*







  Ghi chú trong ngày

  
*

Literary Criticism

It must end in the inexplicable
GABRIEL JOSIPOVIC

June O. Leavitt
THE MYSTICAL LIFE OF FRANZ KAFKA
Theosophy, Cabala, and the modem spiritual revival 212pp. Oxford University Press. £40 (US $65). 

Stanley Corngold  and Ruth V. Gross, editors
KAFKA FOR THE TWENTY-FIRST CENTURY.
286pp. Camden House. $75.

Stanley Corngold and Benno Wagner
FRANZ KAFKA The ghosts in the machine
273pp. Northwestern University Press. $34.95.        

David Suchoff
KAFKA'S JEWISH LANGUAGES
The hidden openness of tradition 267pp. University of Pennsylvania Press. $65.    

Shachar M. Pinsker
LITERARY PASSPORTS
The making of modernist Hebrew fiction in Europe
487pp. Stanford University Press. $60.         

On September 23 it will be 100 years exactly since Franz Kafka wrote his breakthrough story, "The Judgement". We are probably no nearer to understanding that or any other of his works today than his first readers were, nor should we expect to be. These books help to show us why.

Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao giải thích được!

Trên TLS, số 7 Sept 2012, GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!

Ở đây, cũng phải đi 1 đường ghi chú ngoài lề!

1. Cuốn Bếp Lửa của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!

2. Cuốn Sinh Nhật của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:

Truyện ngắn mà Brod gọi là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]

Nói rõ hơn, nhân loại không làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!

(1)

Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm

Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Đọc cái thư thấy sến ơi là sến.
Nhưng phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp Lửa.


*

Vưỡn luôn có sự chọn lựa để “vưõn là người”.
Với sự man rợ, tất cả đều phải học.
Lanzmann, tác giả phim "Lò Thiêu", Rithy Panh, tác giả “Làm thịt”, và [phim] “Duch, Trùm Lò Rèn Địa Ngục”, và Những tên Đao Phủ Căm Bốt.
Đảng CS không đốt, mà làm cháy những con người

Note: Bài viết của Todorov, về Duch, “Trùm Lò Rèn Địa Ngục”, trong “Hồi Ức như là Thuốc Chữa Cái Ác”, Memory as a Remedy for Evil, đưa ra 1 cái nhìn khác hẳn, và chính là cách nhìn của ông khiến Gấu “đọc lại” Ba Người Khác của Tô Hoài!


  
*

Man of action

Perambulatory Christmas Books, 6th series.
In recent years, it has been our custom in autumn and early winter to find each week a neglected book or curiosity by an established author, purchased from a second-hand book-shop, to ward off Christmas gift-book blues.
The price guide is £5, but we might burgle the piggy bank for an extra quid or two if the need arises. All books are bought to be read. First, some remarks. Second-hand bookshops have been assumed to be in danger for several years now, with reason. New York friends lament the disappearance of neighborhood favorites. Abebooks can supply most things at the click of a mouse. Many people find convenience in e-books and e-readers, and if they are happy, we're happy too. It makes us even happier to report that all the shops we mentioned last year (sixteen) are still in business. A book is a book is a book. You cannot own an ebook. It has no aesthetic properties: no ornamentation, no weight, no smell; in short, no character. It offers no choice between nice-to-handle and that experience's opposite. It does not furnish a room.
We began our perambulations, as usual, in the Charing Cross Road area, London's book-town. Cecil Court continues its bijou existence, hosting several specialist shops, dedicated to cars, theatre, gambling, etc. It is also home to one of our regular haunts: Peter Ellis, at No 18 - rather, our haunt is the pavement outside, where stands a barrow with assorted books at modest prices. Last week, as the nights began to draw in, we lighted on Days of Contempt by Andre Malraux, just the kind of thing we like: something unfamiliar by someone familiar. The dedication is unexpected: "To the German comrades, who were anxious for me to make known what they had suffered and what they had upheld".
Malraux (1901-76) was, par excellence, the writer as man of action (a species in graver danger than the book). He was a revolutionary, fought in Spain, served as de Gaulle's Minister of State, wrote books on art. As the author of Man's Fate (La Condition humaine), Malraux would once have been mentioned in the same breath as Gide, Mauriac, Sartre, Duras; but his other novels are scarce now. Days of Contempt (Le Temps du mépris) was written in 1935, two years after Man's Fate. The German dedicatees are early communist victims of the Nazis. Hitler is mentioned in the second sentence. A comrade, Kassner, is about to be interrogated. "Across the table sat the Hitler official. He was true to type: heavy jaws, square head, close-cropped hair .... "
Things get bad for Kassner before they get better. Both he and his creator, however, believe they can only get worse for the forces of reaction: "This [Nazi] government has to reckon with foreign public opinion ... ". It turned out not to be that simple.
In 1936, the TLS described Days of Contempt (translated by Haakon M. Chevalier) as "very short, very simple, very moving", an "epic that deserves high praise". For our Gollancz Left Book Club Edition, tightly stitched in the usual orange cloth, Peter Ellis charged us £3. We put what was left of our budget towards a copy of the original, ordered by post from Cornfield Books of Brighton (£5), mainly for the pleasure of displaying the cover. In the year of original publication, it had reached its "trentième edition".

