*









**

*

Note: Giọng văn TPG, trong Tin văn… vắn, và trả lời thư độc giả.
Steinbeck mà còn không hiểu ra được câu hỏi của Xìn Phóng!
Đếch thèm phỏng vấn Steinbeck nữa, mới ghê!
Đâu phải thứ thường!

Có câu trả lời độc giả của TTT: Đừng buồn nhé!
Câu hỏi của Trình Bày, chắc của Thế Nguyên.
Ông này cũng hách lắm!

Đêm đọc thơ ở  Đà Lạt: Ông số 2 hồi đó hoạt động dữ lắm! Cho thơ tới với quần chúng, lên TV, ra mặt trận, tới cả Ấp Chiến Lược luôn!

Khiếp!

Chữ này Gấu thuổng của ông VD, khen văn Thầy Cuốc!
Thầy mê lắm!

VD chắc cũng thuổng, từ tiếu lâm, câu chuyện ở sân gà vịt ở Hà Nội, toàn con ông cháu cha... Một bữa, mới sáng sớm là anh gà trống đã lôi chị gà mái ra làm thịt rồi. Gặp thứ mái tơ, chị ả la, vừa đau vừa rát, vừa đau vừa rát! Anh chó tò mò, hỏi, đâu, đâu? ... Con ngan lắc đầu, mặc, mặc, đàn gà con, khiếp, khiếp.... Sau cùng anh gà trống phán, đời chỉ có thế mà thôi!

Hà, hà!


Ngôi trường bên chợ Đũi

Bài viết này, sơ sài quá. Hơn nữa, khó mà gọi trường Trường Sơn là “bên Chợ Đũi” được.
TS nằm gần ngã tư Hồng Thập Tự/Lê Văn Duyệt, Chợ Đũi nằm tại ngã tư Trần Quý Cáp/Lê Văn Duyệt, bên kia chợ là cái quán cà phê hủ tíu Tầu, Thánh Địa, nơi Gấu vẫn hẹn gặp BHD, mỗi lần em đưa cô em gái tới trường trung học Kiến Thiết, nằm trên một con hẻm cũng gần đó, trên đường Trần Quý Cáp.
Nhà HPA trên 1 con hẻm quá chút nữa. Khu này hồi đó đó có những quán sách cũ, Gấu và HPA ưa lục lọi, nào nrf, nào Ellery Queen, nào SF, nào série noire…
GNV đọc bài điểm cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler tại đây, và nhớ hoài cái vòng tròn ma quái, vòng tròn tuyệt hảo, vòng tròn chúc dữ, là chủ nghĩa CS thần kỳ đưa loài người tới Thái Bường, không còn người bóc lột người! 

Trong những giáo sư của trường, tay viết bài này quên nhà thơ TTT!
Bạn C, trong Thất Hiền, sau khi rớt Tú Tài, hết còn được học CVA, bèn ra đây học, chắc là khỏi phải trả tiền.
Chính ở đây, bạn ta quen người đẹp có cái tên thật là tuyệt vời Lạnh Thì Tuyết Rơi!
Cuộc tình không đi tới đâu, nhưng em quả là đẹp thật!
Sau em quen DNM, cũng 1 nhân vật giang hồ, được ông Chánh Tổng An Nam tại Paris nhắc tới, trong bài viết về BL, khi nhà thơ ra đi. DNM sau tự tử, tại Canada, theo DT.
Cái chỗ mà sau này là trường TS đó, là 1 trong những nơi chốn đầu tiên Gấu ghé, khi vừa mới tới Sài Gòn, vì là nhà của ông cử Ngô Thúc Địch, bà con với ký giả Hiếu Chân.

Con trai ông cử, là Ngô Tôn Liên, sau là bác sĩ nổi tiếng. Gấu phải gọi là Chú. Ông này có chỉ bảo Gấu mấy đường Toán, nhờ đó, Gấu tự mình tìm ra phương trình đường thẳng, đem đi khoe anh bạn cùng học NKL, anh thương hại lắc đầu vô nhà lấy cuốn sách toán, chỉ cho Gấu thấy, thứ này, người ta kiếm ra từ hồi nảo hồi nào rồi.
Gấu đọc mà cảm thấy thê lương vô cùng, hóa ra cái chó gì thì loài người cũng đều đã biết tỏng, tại sao còn cho Gấu ra đời làm cái chó gì nữa hả ông Trời!
Hoá ra là Gấu ra đời, là chỉ để gặp BHD!
Để được ghé Thánh Địa, là cái quán cà phê ngã tư Chợ Đũi, để chờ Thánh Nữ, BHD, và nhờ vậy mà sau này viết được Thánh Truyện, Hà Nội Của Gấu! 

… Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."

Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.

Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.

Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm

Về một cô gái,

Về Hà Nội, độc, và đẹp...

*

Khu Chợ Đũi,

Huỳnh Phan Anh, và tôi 

 

Hồi mới tới Sài-gòn, nơi chốn đầu tiên mà tôi làm quen, là khu chợ Vườn Chuối. 

Chuyến đó ở trên tầu Rắn Biển, Marine Serpent hơi lâu, vì phải đợi ngài Hồng Y Spellman ghé thăm và ban phước lành cho đồng bào di cư. 

Trong khi chờ đợi, chẳng biết làm gì, họ kéo nhau lên boong, ăn hột vịt lộn từ mấy chiếc ghe nhỏ chuyền lên, ngắm thành phố, làm con tầu khổng lồ nghiêng hẳn sang một bên.

Xưa quá rồi Diễm ơi, nhưng sao thỉnh thoảng vẫn mơ thấy những con sóng đuổi theo con tầu như cố níu kéo, mấy bà Bắc-kỳ hè nhau mở cánh cửa khoang tầu thay vì nhẹ nhàng vặn vô lăng, mấy đấng đàn ông đứng ngay trên boong "mở cửa sổ ngó xuống biển", gió tạt vào mấy anh lính thuỷ hạm đội 7 ở phía dưới. 

