở đây, và Adam Bremen,
Con hổ và những người Tác Ta,
In ấn cần cù, và màu xanh của biển,
Đây là hồi ức thời gian, và những mê cung của nó
Đây là lầm lẫn và sự thực,
Đây là tuyển tập văn học kéo dài được học hỏi nhiều hơn bất cứ 1 người nào
Đây là tổng số của tất cả những giờ muộn màng được cất giữ
Còn đây nữa, là những cặp mắt đếch còn biết dùng làm gì,
những bàn tay mất mẹ đường mầy mò,
những trang sách đếch làm sao đọc được nữa
Sự mù dở, những bức tường lùi dần
Nhưng ở đây cũng còn là một thói quen mới
Thay cho thói quen đứng dài người, căn nhà, bản vẻ, và 1 hiện diện, tình yêu kỳ bí sự vật –
Những sự vật đếch thèm để ý đến chính chúng, và chúng  ta

PRODIGY 

I grew up bent over
a chessboard.

I loved the word endgame.

All my cousins looked worried. 

It was a small house
near a Roman graveyard.
Planes and tanks
shook its windowpanes. 

A retired professor of astronomy
taught me how to play. 

That must have been in 1944. 

In the set we were using,
the paint had almost chipped off
the black pieces. 

The white King was missing
and had to be substituted for. 

I'm told but do not believe
that that summer I witnessed men
hung from telephone poles. 

I remember my mother
blindfolding me a lot.

She had a way of tucking my head
suddenly under her overcoat. 

In chess, too, the professor told me,
the masters play blindfolded,
the great ones on several boards
at the same time. 

Người Phi Thường

 

Tôi lớn lên, trên
một cái bàn cờ 

Tôi mê cái từ tàn cuộc 

Tất cả bà con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng. 

Ðó là 1 căn nhà nhỏ
ở gần một nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và xe tăng
lắc lắc mấy khung cửa sổ của nó 

Một vị giáo sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi cờ 

Hẳn là năm 1944

Bộ cờ của chúng tôi
Quân đen tróc sơn gần hết 

Tướng Trắng, mất
Phải thay bằng một mẩu gỗ 

Tôi nghe kể nhưng không tin
rằng mùa hè năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những cột điện thoại 

Tôi nhớ mẹ tôi đã
bịt mắt tôi khá nhiều lần

Bà luôn luôn có cái cách của bà
bất thình lình cuốn đầu tôi
trong chiếc áo khoác của bà 

Trong cờ tướng, thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại sư phụ thường chơi,
cùng một lúc vài cuộc cờ. (1)

Charles Simic

Còn điều này nữa trong quá khứ mà chỉ mới đây thôi tôi mới nhận ra, nó đóng góp vào cái sự “dai như đỉa”, kiên trì mần thơ, đó là tình yêu của tôi dành cho môn chơi cờ. Tôi học chơi cờ vào thời gian chiến tranh ở Belgrade, sư phụ là 1 vị giáo sư thiên văn về hưu, tôi khi đó 6 tuổi, và chỉ vài năm tiếp theo, tôi trở thành một cao thủ, nghĩa là, chơi đủ bảnh để hạ không chỉ tất cả đám con nít cùng tuổi,  mà còn rất nhiều đấng trưởng thành lối xóm. Những đêm mất ngủ đầu tiên trong đời, tôi nhớ lại, thì đều là do những ván cờ bị thua hành, khi tôi chơi lại chúng ở trong đầu. Cờ ám tôi và biến tôi trở thành ngoan cố, kiên cường. Ngay từ lúc còn bé tí như thế đó, mà tôi đã không thể nào quên nổi một nước cờ đi lầm, một trận cờ thất bại nhục nhã. Tôi cực mê những trận cờ mà đôi bên cùng lâm vào cái thế gọi là “tàn cờ”, mỗi bên chỉ còn vài quân, và mỗi nước đi, vào lúc đó, mới cực kỳ ý nghĩa làm sao. Ngay cả bây giờ, khi đối thủ của tôi là một chương trình máy tính (tôi gọi nó là “Thượng Đế”), đánh bại tôi 9 trong 10 trận, tôi không chỉ kinh sợ cái thông minh trên cơ của nó, nhưng còn nhận ra, những lần thua của tôi mới thú vị làm sao so với những lần thắng hiếm hoi. Những thứ thơ mà tôi viết, phần lớn là ngắn, và đòi hỏi sửa đi sửa lại, chắp chắp, vá vá hoài hoài, bất tận – thường gợi lên ở nơi tôi những trận cờ. Sự thành công của chúng tùy thuộc từ ngữ và hình ảnh được đặt đúng thứ tự, và những kết thúc của chúng thì không tránh được, và ngạc nhiên, như một cú chiếu bí lịch lãm.