Sổ Tay Văn Học TLS, Oct 5, 2012, đọc lại “Thời Miệt Thị”, của Malraux, nhân mùa Giáng Sinh năm nay.
Cùng trong Sổ Tay, là 1 entry về những từ “cà chớn”, trong có từ “asshole”, mà người viết cho rằng, xuất phát tại Paris, giữa đám GI, khi Mẽo giải phóng thành phố, do động từ "ngồi" của Tẩy, s’asseoir”: “asseyez-vous”, mời Ngài ngồi!

Bài này, theo server, cũng đang "hót":

  "Phận Người"

Đà sáng tạo, creative impetus, của Malraux không chỉ thu gọn vô những cuốn tiểu thuyết. Nó còn xùi, suffuse, vô những tiểu luận [GCC thú nhất bài ông viết về Sanctuary của Faulkner: Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình làng văn Tây, André Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám vô trong bi kịch Hy Lạp", và khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã biến "sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc đó, cuốn Giáo Đường của Faulkner. (1)], và những tác phẩm có tính tự thuật, một số trong đó – như Phản -Hồi ký, và Những cây sồi mà người ta đốn, Les Chênes qu’on abat [Felled Oaks: Chuyện trò với De Gaulle – có sức mạnh cực dẫn dụ, overwhelming persuasive force, nhờ dòng văn xuôi thần sầu, những câu chuyện được kể hớp hồn, và quấn quít trong đó, là những nhân vật được miêu tả, và họ không có mặt theo kiểu liệt kê chi tiết, thông báo sự kiện, người thực việc thực, mà là những kỳ tích của nghệ thuật dẫn dụ, art of persuasion.

Thử đọc cuộc lèm bèm giữa Malraux và De Gaulle, trong cuốn chót của bộ sách, ở Colombey-les-deux-églises, ngày 11 Tháng Chạp 1969. Đúng thứ tiểu sử của những vĩ nhân chính trị, mà tôi rất tởm, và nếu 1 ông Tẩy viết ra thì lại càng tởm, vì mấy đấng này, lòng ái quốc chỉ thua có mấy anh Mít, cựu thuộc địa của mấy ảnh, viết về Bác Hồ!

Tuy nhiên, mặc dù thiên kiến, lòng dạ đầy thù hằn như thế, vậy mà khi đọc, tôi phải gật đầu bái phục: đúng là cuộc nói chuyện giữa "đỉnh với đỉnh", between two monuments, hai vĩ nhân lèm bèm như là những vĩ nhân trong những cuốn sách vĩ đại, who speak as only people in great books speak, với 1 sự đồng điệu, hài hòa liên chi, with unremitting coherence, và sáng chói, chúng phá vỡ mọi thiên kiến, mọi phòng ngự, thủ thế của tôi, không những thế mà còn làm tôi choáng, vì cái tôi huyênh hoang bốc phét, tự cao tự đại khùng điên của nó, và làm cho tôi tin ở cái sự cà chớn mang tính tiên tri mà hai vĩ nhân an ủi lẫn nhau, the prophetic nonsense with these two brilliant interlocutors consoled themselves: rằng, nếu đếch có De Gaulle, Âu Châu tan ra từng mảnh, và nước Pháp, ở trong tay một lũ chính trị gia tồi sau De Gaulle sẽ đưa nó xuống đáy địa ngục. Nó dụ khị, chứ không phải làm cho tôi tin tưởng, it seduced me, not convinced me, phải nói như thế.