(A, thì ra đó là lý do tại sao nước biển mặn. Cả triệu con người chứ ít ỏi gì! Nhân vật Nguyễn của nhà văn thèm giang hồ, nhân một chuyến đi xa, đành soi gương, vuốt tóc, bằng bãi nước anh ta vừa thải, đám di cư còn "cơ may" tới được Miền Nam, đâu có suốt đời phải "phóng uế" nơi đất người; phải có "căn phần" mới được như Tôn Ngộ Không đi khắp ta bà, tận cùng thế giới, tè một "phát" mà vẫn chưa ra khỏi bàn tay của quê nhà, ôi cái thú ăn, ngủ, đụ, ị, ở nơi quê hương, dân lưu vong dễ gì có được!) 

Dải đất hình chữ S xa xa, dọc theo con tầu, lúc ẩn lúc hiện... 

Chuyến đó đi một mình. Bà cụ cố vớt vát được đồng nào hay đồng đó, ở những phiên chợ Trời mọc lềnh khênh suốt thành phố Cảng. Chúng mới được di cư từ Hà-nội xuống. Thủ đô lúc này đã được tiếp quản, nhưng Hải-phòng còn chút ân huệ 300 ngày. 

Chả là, ông anh rể lấy bà chị họ, làm nhân viên Nha Thông Tin, sở làm ngay kế bên Bờ Hồ; khi xẩy ra vụ di cư, ông nhẩy qua quân đội, lãnh chức sĩ quan đồng hóa, và lo việc tiếp rước đồng bào tại đầu cầu Hải-phòng. Bà mẹ và đứa em ở lại đi chuyến chót, cùng ông anh. Cho thằng em vào trước lo việc học. 

Rời con tầu, mỗi người được phát 300 đồng. Những chuyến trước, tiền di cư "tính liền", nhưng chuyến đó, chỉ nhận được một mẩu biên nhận, mấy ngày sau tới Tổng Uỷ Di Cư, ở đường Trần Hưng Đạo đổi lấy tiền mặt.

Nếu không đến nhà bà chị ở khu Vườn Chuối, biết đâu lại có dịp tái ngộ người bạn Hà-nội, Đỗ Tiến Đức ở Nhà Hát Lớn thành phố, hoặc quen Viên Linh ở khu lều di cư Phú Thọ, ngay khúc trường đua. 

Xưa quá rồi Diễm ơi. 

Trường Nguyễn Trãi khi đó bị xóa sổ. Đây là nói về trường Nguyễn Trãi di cư, như Chu Văn An di cư, không phải trường Nguyễn Trãi sau này, ở miệt Khánh Hội.

Mò đến Hồ Ngọc Cẩn; thầy giám thị phán, "mê Hà-nội vào trễ, học lại lớp cũ."

Tiếc một năm đèn sách, đành nhẩy ra trường tư. Ngày ngày lãnh trách nhiệm xách một thùng nước cho bà chị có sạp bún chả tại chợ Vườn Chuối, rồi băng con hẻm cắt ngang Phan Đình Phùng, Trần Cao Vân, Hồng Thập Tự. Trường Văn Lang của thầy Nguyễn Khắc Kham nằm trong một con hẻm ở đường Ngô Tùng Châu, kế nhà thờ Huyện Sĩ.

Nhà của Huỳnh Phan Anh nằm ngay đầu con hẻm ăn ra đường Hồng Thập Tự, Khu Chợ Đũi. Nhà "cô bé" [BHD], cũng kế đó. Gần ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.

Trường học của cô bé, trường Kiến Thiết cũng kế đó, cách con hẻm "Huỳnh Phan Anh" vài chục bước chân.

Khu này vốn nổi tiếng vì mấy tiệm sách cũ, Huỳnh Phan Anh và tôi đã từng lục lọi những số báo nrf, những cuốn tiểu thuyết đen, série noire.

Ít người Sài-gòn quên được món cơm xá xíu ngay đầu con hẻm Kiến Thiết.

Mấy đứa em của Huỳnh Phan Anh có đứa học chung với cô bé.

Đó là những chuyện sau này.

 Tôi ở khu chợ Vườn Chuối tới năm học Đệ Nhị, rồi qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô mỗi tháng từ Pháp gửi tiền về, cộng thêm tiền làm nghề "trợ giáo". Mãi sau này, khi quen cô bé, tôi mới lại lảng vảng ở khu đầu đường Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng.

Rồi khi quen Huỳnh Phan Anh, mới trở lại con hẻm cũ.

* 

Tôi "biết" Sài-gòn, phần lớn là qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả" dậy tôi chơi banh bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên mất tên, [Huỳnh Kỳ?], ở khu Ngô Tùng Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là nơi hai đứa nhiều ngày đứng suốt buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau băng qua đường, leo lên gác xép ngủ.

Nhà Huỳnh Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến", khi ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là nguồn kinh tế của hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì. 

Sau này học trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn tôi đã từng căn dặn chớ mò tới.

Cái trò đọc sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi.

Và hai đứa chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville, "một mình mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy, như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường".

Tôi cũng có những kinh nghiệm y hệt như vậy.

Qua anh tôi có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng tác" với báo Điện Tín, là do anh.

Thân nhất, có lẽ là lúc anh đang học Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được thư. Anh vốn là một con người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những lá thư là một Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi. 

Lần đầu tiên tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một người bạn. Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc theo những con dốc.

Lần đó, tôi có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những người lính lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải của họ".

 Với Huỳnh Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ có một bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh hiểu: tại sao bỏ vào Nam.

 Nhưng câu hỏi đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.

 Cuốn truyện đầu tay của tôi là cuốn mở đầu nhà xuất bản Đêm Trắng do anh chủ trương. Thoạt tiên "gạ" ông Nguyễn Đình Vượng, nhưng gặp Trần Phong Giao cản đường.