Ui chao, Gấu lại nhớ lần thi Tú Tài Hai, ngồi trong phòng thi, chỉ nhớ những con xe, con mã, và kết quả là rớt, phải đến kỳ hai mới qua được.

Cũng như Simic, Gấu thuộc loại cao thủ, trong lớp tài tử, không phải thứ nhà nghề. Nhưng chỉ đến khi ở trong trại tị nạn Thái Lan, gặp 1 tay, vốn là bộ đội Cụ Hồ, và được tay này chỉ giáo, cờ của Gấu mới vượt hẳn lên 1 bực, và gần như chưa gặp được địch thủ, kể từ đó!

Một lúc chơi vài cuộc cũng là cái thú của Gấu, khi làm trang Tin Văn, và chính vì thế, làm bạn đọc bực mình, bài nào cũng nham nhở, chẳng bài nào hoàn tất!

Hà, hà!

Old Soldier

By the time I was five,
I had fought in hundreds of battles,
Had killed thousands
And suffered many wounds
Only to rise and fight again.

After the bombing raid, the sky was full
Of flying cinders and birds.
My mother took me by the hand
And led me into the garden
Where the cherry trees were in flower.

There was a cat grooming herself
Whose tail I wanted to pull,
But I let her be for a moment,
Since I was busy swinging at flies
With a sword made of cardboard.

All I needed was a horse to ride,
Like the one hitched to a hearse,
Outside a pile of rubble,
Waiting with its head lowered
For them to finish loading the coffins.

Charles Simic

Lính Già

Vào lúc năm tuổi
Gấu đã trải qua hàng trăm trận đánh
Làm thịt hàng ngàn tên VC
Và đau đớn vì rất nhiều vết thương, trong có cú nhà hàng nổi Mỹ Cảnh,
Một mình đợp hai trái mìn của BVVC của Gấu là ĐH
Chỉ để lại bật dậy và chiến đấu tiếp

Sau trận oanh tạc, bầu trời thì đầy những xỉ than bay và chim
Mẹ Gấu cầm tay Gấu
Dẫn ra ngoài vườn
Nơi những cây anh đào đang nở rộ

Có một con mèo tự liếm mình,
Mà cái đuôi thì Gấu muốn kéo
Nhưng thôi tha cho nó
Bởi là Gấu đang bận rộn chém lũ ruồi
Bằng cây gươm làm bằng giấy bìa

Tất cả những gì Gấu cần, thì là 1 chú ngựa để cưỡi
Như chú ngựa nhà đòn,
Ở ngoài đống gạch vụn,
Đợi, với cái đầu thấp xuống
Để chất quan tài



Charles Simic

EMPTY BARBERSHOP

In pursuit of happiness, you may yet
Draw close to it momentarily
In one of these two leather-bound chairs
With the help of scissors and a comb,

Draped to the chin with a long white sheet,
While your head slips through
The invisible barber's greasy fingers
Making your hair stand up straight,

While he presses the razor to your throat,
Causing your eyes to spring open
As you discern in the mirror before you
The full length of the empty barbershop

With two vacant chairs and past them
The street, commensurately empty,
Except for the pressed and blurred face
Of someone straining to look inside. 

Tiệm hớt tóc trống vắng

Trong khi chạy đuổi, tìm kiếm hạnh phúc
Bạn có thể, thoáng chốc, xém tóm được nó
Khi ngồi trong chiếc ghế của đấng thợ cạo
Với sự trợ giúp của cây kéo và cái lược 

Choàng khăn tới tận cằm
Trong khi đầu của bạn lọt vô mấy ngón tay
béo ngậy của anh thợ cạo vô hình
Làm tóc của bạn dựng đứng như ngọn tháp

Anh ta đi 1 đường dao qua cổ bạn
Hai tròng mắt của bạn như bật ra khỏi hai cái lỗ vì sợ
Khi nhìn trong gương, thấy cả tiệm hớt tóc,
trống rỗng, dài thòng!