Và bây giờ, ở đây, tôi giải thích, rằng, cuốn Felled Oaks quả đúng là 1 cuốn “huy hoàng đáng ghét”, a magnificent detestable book.

Bỗng nhớ... NMG.
Có lần ông chủ của GCC than, cứ mỗi lần ông cho nhân vật, gáy, lên lớp, thổ ra vài thứ triết lý, cách ngôn, minh triết...  về phận người, thí dụ, là cảm thấy ngượng miệng!

Ui chao Malraux là bậc thầy của những câu như vậy, Nhưng để nói ra, ông đòi nhân vật phải “sống bằng cái chết” của nó.
Cả 1 cuốn "Con đường vương giả", là chỉ để cho Perkin, nhân vật chính, phán, chỉ có mỗi 1 câu: "Làm đếch gì có cái chết, mà chỉ có ta đang chết"

Nghệ thuật làm dáng



Europe after the second world war
The power of red
How the Soviet empire’s ambitions contained the seeds of its own destruction
Quyền lực đỏ
Như thế nào, tham vọng của đế quốc Xô Viết chứa trong nó, mầm huỷ diệt của chính nó?
Đọc 1 phát là bèn…  liên tưởng:
Chính tham vọng ăn cướp Nam Kít của Bắc Kít, chứa trong nó, mầm huỷ diệt của...  cả xứ Mít!
Hà, hà!



[Ở xứ Bắc Kít, thì cảm thấy ra làm sao]

*

Gấu lượm số báo lá cải này, vì hai bài viết. Một về vụ săn và làm thịt Bin Laden, Hunt For Geronimo. Cái nick của Bin Laden thì lại liên quan đến những ngày mới lớn ở Sài Gòn, và những cuốn phim cao bồi, Viễn Tây, Da Đỏ.
Trong bài viết có 1 câu thú lắm: Họ báo cáo tất cả với vị chỉ huy tối cao, tức Tông Tông Mẽo, trừ 1 điều, ai là kẻ trong số họ, đích thân làm thịt Bin Laden. Và đây là 1 bí mật được giữ kín, giữa họ.
Trong bài về 007, là giai thoại về 1 cuốn phim lớn lao nhất, nhưng chẳng hề được chiếu cho công chúng coi: [Among the great lost works of modern cinema is The Day the Clown Cried… ], trong số mất mát những tác phẩm lớn lao của điện ảnh hiện đại, là cuốn phim “Ngày mà tên Hề khóc”, một cuốn phim của Jerry Lewis,1972, về 1 anh hề mua vui cho những đứa con nít ở Lò Thiêu Nazi.
Hai chi tiết đó, thì lại liên quan tới hai bài viết mà Gấu tính viết hoài, nhưng cứ nấn ná hoài!
Một về 007, mà số phận của truyện, cũng như phim cực mắc mớ tới Gấu, quái thế! Liên quan tới sinh tử, tới số mệnh, tới đau khổ, tới nhục nhã, và sau cùng, tới tái sinh…!
Hà, hà!
Bài còn lại, liên quan đến Lượm Tuyết, và… Yanni!

James Bond at 50
Unshaken

Trong phim vừa trình làng, có 1 “Bond girl”, già cố đế “nữ” đại vương, là... Nữ Hoàng Anh!
Tôi thực sự không nói chuyện với bà, Craig nói về Elizabeth. "We just sort of did what we did". A Bond girl of the high order, then: enigmatic, succinct, and professional.

Còn đây là ma cà rồng nhỏ nhất:  

*


**

Note: W.S Merwin cũng Poet Laureate Mẽo, như Charles Simic. Gấu đọc ông trên The New Yorker, NYRB, bữa nay bệ về. Thơ bảnh lắm. Từ từ Gấu giới thiệu trên TV.
Cuốn của Kurt Vonnegut, chỉ nội cái tít là đã mê rồi. Nó chửi bố bài thơ “Quê hương mỗi người có một, nếu ai không có thì đếch phải là người”!
Sự thực Gấu mua, là vì đọc 1 bài trên Guardian, trong série “Người hùng của tôi”, “My Hero”, mê quá, bèn tậu về. Trước giờ chưa đọc ông này. Cũng tuyệt lắm, có rất nhiều trang nhắc tới xứ Mít, cuộc chiến Mít.

by Alison Moore
'His dark stories are so full of love and acceptance, as well as wit'