Của đáng tội, thư ký tòa soạn báo Văn không tin cuốn sách sẽ bán được. Tác giả cuốn sách cũng nghĩ vậy. Huỳnh Phan Anh "xúi", thì bỏ tiền ra in, tao làm nhà xuất bản. Anh nhờ Nguyễn Đồng làm bìa. In 2000, đến nhà phát hành Sống Mới, gặp ngay Nguyên Vũ, hình như đang là tác giả có sách bán chạy nhất lúc đó. Anh nói vô, ông chủ mua cho 300 cuốn. Còn lại bán lai rai, cũng thu đủ vốn.

 Khi đọc tên tác giả, tác phẩm: đứng hàng thứ bẩy, trong danh sách 12 nhà văn phản động đồi truỵ, trên báo Tin Sáng, ngay sau khi Việt Cộng vào Sài-gòn, (đây là danh sách đầu tiên, sau được bổ sung thêm, thành 19, rồi cả Miền Nam, trừ mấy anh nằm vùng, tất nhiên), tôi sợ, (có), hãnh diện, (có), nhưng thật sự ngạc nhiên. Bởi vì tôi không thể tin, cuốn sách được mấy ổng chiếu cố kỹ đến như vậy.

Tôi không tin cuốn sách còn, nếu có chăng, may ra ở trong thư viện.

 Đã bao lần tôi cầu mong nó quên tôi, như tôi đã quên nó.

 NQT

Thời Tập
5.5.1974
Gấu Nhà Văn đọc Tắt Lửa Lòng

Khi viết Tắt Lửa Lòng, Nguyễn Công Hoan có lẽ chỉ muốn cuốn sách của ông nằm trong dòng văn chương xã hội…. nhưng đã vô tình ‘điểm thêm mắt rồng’ cho nó, khi hoàn thành tác phẩm, nó bay mất và lạc vào thế giới tình yêu, một thế giới hoang đường với những Tiểu Nhiên Mị Cơ, Mỵ Châu Trọng Thủy… và Lan và Điệp.

… Đây là chiếc chìa khoá để cho các tiểu thuyết gia chuyên viết truyện tình dùng để mở căn nhà mồ Lương Sơn Bá: Hãy làm sao cho nhân vật trong truyện tình chết đi [ở trong tiểu thuyết] để rồi sống lại [trong huyền thoại]...
NQT 

Ui chao, liệu ‘ba trăm năm sau’, (1) truyện tình của BHD và anh cu Gấu cũng sẽ ‘chết đi ở trên không gian ảo’ và rồi ‘sống lại ở trong huyền thoại’?
Hà, hà!

(1) TV: Đúng rồi, nên thay đổi, kẻo không như O nói, ba trăm năm sau (hihi) có người đi tìm tác phẩm của NQT chỉ thấy toàn ‘kít’ với ‘đếch’, ‘như kít’… thì không biết sẽ xếp tác phẩm vào loại văn chương gì?
Hihi
K

Mémoirs
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

Tản Mạn về
Phê Bình Của Tôi của Nguyễn Thanh Sơn


"Why is there something instead of nothing,"
[Tại sao có cái gì đó, thay vì chẳng có gì?]
Martin Heidegger 

"Why couldn't there be nothing instead of Heidegger?"
Ralph Brave: Being Martin Heidegger 

Khốn nạn thay, làm sao tin cậy được cái thứ viết trắng?
Roland Barthes: Không độ của cách viết [Le degré zéro de l'écriture]. 

... Proposant enfin l'accomplissement de ce rêve orphéen: un écrivain sans littérature. L'écriturre blanche, celle de Camus, celle de Blanchot ou de Cayrol par exemple, ou l'écriture parlée de Queneau, c'est le dernier épisode d'une Passion de l' écriture, qui suit pas à pas le déchirement de la conscience bourgeoise.

... Sau cùng đề nghị hoàn tất giấc mộng Orphée: nhà văn không văn chương. Cách viết trắng Camus, cách viết Blanchot hay Cayrol thí dụ vậy, hay cách viết nói của Queneau, đây là hồi chót của một Đam Mê viết theo từng bước với sự rách toang của ý thức trưởng giả.

R. Barthes: Dẫn vào Không độ của cách viết.

Note: Lướt net, tình cờ vớ được, bài của chính Gấu!


I wish you will have another book...

Tks.

Tôi sẽ dịch tiếp cuốn “Gọi người đã chết”, thay cho lời chúc Tết năm nay.
Cuốn này, ngay khi vừa mới ra được hải ngoại, tôi đã dịch, được 1, 2 chương đầu, rồi lo đi bán bảo hiểm nhân thọ...
Bây giờ nhớ lại những ngày tù Bangkok, nghĩ đến anh bạn tù người Mã Lai nằm kế bên, nhớ tới.... bèn lôi ra dịch tiếp.

*
*

GNV & HPA @ Paris 1999

Tính làm 1 chuyến dối già, mà coi bộ phiêu quá rồi!

Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

Nếu một người đàn ông có thể đi qua Thiên Đàng, ở trong một giấc mộng, và có một bông hồng dâng hiến cho anh ta, như là một vật làm tin, rằng, linh hồn của anh ta đã thực sự ở đó, và nếu anh ta nhận ra bông hồng ở trong tay của mình, khi thức giấc, thì… sao" [“Ay!- and what then?”]
Đằng sau ý nghĩ của Coleridge là một ý nghĩ tổng quát và lâu đời, của hàng hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu xin một bông hồng làm chứng tích.

Bông Hồng của Paracelsus

Tình cờ, Bông hồng của Coleridge, Bông hồng của Paracelsus,Quy Hồi Vĩnh Cửu cùng đụng độ trên TV.
GNV sẽ đi 1 đường bình loạn sau, nhân đọc [dịch] cái khúc mở ra Đời Nhẹ Khôn Kham, khi MK nhìn thấy tấm hình cũ và tha thứ cho Hitler!
GNV đọc Bông hồng của Paracelsus lần đầu, trên số báo NYRB, August 13, 1998, thấy đề là, truyện ngắn mới, chưa hề in ấn, khoe với NTV, anh lắc đầu, làm gì có thứ inédit, tao đọc rồi!
[Ông này thuộc loại ít đọc giả tưởng! Đọc rất nhiều, trừ giả tưởng, có thể nói như vậy. Đây có thể là lý do khiến anh chẳng để lại cho đời 1 thứ gì, chăng?]