Qua hai ghế bỏ trống,
Con phố, cũng trống không
Ngoại trừ 1 khuôn mặt mờ mờ, hối hả,
Nhìn vô bên trong

IN THE STREET

Beauty, dark goddess,

We met and parted
As though we parted not.

Like two stopped watches
In a dusty store window,

One golden morning

Trong con phố

Nhan sắc, Hắc Nữ Thần, BHD

Đôi ta gặp, và đi
Mà hình như cũng chẳng
đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt

Như hai cái đồng hồ ngưng chạy
Trong một cửa kính bụi bặm

Một buổi sáng bằng vàng

Paradise Motel

Millions were dead; everybody was innocent.
I stayed in my room. The President
Spoke of war as of a magic love potion.
My eyes were opened in astonishment.
In a mirror my face appeared to me
Like a twice-canceled postage stamp. 

I lived well, but life was awful.
there were so many soldiers that day,
So many refugees crowding the roads.
Naturally, they all vanished
With a touch of the hand.
History licked the corners of its bloody mouth. 

On the pay channel, a man and a woman
Were trading hungry kisses and tearing off
Each other's clothes while I looked on
With the sound off and the room dark
Except for the screen where the color
Had too much red in it, too much pink. 

Charles Simic 

Phòng Ngủ Thiên Đàng

Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới hai lần

Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu của nó

Trên băng tần phải trả tiền,
Một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi những cái hôn thèm khát
Xé nát quần áo của nhau
Gấu trố mắt nhìn
Âm thanh tắt và căn phòng tối
Trừ màn hình,
Đỏ như máu
Hồng như Đông Phương Hồng

Simic

VIA DEL TRITONE

In Rome, on the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw a house
With shutters closed, the sight of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left inconsolably. 

The ochre walls, the battered old door
I was tempted to push open and didn't,
Knowing already the coolness of the entrance,
The garden with a palm tree beyond,
And the dark stairs on the left.

Shutters closed to cool shadowy rooms
With impossibly high ceilings,
And here and there a watery mirror
And my pale and contorted face
To greet me and startle me again and again.

"You found what you were looking for,"
I expected someone to whisper.
But there was no one, neither there
Nor in the street, which was deserted
In that monstrous heat that gives birth
To false memories and tritons.

Charles Simic

VIA DEL TRITONE

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.

Tường màu gạch son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy cửa, nhưng không làm
Biết rõ cái lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn vào căn nhà,
Căn vườn với 1 cây sồi quá nó,
Và những cầu thang u tối ở phía trái.

Rèm cửa đóng dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị thật là cao
Và đâu đó, là một cái gương long lanh nước
Và khuôn mặt của tôi nhợt nhạt, méo mó
Ðón chào tôi, và làm tôi giật mình hoài

"Mi kiếm ra cái mà mi tính kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người nửa cá

One poem is unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not have recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal images. It begins simply: 

In Rome, on the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw a house
With shutters closed, the sight of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left inconsolably.

Simic goes on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm tree, dark stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you were looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous work, has Simic expressed the pain of his exile in such a straightforward way. His outsider's status was always an advantage, teaching him that life was unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of his poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most fragile of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you reclaim a childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall. His are "false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the place where his childhood should have been, salvage becomes less possible. The poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost, / If it was ever, however briefly, mine."

Lisa Sack: Charles the Great: Charles Simic’s A Wedding in Hell 

Bài thơ này thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình ảnh siêu thực.

Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.

Sau đó, tác giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ, trong những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng thừng như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông rằng đời thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở đây, nỗi đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất. Ông làm sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không như Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do cái nóng khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra tuổi thơ xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ trang giấy:
Hãy giúp tôi tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã từng là của tôi.

Bài này, đọc lại, tuyệt thật.
NQT [20.6.2013]

Graveside Oration

Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.

He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap.

Điếu văn bên mồ

Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H. !]
Ghét đờn bà ngọt ngào như mía lùi

Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.
Dead Season

This landscape with its somber skies
Must have fallen in love
With a story by Edgar Allan Poe.
One of its birch trees could be his Eleonora,
And the other, further on, Ligeia.