Khi tôi đọc KV lần đầu, tôi hai mươi tuổi, và đang quậy thực quậy ở 1 đại học. Khi KV 20 tuổi thì ông ở giữa cuộc Đệ Nhị Chiến và là 1 người lính; 21 tuổi, ông đi phép về thăm Mẹ, vào Ngày Của Mẹ, để biết rằng thì là, mẹ của ông tự tử đúng ngày hôm trước; 22, ông tù binh chiến tranh ở Dresden và chứng kiến thành phố ăn bom (1)

TO MONDAY

Once you arrive it is plain
that you do not remember
the last time 

you are always
like that
insisting upon
beginning
upon it all beginning
over again
as though nothing had really happened
as though beginning
went on and on
as though it were everything
until it had begun 

you never know who you are
the hands of the clock find you
and keep going
without recognition
though what your light
reveals when it rises
wakes from another time
which you appear to have forgotten 

traveling all that way
blank and nowhere
before you came to be
with the demands
that you bring with you
from the beginning 

each time it is
as though you were the same
or almost
oh unrepeatable one
needing nothing yourself
and not waiting 

-W. S. Merwin 

NYRB 11 Oct, 2012

Bài thơ này, có trong Present Company, [dịch nhảm, Bạn quí bữa nay]
Gấu gom ba bài, để tặng SN Gấu (1).

Bây giờ, là tập thơ.
Đọc bài thơ, thì có cảm giác nghe bản nhạc PD, "Xin cho đi lại từ đầu", và Gấu đã từng can Ông Giời, đừng, đừng, cho ông ta đi lại từ đầu, là còn khối em khổ!
Hà, hà!

Bài thơ, tưởng dễ hiễu, dễ dịch qua tiếng Mít, nhưng cực khó.
Gấu loay hoay mấy lần, thấy chẳng ra cái chó gì, bèn, thua.


  Ghi chú trong ngày

Tạp văn (1)

Nabokov có 1 từ để gọi thứ văn chương tạp ghi của Mít, là “poshlost”, theo nghĩa “ăn cắp của ăn cắp”, imitations of imitations. Tuy nhiên nghĩa của từ này rộng hơn nhiều, như ông giải thích, khi trả lời tờ The Paris Review. TV post lại ở đây, rồi nhẩn nha bàn tiếp.

Nabokov vốn, vừa bạo miệng, vừa phách lối. Với ông, những tác giả được chấp nhận [accepted authors] chẳng có nghĩa gì: Tên của họ được khắc trên những cái mả rỗng, sách của họ toàn đồ bá láp… Brecht, Faulkner, Camus và nhiều người khác tuyệt đối chẳng là gì đối với tôi.

Tuy nhiên, câu trả lời sau đây, thì thành thật. Khi được hỏi, ngoài chuyện viết ra, ông làm gì, hay thích làm gì, ông phán:
-Ô, săn bướm, lẽ dĩ nhiên, và nghiên cứu bướm. Những lạc thú và phần thưởng nhờ cảm xúc văn chương, chẳng là gì hết so với khám phá ra 1 loài bướm lạ, và ngắm nó dưới ống kính… Giả như không xẩy ra cách mạng ở Nga, thì tôi đã dâng hết đời mình cho “lepidopteroloy” [ngành nghiên cứu bướm và  bướm đêm, moth] và chẳng thèm viết một cuốn tiểu thuyết nào hết.

Những nhận xét của Nabokov về cuốn tiểu thuyết “Dr. Zhivago” của Pasternak, cho thấy, ông không cảm được nỗi đau của người khác, và phần nào, đây là nỗi thua thiệt của ông, do “con nhà giàu” mà ra.
*

One of the fallacies about becoming a writer is that, in order to do so, you have to suffer an unhappy childhood. Sometimes, the opposite is the case. As evidence, we have this photograph of Vladimir Nabokov, age eight. He sits on the porch at Vyra, the Nabokov summer home, studying a butterfly book and wearing a breathtaking pair of socks. As you can see, Vladimir was a rich kid. He came from an aristocratic family, had a father and a French governess. In 1917, the Russian Revolution ended all that. The boy you see here ceased to exist.
Or did he? Later, when he began to write in exile, Nabokov would draw again and again on the world of this photograph to derive his fiction. He would do so, however, not by writing about his lost Russia but by keeping in touch with the qualities of existence his childhood there had acquainted him with. Early on, Vladimir had discovered that he was synesthetic like his mother. For him, the color blue had a taste. Such doublings of consciousness marked his intellectual and aesthetic development. As a man, he set upon his writing with the attitude of the boy in this photograph: magisterially seated to peruse and dissect creation. The elegant wicker chair, the sprig of blossom in the windowsill, the fanciful summerhouse itself, these things accompanied the waking of Vladimir's sentient mind. Thereafter, his prose was full of their style and fragrance, if not their autobiographical presence.
All of Nabokov's novels reenact the discovery that the color blue has a taste.
Vladimir here is almost Lolita's age. His  connoisseur's eye and screened pelvis foretell Humbert Humbert. This was before exile, before Nabokov's own father was shot and killed- tragedies Vladimir would write about, for the most part, obliquely, preferring to make his books like the one here in his lap: a collection of shimmering creatures, delicately pinned, each, in its journey from worm to butterfly, demonstrating the extravagant imagination of nature.