Sau in trong Collected Fictions. Rồi, nhân anh bạn NND nằm xuống, GNV bỗng nhớ đến giấc đại mộng của anh, và cả lũ, thì  mới vỡ ra là,  cả đám đứa nào cũng có 1 ông thầy, như trong truyện của Borges!
Thầy của HPA là Blanchot, của GNV, Faulkner, thí dụ....
*

Trong số bè bạn cùng thời hồi đó, Duật tách biệt hẳn, với dáng điệu chững chạc, mô phạm, không bao giờ ăn nói tục tĩu, không bao giờ đề cập tới chuyện gái gẩm, chuyện ghé thăm Ngã Năm, Ngã Ba... nhưng suy nghĩ cho cùng, chính tôi mới là một kẻ lén lút xâm nhập, vị khách bất đắc dĩ của "bàn tiệc văn học": Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng... đều học triết, và sau ra làm giáo sư. Chỉ có tôi là dân toán, dân kỹ thuật, "nhẩy dù" qua văn chương, triết học! (Có lẽ cũng chính vì vậy, cho nên trong Văn Học Tổng Quan, phần tiểu sử tác giả, Võ Phiến đã ghi tôi làm nghề dậy học.)
Tôi quen anh qua Huỳnh Phan Anh. Trong bữa gặp mặt lần đầu đó, Duật là người nói nhiều hơn cả. Tôi kính cẩn ngồi nghe. Khi ra về, Huỳnh Phan Anh lắc đầu: không thể tưởng tượng được, chỉ một thời gian không gặp mà nó khác hẳn xưa. Mình phải bớt đi chơi banh bàn, ngã năm ngã ba, đóng cửa diện bích mới được! Chừng hơn tháng sau gặp lại, anh khoe, đã tụng xong bộ Hữu Thể và Hư Vô, của Sartre, (đâu chừng dăm, bẩy trăm trang!). Phải ăn mừng mới được! Thằng bạn chẳng cần phải hỏi, cũng biết sẽ ăn mừng chiến thắng ở đâu!
Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan Anh làm đặc san văn nghệ cho trường, lấy tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại mới đây, tại Paris, anh nhắc tôi mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm báo đặc san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời! Bài tiểu luận đầu tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô. Truyện ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng là nơi đăng truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm tức cười về Huyền, tôi đã viết lại, trong bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng Huyền bằng bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân dịp về thăm gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này đọc Kundera, khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà dịch thuật Kafka qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong Joseph K) bằng những nhân vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế được! Hay nói theo Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn Duật, mẫu mực, mô phạm ngay từ hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến khi Viên Linh làm tờ Khởi Hành, anh mới xuất hiện trở lại, qua những bài phê bình, biên khảo, đọc sách... Anh đoạn tuyệt với truyện ngắn, như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có một truyện ngắn, và nó vĩnh viễn thuộc về... Huyền!

 Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên một số báo The New York Review of Books, "Bông Hồng của Paracelsus", Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư về huyền thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ cửa, một kẻ lạ xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết sức mệt mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên tiếng trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ Đông qua Tây, vậy mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải qua một cuộc hành trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong được là đệ tử của Thầy. Tôi mang tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng tiền, bằng vàng. Một đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại sư quay lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ cầm một bông hồng. Bông hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến tất cả mọi vật trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi. Nhưng tôi không tìm kiếm vàng, và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao giờ có thể là đệ tử của tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng tiền này chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi muốn Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi tới Cục Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của bạn, là mục tiêu mà bạn tìm kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư, giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà sa số như những tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu, và họ gọi tôi là một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có Con Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm. Hãy cho phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất hứa... Tất cả những gì con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc hành trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh. Bây giờ, họ chuyển qua tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng thành tro than, và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than đó... Hãy cho con chứng kiến phép lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin. Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
Bởi vì con không cả tin, nên con muốn chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay, và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh huỷ diệt nó".
 "Anh lầm rồi. Anh thực sự tin rằng một điều gì đó có thể biến thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở Thiên Đàng có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
 "Chúng ta không ở Thiên Đàng.", người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần tục này, mọi vật đều chết".
 "Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu không phải là Thiên Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không phải là Thiên Đàng? Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một điều: chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
 "Một bông hồng có thể bị đốt cháy", người trẻ tuổi nói bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay chỉ.
 ......
 Người trẻ tuổi cầm bông hồng trên bàn, và ném vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một giọng giản dị:
 "Tất cả những nhà vật lý, dược sĩ tại thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than vốn xưa là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
 Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ. Anh chỉ là một kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền thuật của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và nói:
"Điều tôi làm thật không thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ một điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở lại, khi nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ nhìn thấy bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng đam mê này chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes Grisebach này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám phá ra rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm tất cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh luôn luôn là vị khách quí tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một điều, chẳng bao giờ còn có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ lòng bàn tay này qua lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng, "vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là những giấc mộng nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những bạn bè của tôi, bất cứ một kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu chuyện của Borges.
Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
 Vĩnh biệt bạn Duật!
 Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
 *
Liệu độc giả tin rằng, trang TV chính là phép lạ, trên, và BHD xuất hiện trở lại, qua nó?
Dám lắm!

The unknown Jorge Luis Borges
Five new anthologies elucidate the writer's development
from the "Baudelaire of Buenos Aires" to a master of epic subjects in compressed forms



**

Bởi vì tớ mất cơ may chết vô danh cho nên đành lâu lâu tự thổi mình, sống đếch ai hiểu tớ!
Ui chao lại nhớ câu của Hegel, khi chết than, cả đời tớ, chẳng có ai hiểu, duy chỉ 1 đấng học trò, và, quay qua tên đệ tử mắt sáng rỡ, nhưng, tội thay, hắn lại hiểu sai!