Life is a dream within a dream,
Whisper the fallen leaves under our feet.
The old house, softly lit from within
By its copper pots and mirrors,
Seems even more abandoned this evening.

What if I were to knock on its door?
Keeping in mind, as I push it open
And enter cautiously, that for Poe
Beauty could be the cause of sudden death.

Charles Simic
The Paris Review, Spring 2010

Mùa Chết

Khung cảnh này với bầu trời xám xịt của nó,
hẳn là đang khật khừ vì tương tư,
một câu chuyện của Edgar Allan Poe.
Một trong những cây bu lô hẳn là
Eleonora của ông ta
Và cái cây kia, có thể là Ligeia.

Đời là mơ trong mơ,
Những lá khô dưới chân chúng ta thì thào.
Căn nhà cổ, sáng nhè nhẹ từ bên trong nó,
Qua mấy cây đèn đồng, và những tấm gương,
Có vẻ hoang phế hơn nhiều,
Vào một buổi chiều tối như thế này.

Chuyện gì xẩy ra nếu tôi gõ cửa?
Và luôn nhớ rõ điều này,
Khi rón rén bước vô căn nhà,
Với Poe,
Cái Đẹp có thể là nguyên nhân của cái chết bất thần.


*

*

Cafe Trieste: San Francisco

To: L.G. 

To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word. 

Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.

Cold, through the large steamed window
watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.

Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch 

just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx 

Your golden mane!
Your riddle! The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear.” 

Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast?

Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs? 

Still, if sins are forgiven
that is, if souls break even
with flesh elsewhere, this joint,
too, must be enjoyed

as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive

[ 1980 ]

Joseph Brodsky: To Urania

Charles Simic là nhà thơ vòng nguyệt quế, Poet Laureate, của Mẽo. Bữa trước, cầm tập thơ của ông lên, đâu chừng chục bài, đề giá trên ba chục, chưa tính thuế, bấm bụng mua, xót quá, về, lên net, thấy đầy thơ của ông, nhưng mấy bài trên, mới xuất hiện trên tờ The Paris Review, thật tuyệt.

Bài thơ "Uống cà phê Quán Chùa" của Brodsky mà chẳng tuyệt cú mèo sao ?
Khổ thơ đầu mới sướng làm sao.
Nó làm nhớ lời hát, "uống môi em ngọt", của PD:

Nơi góc con phố có Quán Chùa,
Tôi trở về nơi này,
Như một tiếng vang.
Về với đôi môi ,
thèm một nụ hôn
hơn là câu hát,
"đừng yêu lính bằng lời"!

DOUBLES

In my youth, women often took me aside
And told me I reminded them of
A dead brother, an uncle, a late lover.

Some of them wore beards.
One lay with slashed wrists in a tub.
Another of my doubles had gone for a walk
And never came back from the woods.

It was evening; it was long ago, of course.
One played the piano beautifully
So that strangers knocked on his door.
Another went for a ride in a balloon.
The last time anyone saw me alive:
I was either wearing dark glasses
And reading the Bible on the subway,
Or crossing the street and laughing to myself

Charles Simic: That little something 

Có bao nhiêu tên Gấu?


Khi còn trẻ, nhiều bà xồn xồn
kéo Gấu ra một góc, và thì thầm,
Em thật giống một ông anh,1 ông chú,
một người yêu đã đi xa của… chị!

Trong số họ, có người mang râu.
Một người nằm trong một cái chậu, cổ tay bị cắt.
Một Gấu khác thì làm 1 cú tản bộ,
Và không thấy trở về từ phía khu rừng [đêm]

Đó là 1 buổi chiều, xa xưa lắm rồi, lẽ tất nhiên.
Một Gấu chơi dương cầm cực hay, cực đẹp,
Và thế là bao nhiêu kẻ lạ đổ xô tới
gõ cửa phòng [đổ xô vô trang net TV], của hắn.
Một Gấu khác leo lên một quả bóng,
Làm 1 chuyến viễn du,
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản!