-Jeffrey Eugenides (1)

Một trong những quái đản về chuyện trở thành nhà văn, là phải có 1 tuổi thơ khốn nạn.
Trường hợp Nabokov là 1 bằng chứng ngược chân lý cà chớn này.
Tớ là thằng bé có 1 tuổi thơ hạnh phúc nhất, không thể nào tưởng tượng ra được.

Gấu được đọc hai bài viết về cuốn “Dr Zhivago” thần sầu, một của Milosz, đã giới thiệu lai rai trên TV. Một của “Italồ Canvìnồ” [Italo Calvino], trong “Tại sao đọc những nhà văn/tác phẩm cổ điển”, cũng thật trứ danh. Sẽ lèm bèm về nó trên TV


Lại nói thêm về sư phụ của Sến, Nabokov.

TTT cũng mê Nabokov, và đã từng dịch Nabokov, bằng 1 cái tên khác, để kiếm sống, sau 1975.
Nhân vật Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, cũng có 1 cõi riêng, với cô Oanh, cô Hiền, y chang Nabokov, để cả thực tại vào trong ngoặc, bà vợ sau cùng khám phá ra sự thực thê thảm, không phải là thằng chồng ngoại tình, mà là, nó đếch coi mình có mặt ở trên cõi đời này:

Thùy ngồi ngả trong ghế. Ở đi văng xa, Kiệt đang xỏ giầy. Nàng nhếch mép khinh bạc. Kiệt trừng trừng, hung hãn, xong cúi buộc giây giầy. Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt ngẩn ngơ. Phút ấy Thùy tỉnh ngộ dưới mắt Kiệt nàng không là gì. Hắn cười trong cõi riêng. Từ bao giờ hắn vẫn sống trong cõi riêng, với nàng bên cạnh. (1)

Cả 1 thế giới tiểu thuyết của Nabokov là 1 cõi riêng, the lost domain, chữ của Fowles, đệ tử của Alain Fournier, tác giả Anh Môn. Lolita thì cũng 1 cõi riêng, của những gã già mê con nít, không phải con nít, mà là nymphet, đàn bà-con nít.

BHD của anh cu Gấu cũng 1 thứ đàn bà-con nít, ngay từ nhỏ, đã già hơn Gấu rất nhiều, đã nhìn ra thằng cha Gấu chỉ mê đứa con nít ở trong em, thay vì mê 1 đứa con gái bình thường!
Và cùng đứa con nít, là Hà Nội của nó!
Mi đâu có thương yêu gì ta, mi mết 1 đứa con nít, 11 tuổi, là ta, từ hồi nảo hồi nào, và Hà Nội của mi ở trong đứa con nít đó.

Hà, hà!

Nhưng phải là Varga Llosa mới nhận ra Nabokov và cô bé Lolita của ông:

Lolita Thirty Years On

Một tác phẩm văn học lớn luôn gây những cách đọc đập lộn lẫn nhau; nó là cái hộp Pandora, trong đó, mỗi độc giả khám phá ra những nghĩa, những ngụ ý, sắc thái, và ngay cả những câu chuyện khác nhau. Lolita hớp hồn những độc giả phiến diện nhất, cùng lúc, làm mê mẩn những độc giả khó tính nhất, qua cơn lũ của những ý tưởng, ám dụ, ẩn ý, và tính phong nhã, sành điệu của văn phong; những độc giả khó tính, đòi sự tuyệt đối của cái đọc, những kẻ đến với cuốn sách với cái hất hàm, nè, liệu mi có làm nổi 1 việc làm thật dễ dàng đối với mi, nếu là một tuyệt tác: Hãy làm cho ta kinh ngạc!, như 1 anh chàng trẻ tuổi đã đòi hỏi ở tác phẩm của Cocteau.