Trong bài viết về Bếp Lửa của TTT, từ năm 1973, GNV này đã phán, ông, do loay hoay hì hục viết đi viết lại mãi, chỉ 1 cuốn BL, mà bỏ lỡ 1 cuộc cách mạng, y chang Sartre, với cuốn La Nausée!
Sartre suốt đời mê làm cách mạng, nhưng khi cờ đến tay, thì lại bỏ lỡ: cuộc cách mạng văn học của Tây, sau Sartre, bắt đầu từ La Nausée.
Phải đến khi về già, Sartre mới nhận ra điều này, và thú nhận, tất cả những tác phẩm đầu đời của ông, chỉ còn lại… La Nausée!
Nhưng bảnh nhất, phải là truyện ngắn Bức Tường, Le Mur. Koestler coi đây là 1 tuyệt tác viết về cuộc chiến Tây Ban Nha.
Truyện này, thú vị nhất, là được 1 giáo sư, triết gia số 1 Mít thuổng, nghĩa là, viết lại, y chang, và cho đăng trên tờ báo VH của NMG!
*

LE ROMANCIER PHÉNOMÉNOLOGUE
Tiểu thuyết gia hiện tượng học

C'est malgré tout dans La Nausée, journal de bord d'« une épave sans mémoire», qu'on trouve sans doute les motifs littéraires les plus marqués philosophiquement. Sans être un roman à thèse, La Nausée est bien une fiction à visée métaphyysique. Sartre ne s'en cache pas : «Je voulais que la philosophie à laquelle je croyais, les vérités que j'atteindrais s'expriment dans mon roman ... » (Carnets de la drôle de guerre).

Mais ce ne sont toutefois pas les thèmes que Sartre « évoque» dans ses romans qui sont le plus significatifs. Ce n'est pas non plus le fait qu'il prête à son héros des intuitions qui préfigurent un certain nombre des développements de L'Etre et le Néant (l'angoisse, !a nausée, l'ennui), ni que l'univers, le «Monde tout nu», lui apparaisse dans son absurde, «effrayante et obscène nudité». C'est bien davantage la manière dont le romancier saisit les choses dans leur mode propre de se manifester.

C'est là que la technique romanesque sartrienne s'apparente à la méthode phénoménologique. Car, pour Sartre, toujours très conscient des procédés des écrivains, qu'il lui arrive de plagier ou de parodier avec une virtuosité sans égale, «une techhnique romanesque renvoie toujours à la métaphysique du romancier» (Situations I). Les situations, dans lesquelles s'ajointent inextricablement les choses et les êtres, sont ainsi vues à travers les postures et les gestes des personnages, et cela sans faire appel à leurs sentiments ou à leur intériorité. C'est

une phénoménologie en situation qui ne tend pas à la description objective, si par objectif on suppose un Narrateur omniscient qui saurait tout le secret des personnages et des situations. Sartre s'efforce, à la manière de Dos Passos, de faire en sorte que le lecteur n'en sache jamais plus que les personnages sur ce qui se passe....
Jean Montenot
*

Những câu phán để đời của Sartre: 

«L'HOMME est une PASSION INUTILE.»
Con người là 1 đam mê vô ích

Cette formule de L'Etre et le Néant doit sa célébrité au fait qu'elle tranche avec la terminologie technique de mise '" dans le livre de 1943. Sartre la jugera, d'ailleurs, plus tard, un peu trop littéraire! En tout état de cause, il faut la resituer dans son contexte: «Toute réalité-humaine est une passion, en ce qu'elle projette de se perdre pour fonder l'être et constituer du même coup l'en-soi qui échappe à la contingence en étant son propre fondement [ ... ]. Ainsi la passion de l'homme est l'inverse de celle du Christ, car l'homme se perd en tant qu'homme pour que Dieu naisse. Mais l'idée de Dieu est contradictoire et nous nous perdons en vain; l'homme est une passion inutile. » CQFD. 

«ABATTRE UN EUROPÉEN c'est faire d'une pierre deux coups, supprimer en même temps un OPPRESSEUR et un OPPRIMÉ: restent un homme mort et un homme libre.»
Làm thịt 1 tên Âu Châu, là bắn 1 một mũi tên chết 2 con chim

Lue aujourd'hui, cette phrase de Sartre, proférée dans la préface aux Damnés de la terre (voir p. 58), fait froid dans le dos. Prononcée dans le cadre de la lutte contre le colonialisme - cause qu'épousa Sartre dans les années 1950 -, elle pose la question, qui était déjà celle de la polémique avec Camus, du degré de violence qu'on est prêt à accepter au nom de l'exigence d'émancipation, qu'elle soit anticoloniale ou révolutionnaire. La «violence irrépressible» de Frantz Fanon est celle de «l'homme se recomposant », Ainsi, «le colonisé se guérit de la névrose coloniale en chassant le colon par les armes », et «l'arme d'un combattant, c'est son humanité ». Sartre rêvait sans doute les yeux ouverts lorsqu'il écrivit qu'avec «le dernier colon tué, rembarqué ou assimilé, l'espèce minoritaire disparaît, cédant la place à la fraternité socialiste ». 

«Du moment que je dis la DROITE, pour moi ça veut dire des SALAUDS.» 

Propos un peu raide de L'Espoir maintenant. En fait, Sartre s'en prend surtout à la gauche qui a tout lâché, perdu repères et principes, et qui laisse triompher une droite misérable. Il s'agirait de retrouver de «vrais principes à la gauche». Le salaud est une figure classique de la pensée sartrienne, il désigne celui qui a toujours de bonnes raisons de fuir sa liberté: «Les uns qui se cacheront, par l'esprit de sérieux ou par des excuses déterministes, leur liberté totale, je les appellerai lâches; les autres qui essaieront de montrer que leur existence est nécessaire, alors qu'elle est la contingence même de l'apparition de l'homme sur la terre, je les appellerai des salauds. » (L'existentialisme est un humanisme.)

« La liberté de CRITIQUE est totale en URSS.»