Lần chót mà người ta nhìn thấy Gấu,
còn sống:
Hắn đeo kính râm, ngồi ở Quán Chùa.
Hay đọc Sách Đen, ở một ổ chích ở Ngã Sáu Sài Gòn.
Hay chạy theo BHD ở Đại Lộ Cộng Hòa,
Ngay trước cổng trường Đại Học Khoa Học.
Khóc như cha chết,
Vì BHD bỏ hắn!

SCHOOL FOR VISIONARIES

The teacher sits with eyes closed.
When you play chess alone it's always your move.
I' m in the last row with a firefly in the palm of my hand.
The girl with red braids, who saw the girl with red braids?

*

Do you believe in something truer than truth?
Do you prick your ears even when you know damn well
no one is coming?
Does that explain the lines on your forehead?
Your invisible friend, what happened to her?

*

The rushing wind slides to a stop to listen.
The prisoner opens the thick dictionary lying on his knees.
The floor is cold and his feet are bare.
A chew-toy of the gods, is that him?

*

Do you stare and stare at every black windowpane
As if it were a photo of your unsmiling parents?
Are you homesick for the house of cards?
The sad late-night cough, is it yours?

Charles Simic: The Voice at 3:00 A.M.

 

Trường dành cho những nhà tiên tri

Ông thầy ngồi mắt nhắm tít
Khi bạn chơi cờ tướng 1 mình, thì luôn luôn tới lượt bạn đi
Tôi ngồi ở hàng chót với con đom đóm ở trong lòng bàn tay
Thiếu nữ với bím tóc đỏ, ai thấy cô gái với bím tóc đỏ? 

Bạn tin ở điều thực hơn sự thực?
Bạn có nhích nhích vành tai của bạn lên, khi bạn biết đếch có ai mò tới?
Liệu điều đó giải thích mấy nếp nhăn trên trán bạn?
Người bạn vô hình của bạn, chuyện gì xẩy ra cho cô ta?

Ngọn gió vội vàng lạng 1 đường ngưng, để lắng nghe
Người tù mở cuốn từ điển dày cộm trên đầu gối
Sàn nhà thì lạnh, chân anh ta thì trần
Một món đồ chơi giải buồn của những vị thần, là anh ta?

Bạn có khi nào nhìn chòng chọc, rồi lại nhìn chòng chọc, mọi cửa sổ đen
Như thể đó là tấm hình của ông bô bà bô không mỉm cười của bạn?
Bạn nhớ nhà ư, căn nhà của những quân bài?
Tiếng ho buồn, muộn, trong đêm, chắc là của bạn?

Note: Lâu lắm rồi mới dám trở lại với thơ Charles Simic!


Thơ Mỗi Ngày

Thơ là để trao cho thi sĩ. Borges phán.
GCC thêm vô, nhưng có những bài thơ, được trao cho, chỉ 1 thi sĩ.
Thí dụ bài “Vietnam”, của Szymborksa.
Thi sĩ Mít không thể làm được bài này.
Bởi vì phải đau cuộc chiến Mít tới cỡ nào thì mới làm nổi bài thơ trên.
Cũng thế, là bài sau đây, cũng của Bà:

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Bài thơ này, GCC đọc trên NYRB, 11.11.2010, bèn chôm liền.
Tình cờ sao, tay Prospero, cũng đọc, nhưng trên lưới, và cũng chôm liền, và đi một đường vinh danh thực là tuyệt vời: Bài thơ chống lại Tận Thế

Bài "Với Paul Celan", " For Paul Celan", của Andrea Zanzoto, đặt ra vấn nạn Celan quá vấn nạn Lò Thiêu:
Với bất cứ ai, và đặc biệt với một người làm thơ, tiếp cận thơ Celan, ngay cả trong bản dịch, tản mạn, từng khúc, từng đoạn, thì đúng là 1 kinh nghiệm tả tơi, shattering experience. Ông bày ra, represents, một sự thực hiện, the realization, của một điều gì có vẻ vô phương, bất khả, that seemed impossble:
Không chỉ là không thể làm thơ sau Auschwitz, mà còn là, viết "ở bên trong", "within" những tro than đó, để tới 1 thứ thơ ca khác.... (1)