Varga Llosa 

Nhưng chỉ đến sau 1958, khi ấn bản ỡ Mẽo ra lò, cùng với cỡ trên chục ấn bản khác, trên toàn thế giới, thì cánh bướm của em nhí Lô mới tỏa rộng ôm choàng lên quá cả con số những độc giả của cuốn sách. Trong khoảng một thời gian ngắn, cái từ mới “Lolita”, vẫn như 1 cánh bướm [hai mới đúng chứ nhỉ], mở ra một khái niệm mới: người đàn bà-con nít, được giải phóng mà không cần nhận ra, một biểu tượng vô thức của cuộc cách mạng đã xẩy ra trong xã hội đương thời. Tới một chừng mực nào đó, thì Lolita chính là cái mốc lịch sử đó, cái cột cây số đó, milestone, và là một trong những nguyên nhân của một thời đại dễ dãi, khoan dung cho cái bướm, thằng cu, con hĩm, sexual tolerance, thách đố, coi như pha, những cấm kỵ, của tầng lớp thanh thiếu niên tại Mẽo, và Tây Âu, và trào lưu này lên đến đỉnh cao vào thập niên 1960.
Nàng “nymphet” không ra đời với nhân vật của Nabokov. Nàng có, hẳn nhiên, chẳng chút nghi ngờ, ở trong những giấc mơ của những tên “dâm loàn, đồi bại” [chữ của TTT, trong Một Chủ Nhật Khác, đúng ra, chữ của bà vợ Trung Uý Kiệt, chửi...  Cô Hiền, người đàn bà chỉ có thể làm tình nhân, không thể làm vợ], và ở trong sự mù lòa và những xao xuyến run rẩy của những cô gái ngây thơ, và sự thay đổi khí hậu đang bắt đầu đem đến cho nó sự tin cậy. Nhưng, nhờ cuốn tiểu thuyết, nó mang một cái dáng riêng, rũ khỏi sự hiện hữu giấu diếm nóng nẩy, bồn chồn của nó, và thâu đoạt chùm chìa khoá của thành phố. Điều lạ thường, là, cuốn tiểu thuyết của Nabokov đã gây ra cơn cuồng phong, địa chấn, ồn ào, náo nhiệt đó, thấm vào, ảnh hưởng tới, cách cư xử, thái độ, sự nhạy cảm của hàng triệu triệu con người, và trở thành một phần của huyền thoại học hiện đại.
Bởi vì thật khó mà tưởng tượng, một ông nhà văn Nga, lưu vong, chuyên mê bướm [bướm thiệt nhe], như là Nabokov, một nhà văn trong số những nhà văn của thế kỷ, chẳng bao giờ thèm để ý đến những vấn nạn, những giải pháp phổ thông, đương thời, lại tạo ra cơn địa chấn đó, một nhà văn đếch thèm để ý đến, ngay cả cái gọi là thực tại: thực tại là cái chó gì, như ông ta viết, nếu nó không được đặt ở trong mấy cái ngoặc kép.

Vargas Llosa

Lolita vs BHD

We never grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.

In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga.... 

Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?

Hà, hà!

  
Vietnam's leadership
We forgive us


VC tha thứ cho VC
Còn Ngụy thì sao?
No! Never!

Note: Bài này, trên Người Kinh Tế, đọc cái tít, thú quá, Gấu tính dịch, nhưng BBC dịch rồi (1)
Cái tít đểu thật. Cả 1 cuộc chiến dài, thù hận đằng đằng, kéo theo nhiều đời, chẳng hề biết tha thứ là gì, bây giờ mới có được lòng Bồ Tát này, thì bèn tức, và tức cười, đến bể bọng đái!

Tờ Người Kinh Tế thật là lành nghề trong vụ đặt tít.
Viết về Mạc Ngôn, chỉ nội tít những bài viết, mà không bảnh sao, Do Nobels Oblige? A Chinese Dickens?...

*

Note: Bài về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó nghĩ nó bảnh hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ "Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question centrale, của Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền Nam, và đẩy xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.

Hà, hà!