Titre du premier article de Libération, en juillet 1954, au retour de son périple dans la patrie du socialisme. Les propos sont dignes de ceux de Romain Rolland déclarant en pleine collectivisation forcée, qui se traduit dans les années 1930 par la liquidation de centaines de milliers de paysans: «J'ai vu en Union soviétique un élargissement remarquable des droits humains. » Sartre commente, en 1980 (L'Espoir maintenant) : «Romain Rolland n'est pas un penseur remarquable », et reconnaît devant Benny Lévy : «C'est vrai que j'en pensais du bien, moins que tu ne sembles le penser. Mais c'est que je me défendais d'en penser du mal.» Et d'ajouter: «J'ai été très peu compagnon de route, je l'ai été en 51-52, je suis allé en URSS vers 54, et presque tout de suite après, avec les événements de Hongrie, j'ai rompu avec le Parti.» Ce qui ne veut pas dire, bien au contraire, que Sartre a cessé d'être marxiste. 

« L'EXISTENCE précède L'ESSENCE.»

C'est «la» formule célèbre de Sartre. Il tient à la distinguer d'une formule voisine chez Heidegger: «L'existentialisme athée, que je représente, est plus cohérent. Il déclare que si Dieu n'existe pas, il y a au moins un être chez qui l'existence précède l'essence, un être qui existe avant de pouvoir être défini par aucun concept et que cet être c'est l'homme ou, comme dit Heidegger, la réalité humaine. Qu'est-ce que signifie ici que l'existence précède l'essence? Cela signifie que l'homme existe d'abord, se rencontre, surgit dans le monde, et qu'il se définit après. L'homme, tel que le conçoit l'existentialiste, s'il n'est pas définissable, c'est qu'il n'est d'abord rien. Il ne sera qu'ensuite, et il sera tel qu'il se sera fait. Ainsi, il n'y a pas de nature humaine, puisqu'il n'y a pas de Dieu pour la concevoir. L'homme est seulement, non seulement tel qu'il se conçoit, mais tel qu'il se veut, et comme il se conçoit après l'existence, comme il se veut après cet élan vers l'existence; l'homme n'est rien d'autre que ce qu'il se fait.»
 

« Un ANTICOMMUMSTE est un CHIEN, je ne sors pas de là, je n'en sortirai plus jamais.» 

La formule se lit en 1961 dans un texte d'hommage posthume à son alter ego en phénoménologie intitulé: « Merleau-Ponty vivant» (Situations I). Sartre y fait état, dans le passage en question, des raisons qui l'ont poussé à son compagnonnage avec le Parti communiste. La cause occasionnelle fut l'affaire du procès du quartier-maître Henri Martin, sur fond de guerre d'Indochine et de guerre froide. Malgré les injures staliniennes de 1947 - «hyène dactylographe », «rat visqueux », «vipère lubrique" et « putois déliquescent" -, Sartre avait pris son parti. Il serait du côté des communistes. «Ma vision fut transformée [ ... ] après dix ans de ruminations, j'avais atteint le point de rupture et n'avais besoin que d'une chiquenaude. En langage d'Eglise, ce fut une conversion. » Tandis que Merleau-Ponty avait découvert l'horreur du stalinisme, Sartre se découvrait une haine définitive de la bourgeoisie, «une haine qui ne finira qu'avec moi". 

«Jamais nous n'avons été PLUS LIBRES que sous l'OCCUPATION allemande!»

Phrase paradoxale s'il en est. Il s'agissait de dire (en septembre 1944) que la radicalité de la situation exigeait alors que chacun, résistant ou non, réponde par ses attitudes et ses conduites - de l'engagement à la lâcheté en passant par l'insouciance - de sa liberté de consentir ou non à la situation. Plus tard, il s'autocritiquera : «Quand j'écrivais que, quelle que soit la situation, on est toujours libre, cela me paraît aujourd'hui absurde", concédera Sartre qui, de révisions en révisions de sa propre pensée, admet que la conscience d'être libre ne suffit pas à fonder pratiquement sa liberté. 

«L'ENFER, c'est les AUTRES.»

Il faut citer la réplique de Garcin dans son intégralité, car elle se présente un peu comme la clé de Huis clos: «Alors, c'est ça l'enfer. Je n'aurais jamais cru ... Vous vous rappelez: le soufre, le bûcher, le gril ... Ah 1 quelle plaisanterie. Pas besoin de gril, l'enfer, c'est les Autres.» Garcin et les deux autres personnages de la pièce, Inès et Estelle, sont morts, enfermés et condamnés à se supporter mutuellement pour l'éternité dans un huis clos qui a donné son nom à la pièce, que Sartre avait d'abord voulu intituler Les Autres. Le propos a été mal compris, car il ne s'agit nullement pour Sartre d'affirmer que le rapport à autrui est impossible, ni qu'il faut être pessimiste au point de renoncer à toute forme de bonheur relationnel. La mort symbolise, dans la pièce, les «gens encroûtés dans une série d'habitudes»; et la majuscule dans la réplique, une certaine manière d'hypostasier autrui. Sartre entendait ainsi montrer par l'absurde qu'il est toujours possible, si l'on ne renonce pas à sa liberté, comme les morts de la pièce, de briiser le repli sur soi auquel conduisent la rumination des propos d'autrui et l'intériorisation du regard d'autrui dans le huis clos de notre for intérieur.

*

Và tôi nghĩ tới Solz: Ông lớn này là 1 nhà đại tiểu thuyết gia? Làm sao tôi biết được? Tôi chưa hề đọc 1 cuốn sách nào của ông. Những lèm bèm tối ngày của ông ta về xác định vị trí (mà tôi vỗ tay tán phục sự can đảm) làm cho tôi tin rằng tôi thừa biết tất cả những gì ông ta viết ra!
Et je pense à Soljenitsyne. Ce grand homme était-il un grand romancier? Comment pourrais-je le savoir? Je n'ai jamais ouvert aucun de ses livres. Ses retentissantes prises de position (dont j'applaudissais le courage) me faisaient croire que je connaissais d'avance tout ce qu'il avait à dire.
Kundera: Une rencontre