Đây cũng là 1 bài viết thật tuyệt vời về thơ sau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo. TV nhẩn nha sẽ chơi hết, vì là những bài ngắn, nhưng quá cô đọng, của toàn những bậc thầy.
Bởi là vì chỉ có cách đó, mới mở ra được 1 con đường cho thơ Mít: Bắt buộc nhà thơ Mít, làm thơ khác đi, cùng lúc giới thiệu những dòng thơ thế giới, cho độc giả Mít, có cái để mà đọc, thay vì đọc toàn thứ nhai đi nhai lại đến “rách cả bã”, là thứ tản mạn bên ly cà phê, hay, “nay trong thánh nữ có đời tôi”, thí dụ!
Hà, hà!
*

ps. K dang gom may bai tho dich cua anh de lam mot bai "Tho Dich Nguyen Quoc Tru" . K cung muon tim nhung bai viet ve "Tho la gi ?" cua cac tac gia anh hay de cap toi ma tim kho qua, vi anh de bai lung tung, ma viet cung lung tung  . K muon thu thap de lam mot thu guidance cho minh ( va gian tiep, cho nguoi khac ...) (2)

Tks. Many Tks

Cái vụ dịch thơ này, thú vị thật.
Đã được 1 bạn văn, thay mặt GCC, chào hàng với 1 nhà xb ở trong nước, nhưng trục trặc vào giờ chót, đành bỏ.
Vả chăng, GCC thực sự cũng không “khứng”! Vì sợ cú kiểm duyệt.
Bây giờ K mà bắt tay vô thì tuyệt quá, vì thể nào trong khi biên tập như thế, cũng ngứa tay nhặt sạn.
Tks again. Tôi sẽ đi 1 đường thu thập những bài viết về thơ của mấy đấng như Simic, Zagajewski…
NQT

Vẫn về thơ dịch. Một vị độc giả TV đang chuyển Bi Khúc Bốn Tháng Sáu, của Liu Xiaobo qua tiếng Việt, từ nguyên tác. Tin Văn "xuất bản", tất nhiên, tuyệt tác này, cùng với 1 số bài giới thiệu. GCC có đề nghị, hay là xb ở trong nước, nhờ…. Mở Miệng chẳng hạn, vị độc giả phán, Trên Đỉnh Non Tản là quá OK rồi!

Tks

MY QUARREL WITH THE INFINITE

I preferred the fleeting,
Like a memory of a sip of wine
Of noble vintage
On the tongue with eyes closed ...

When you tapped me on the shoulder,
O light, unsayable in your splendor.
A lot of good you did me.
You just made my insomnia last longer.

I sat rapt at the spectacle,
Secretly ruing the fugitive:
All its provisory, short-lived
Kisses and enchantments.

Here with the new day breaking,
And a single scarecrow on the horizon
Directing the traffic
Of crows and their shadows.

Charles Simic

Gấu Cà Khịa Với Vô Cùng 

Ta thích phù du
Như kỷ niệm một ngụm vang
Thứ đường được
Đọng ở lưỡi
Mắt nhắm tít lại 

Khi mi vỗ vai ta
Ôi ánh sáng, huy hoàng mi, làm sao nói ra được
Mi đối với ta thật tốt
Mi làm cơn mất ngủ của ta dài thêm ra

Ta ngồi mê ly coi cải lương
Tiếc nuối thầm nỗi tàn phai:
Tất cả cái tạm bợ, sớm nở tối tàn của nó
Những nụ hôn và những say mê.

Giờ đây, ngày tới,
Độc một thằng bù nhìn ở nơi chân trời
Chỉ dẫn cuộc lưu thông
Của lũ quạ,
Và những cái bóng của chúng.
 

OCTOBER LIGHT  

That same light by which I saw her last
Made me close my eyes now in revery;
Remembering how she sat in the garden 

With a red shawl over her shoulders
And a small book in her lap,
Once in a long while looking up 

With the day's brightness on her face,
As if to appraise something of utmost seriousness
She has just read at least twice, 

With the sky clear and open to view;
Because the leaves had already fallen
And lay still around her two feet.

Charles Simic

Ánh Sáng Tháng Mười

Cũng ánh sáng này tôi nhìn nàng lần sau cùng
Bây giờ nó làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng ngồi trong khu vườn 

Khăn đỏ choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ trên đùi
Nàng nhìn lên một lúc thật lâu 

Với ánh sáng ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc ít nhất là hai lần, 

Bầu trời thì trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những chiếc lá đã rụng
Phủ quanh chân nàng.