Vaclav Havel
The Freedom Tower

Tháp Tự Do

Tôi phải thú nhận là, không biết có nên nói ra điều này không, vào lúc này: Tôi cực kỳ thù ghét cái tháp đôi ở Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Chúng là một thứ kiến trúc ngu đần hết chỗ nói, chẳng có một tư tưởng nào ở đằng sau nó. Hơn thế nữa, chúng làm hỏng bầu trời thành phố: Chúng ngoi lên, chẳng ra làm sao, vượt ra khỏi khối thuỷ tinh đẹp đẽ Manhattan. Đúng là hai công trình được dựng lên vì lợi nhuận, với bất cứ giá nào: bất cần để ý hình dạng của chúng sẽ ra làm sao, chỉ cần làm sao có thật nhiều phòng ốc, trong một không gian cực kỳ nhỏ hẹp.
Tôi đã có lần ăn tối ở một nơi ở trên đỉnh, và tôi khám phá ra rằng cả một khối công trình kiến trúc như thế đó, cứ thế đung đưa nhè nhẹ. Và tôi coi đây như là một dấu hiệu, có một điều gì không đúng, có một điều gì xẩy ra ở đây ngược hẳn lại với lẽ thông thường, với sự tự nhiên. Một con thuyền, một cái tầu có thể đong đưa. Nhưng một toà nhà đừng nên đong đưa, rún rẩy, cho dù nhẹ nhàng cỡ mấy. Từ trên đó nhìn xuống, thấy thật ngu si đần độn, ảm đạm. Nó không còn là một cái nhìn xuống bên dưới, từ một căn nhà chọc trời, và còn lâu mới là một cái nhìn từ trên máy bay, xuống cõi trần.
Và đây là điều tôi sợ: rằng, vì thế giá [làm sao tao có thể thua thằng chó nào], mà, họ sẽ xây dựng một cái gì đó còn cao hơn cả cái cũ, ở ngay chỗ đó, một cái gì đó sẽ làm hư hoại Nữu Ước, hơn cả cái cũ nữa, rằng, họ sẽ sẵn sàng ăn thua đủ với khủng bố, cho dù phi lý, cho dù ngu xuẩn tới cỡ nào; và sau cùng, ai sẽ thắng, những tên cuồng tín tự sát, hay là một cái tháp còn cao hơn cả Tháp Babel?
Bạn phải uýnh lộn với khủng bố bằng quân đội, bằng cảnh sát, bằng tình báo; với những cảm tình viên của khủng bố, thì bằng chính trị, bằng khoa học có tính chính trị, bằng xã hội học, bằng tâm lý học. Nhà cửa, bìu đình, xây lên để làm giầu thêm mái ấm gia đình, đâu phải để làm cho chúng cù lần thêm. Tại sao không thể xây những bìu đình mới hòa nhập với những cái hiện có, với không gian bầu trời?
Cũng theo ý nghĩ đó, tôi không nghĩ là tại mảnh đất khởi từ con số không này [Ground Zero] lại mọc lên những công trình làm nhớ tới vụ đánh bom. Điều đã xẩy ra tại đây cần tưởng niệm, [làm sao không?], nhưng phải theo cái nghĩa gừng cay muối mặn, tức là vừa phải, có tình, có lý, giống như Đài Tưởng Niệm những người đã ngã xuống tại Việt Nam, hay tại Triều Tiên, ở Washington, hay giản dị, chỉ là một khoảng không gian rộng, một căn phòng rộng, nó làm gợi nhớ tai ương, và cùng lúc ôm lấy nó, cưu mang nó, ở trong lòng không gian rộng lớn này.
Vaclav Havel
Vaclav Havel: Vĩnh Biệt Chính Trường

Cái cú đầu độc tù Phú Lợi là đốm lửa gây cuộc chiến Đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào, cũng giống như cú Tháp Đôi gây ra hai cuộc chiến của Mẽo, sau cuộc chiến Việt Nam.
Cái cú đốt nhà Quốc Hội Đức gây ra Đệ Nhị Chiến... nhưng, ẩn tàng trong đó, là Cái Cực Ác, lòng thù hận của dân Đức đối với Do Thái mới là nguyên nhân gây nên Lò Thiêu.
Cái Cực Ác Bắc Kít mới là nguyên nhân xô dân Mít xuống biển, và đẩy đất nước xuống đáy vực thẳm như hiện nay.
Mẽo, dù sao rồi cũng thoát nạn, như nó đã từng thoát nạn ở Việt Nam, nhưng cưu mang trong tim trong hồn trong máu Cái Cực Ác kia thì vô phương thoát nạn!