Graham Greene, bị chụp cho cái nón, 'tiểu thuyết gia Ky Tô', đã gật gù trả lời, tớ là một tiểu thuyết gia, 'không may' còn là một tín hữu Ky Tô!
Milan Kundera bị tống ra khỏi Đảng VC Czech năm 1950, tái xét và cho nhập lại 1956, lại tống ra vào năm 1970 và sau cùng bị ép phải lưu vong, cũng lèm bèm trong rất nhiều năm, ông không phải là ‘nhà văn ly khai’, nhưng mà là một tiểu thuyết gia, không may, cùng lúc, còn là một tên Czech, và cùng với tên Czech là ông đó, là cái kinh nghiệm thê lương, cay đắng nhức nhối, về chính trị, về lưu vong, của đất nước của ông, qua ông!
[Ui chao, đọc một cái là Gấu gật gù, tớ cũng thế! Tớ còn bảnh hơn ông nhiều, lưu vong, bỏ chạy quê hương, cũng vài lần, vượt biển nhiều lần, và thảm hơn ông, còn bị cả một gánh nặng là Cái Ác Bắc Kít đổ lên đầu!]
Ông viết, tất nhiên, về kinh nghiệm đó, và rất bực khi bị đọc bằng một cách đọc chính trị. Và ông trả lời Ian McEvans, trong một số báo Granta, khi bị hỏi tại sao.
Bởi vì đó là một cách đọc tồi tệ. Tất cả những gì bạn nghĩ quan trọng ở trong cuốn sách bị bỏ qua. Một cách đọc như thế chỉ nhìn thấy một khía cạnh: Tố cáo chế độ Cộng Sản. Nói thế không có nghĩa là tôi thích những chế độ Cộng Sản; tôi tởm chúng. Nhưng tôi tởm chúng như là một công dân: như là một nhà văn, tôi không nói điều tôi nói để tố cáo một chế độ.
*
Đây là sự khác biệt giữa Kundera, với Solz, thí dụ. Hay với Brodsky. Hay với Nguyễn Du.

Brodsky, viết, Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh, bởi vì ông tin rằng, nhân dân càng trọng Mĩ tới đâu, thì càng sàng lọc cái Xấu, Cái Tà Ma Ác Quỉ ra tới đó.
Sở dĩ người đọc, đọc, cách đọc chính trị, tác phẩm của Kundera, ấy là vì, về mặt "kỹ thuật", ông chưa vươn tới cái Đẹp, tương xứng với tác phẩm! Ông chưa làm cho người đọc quên cách đọc chính trị, để chỉ đọc ông, theo cách đọc văn chương!

Đám mê văn chương, theo nghĩa tệ nhất của nó, [nghĩa là chỉ mê cái đẹp], đã không đọc được Solz, một cách nào đó, cũng là một cách đọc tồi tệ, theo Gấu.
Đám Bắc Kít chê thơ Nguyễn Chí Thiện, chê văn DTH, là cũng theo nghĩa này.

Nhìn như trên, thì Solz bảnh hơn Kun nhiều: Khi viết Gulag, ông không hề nghĩ đến văn chương, có thể nói như vậy, còn K, không thể nào không nghĩ, mình đang viết tiểu thuyết. Cách viết của Solz, có 1 cái gì đó, tới được cái điều, viết mà không viết!
Còn về truyện ngắn, thì Solz bảnh hơn Kundera nhiều.
*
Ở đây, chúng ta đụng tới một vấn đề sinh tử của văn chương, Kafka đã từng đụng, và ông ngộ ra, khi phán: Kỹ thuật mới là linh hồn [hữu thể, chữ của ông], của văn chương.
Theo nghĩa đó, Barthes phán, ‘viết thế nào’, comment écrire, mới quan trọng, và nhờ 'viết thế nào', thì ra được, 'tại sao thế giới', pourquoi le monde.

Với Gấu, cách viết hách nhất, là, viết như không viết!
Còn Barthes? Ông đề nghị viết ở cái mức không độ của nó.

..  In 1953 in Le Degre zero, however, Barthes was thinking not of Alain Robbe-Grillet but of Albert Camus, whose attempt at neutral, non-affective writing, Barthes called 'zero degree writing'. Sartre had seen Camus's écriture blanche as a refusal of commitment, but for Barthes, Camus's writing, like other examples of self-conscious literature since Flaubert, is historically engaged at another level: it struggles against 'literature' and its presumptions of meaning and order.
Barthes: A Very Short Introduction
… Vào năm 1953, trong Không độ của cách viết, Barthes không nghĩ tới đám tiểu thuyết mới, mà là Camus, với cách viết ‘người dưng’ [dửng dưng, không dấn thân, không nhập cuộc, ‘em chả, em chả’], và Barthes gọi đây là ‘cách viết ở không độ’. Sartre nhìn cách ‘viết trắng’, của Camus như là từ chối xuống thuyền, nhập cuộc. Nhưng Barthes coi đây là một dấn thân ở một mức độ khác…

Trở lại với Kundera, chúng ta nhận ra một điều, sở dĩ người đọc đọc ông như tác phẩm chính trị, ấy là vì tác phẩm của ông chưa vươn tới mức ’viết mà như không viết’, chất chính trị mạnh quá, lấn lướt chất văn học. Đây là một ‘lỗi lầm’ về kỹ thuật, đúng như Kafka nói.

Có một ông bạn nhà văn, thuộc loại đàn em, rất mê TTT, và coi TTT như là đỉnh cao chói lọi của văn chương Miền Nam. Mới đây, trong cuộc trò chuyện, anh cho biết, bây giờ anh bắt đầu thấy ra, truyện của TTT đã bị vượt, theo nghĩa, anh vẫn đọc, nhưng thấy không hay bằng của… Gấu, cũng được viết ra vào thời kỳ đó!
Anh cho rằng, có một cái gì đó, trong truyện của Gấu vượt ra được tính chính trị của thời đại, và nhờ vậy, sống sót!
Thú nhất là, anh phán, 'cote' [rating] của BHD và em Mai [Mai, để anh kể cho Mai nghe, về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó, thì phải rời bỏ...], ngày càng lên!
Tks. NQT

Nhưng, phải Kafka mới là kẻ tử đạo, văn, và cùng lúc, đời, khi phán, trong cuộc đấu sinh tử, tay đôi, giữa anh và thế giới, hãy ở bên… thế giới!
In the duel between you and the world, back the world. (1)
Kafka 
Thần sầu!
(1)

Câu trả lời của Kafka

Viết như không viết


Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam
on anh Tru .

Sau mấy năm rồi, cũng vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè được, hay quá. K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều. Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại. Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Cái mail này, có 1 chi tiết thật thú vị, mà nếu 1 độc giả sành điệu, có thể nhận ra, đó là ‘vừa chăm cháu ngoại’!
Ấy là vì vị này, biết, GNV vừa lo cà khịa với thiên hạ, vừa lo dỗ cháu, chắc là do bà bạn kể lại, bà này có lần gọi điện thoại, chúc Tết, Tết năm 'ngoái ngoái' hẳn thế, và nghe tiếng trẻ con khóc trong điện thoại, bà bật cười, tưởng "nhà văn nhớn" GNV không lâm vào tình trạng "bé nhà văn" như thế này chứ!
*

Bữa trước, Gấu cám ơn một vị độc giả, vì đã cho biết trang TV có virus, và, virus này, ở trong PC của Gấu, không biết bằng cách nào, theo fpt, khi upload, bò vô trang TV, và  làm  PC của độc giả cũng bị virus.
Một đấng độc giả, thuộc phe Hậu Vệ, bèn mail, bèn mắng GNV, sao mi láo quá, độc giả nào mà rành những chuyện như thế?
Lẽ dĩ nhiên, có độc giả nào mà rành như thế, nhưng ông này không chịu suy nghĩ ‘thêm’ lên 1 tí, thì hiểu ra ngay. 

Cái vụ báo động có virus, là có thực, không chỉ qua TV mà còn qua 1 blog của 1 thân hữu. Vị độc giả TV còn than, có my files trong máy của bạn đó bị virus do đọc TV.
GNV bèn báo động server, server bèn tìm coi nguyên do, clean trang TV, và ra lệnh cho GNV, phải clean luôn cái PC của mi, thì mới hết hậu họa.
Công việc của server, là do GNV trả tiền hàng tháng, nhưng nếu không có vụ báo động của độc giả, thì làm sao biết sự việc nó như thế.
GNV cám ơn vị độc giả, vắn tắt như trên, là v
ậy.

Giả như cũng đấng độc giả oan gia trên, đọc cái mail, có thể lại mail chửi, láo quá, làm sao mà độc giả TV lại biết mi đang cho cháu mi bú sữa?
Thành ra GNV mới phán là, internet chỉ làm con người ngu đi thôi. Cứ cắm cúi đọc, đâu có thì gisdụng đến bộ não, đâu có thì giờ mà đọc sách, sách báo vì thế mà rẫy đành đạch, và hấp hối, và chết, như Thầy Cuốc phán về văn học giấy hải ngoại!

Chàng nắm một bàn tay, bao nhiêu năm không thay đổi: thuôn dài, hơi khô.
Một Chủ Nhật Khác.
*

Hai Lúa có một kỷ niệm khủng khiếp về cái vụ nắm bàn tay, cổ tay này.
Cũng với cái cô ở Đà Lạt. Học nội trú năm nào.

Hai Lúa quen cô ít lắm thì cũng là bốn, hay năm năm. Lâu như thế đấy. Đêm nào cũng tới nhà ngồi nói chuyện tào lao tới giờ giới nhiêm mới về. Đúng thời gian trước và sau Mậu Thân.  Đi ăn, đi chơi, đi ciné... búa xua. Nhưng chỉ cầm tay... xuông vậy thôi. Cầm tay là thấy ấm áp hết cả người, hoặc mát rượi hết cả người, thành thử không nghĩ đến ba cái chuyện không thể ấm áp, mà là nóng bỏng, khác.

Nhưng chủ yếu là do ý nghĩ này:

"Sự thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là quá đủ rồi. Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào cũng soi mói, rình mò. 'Mày chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn tao?', anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó."
Cầm Dương Xanh

Rồi bao nhiêu năm sau, gặp lại. Có lần nghe ai đó, hoặc do chính cô [bây giờ trở thành bà nội, bà ngoại] kể, là, có lần bị đau gân tay, không cử động được, phải giải phẫu, sau đó thì OK, nhưng vụ giải phẫu đó để lại một cái sẹo ở cổ tay.

Thế rồi, Hai Lúa cứ tưởng tượng ra một vết sẹo mình chưa từng nhìn thấy đó, khổ như thế đấy.
Một lần đang ngủ với... bà xã, rồi...  đồng sàng dị mộng, dị mộng thế nào lại cầm tay bà xã lần lần tới chỗ có cái sẹo mà Hai Lúa tưởng tượng ra là nó ở chỗ cổ tay đó, không thấy, bèn la lên, ơ kìa, cái sẹo đâu rồi, thế là giật mình tỉnh dậy, thế là toát mồ hôi, vì xấu hổ!
Ôi chao ôi, chưa bao giờ Hai Lúa thấy mình có lỗi, với cả hai bà nội bà ngoại, như là lần đó!

Phu nhân Somerset
1  2

Có thể nói, Miss Trask đảo ngược hẳn cái lề thói cuộc đời mà chúng ta vẫn thường sống: Đẩy đời thực vào một xó xỉnh, chiếm càng ít không gian bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, nhường chỗ cho giả tưởng. 

Bài này, đúng là tinh thần trang của K.
Hà, hà!
GNV

Hihi, một mặt nào đó, nó cũng là tinh thần của TV!!
Thay vì đẩy đời thường lùi vào một góc để dành chỗ cho giả tưởng, TV đẩy hiện tại vào một góc để quay về quá khứ.
K
*

Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có!

Ta cấm mi không được đem ta ra làm trò cười.
Mi đúng là thiếu… tự trọng!
[Thiếu tự trọng là chuyện quan trọng đối với mình, chứ chưa nói đến mình phải trọng người khác....]