*

Malaparte, tên du côn thần sầu!


Nobel văn chương 2012


Nhắc đến Kafka, có ngay Kafka: “Gia tài” lớn lao của Kafka sắp được “công chúng hóa’.



*

Note: Cái tít bài điểm cuộc đời Himmler khiến Gấu mua số báo, chưa kể tò mò muốn đọc bài viết về đêm cuối cùng Cao Bồi [Kim Philby rời Beirut] thèm rời Sài Gòn!

Sự tử tế khủng khiếp, Terrifying Decency, của đao phủ thủ Himmler!
Đây là cuốn tiểu sử mới nhất về Himmler, đầy đủ nhất, và chính xác nhất.
Người viết “giải hoặc”, giai thoại Himmler sợ quá, nôn mửa, khi chứng kiến SS làm thịt Do Thái:

Le 31 aofit [1942], Himmler avait ordonné à un détachement Einsatz d'exécuter cent détenus de la prison de Minsk, pour voir comment on procédait.
Seon Bach-Zalewski, le haut officier SS qui était présent, Himmler faillit s'éanouir quand it vit l'effet dee la première salve du peloton d'exécution. Quelque minutes plus tard, it devint hystérique car deux femmes juives n'avaient pas été tuées sur le coup. Un résultat de cette expérience fut un ordre de Himmler, exigeant que désormais les femmes et les enfants ne soient plus fusiliés mais expédiés dans les camions à gaz. » (Les deux citations sont tirées de l'ouvrage de William Shirer, Le IIIe Reich.).

Trong một diễn văn trước đám sĩ quan SS tại Poznan, ngày 4 tháng 10, 1943, Heinrich Himmler, trùm Gestapo, khen ngợi những vị anh hùng bị hiểu sái, hiểu quấy, đã thực hiện một nhiệm vụ khó khăn, bị bạc đãi.
Đây là chuyện nghiêm trọng, chỉ có thể nói trực tiếp, không thể công khai trước công chúng… Đa số trong các vị biết rõ, làm sao chứng kiến 100, 500, 1000, tử thi xếp chồng lên nhau, kế bên nhau, và vẫn giữ được cương vị của mình… Trang sử vinh quang lẫm liệt này của chúng ta đã và sẽ chẳng bao giờ được viết ra.”
Vào ngày 31 Tháng Tám, 1942, tại Mink, Ngài ra lệnh một đơn vị làm một cú trình diễn cho Ngài duyệt.
Và Ngài đã gần như bất tỉnh, ngay sau loạt đạn đầu tiên, và thây người cứ thế ngã xuống. Và Ngài đã rú lên như một tên điên, khi nhìn thấy, hai người đàn bà Do Thái không chết liền tại chỗ. (1)
Theo cuốn tiểu sử mới này, sự thực không phải như vậy, và “giải pháp chót”, “làm cỏ dân Do Thái”, cũng... thiếu chưa đầy đủ. Nó rộng lớn hơn

Ngẫm nghĩ về ba tư cách văn hóa của tôi trong những ngày làm việc ở William Joiner Center . (1)

Ấy thế mà oái oăm thay, sang Hoa Kỳ chưa được bao lâu, chưa biết nếp tẻ ra sao thì chúng tôi đã vấp phải một cú sốc rất mạnh. Hóa ra việc mời hai chúng tôi của WJC bị phản đối trong cộng đồng Việt Nam dưới sự xướng xuất của một vị sinh viên vốn từng theo học chương trình Thạc sĩ về Mỹ quốc học tại trường Đại học Massachussetts tên là Nguyễn Hữu Luyện. Về sau tôi mới biết động cơ của việc phản đối này của người xướng xuất vốn liên quan đến một vài đòi hỏi riêng tư nào đấy, mà nếu tôi nhớ không nhầm thì hình như là việc xin ở lại làm giảng viên trường Massachussetts và cả xin vào làm nhân viên của WJC của ông Luyện đều không có kết quả. Đơn giản chỉ có thế. Nhưng lúc bấy giờ thì mọi việc chưa rõ ra như thế. Dư luận người Việt chỉ biết WJC đã mời hai nhà lý luận cộm cán trong nước sang Mỹ để “bôi xấu” hình ảnh người Việt tại Mỹ. Và cũng chỉ cần có thế thôi đã dấy lên bao nhiêu cuộc biểu tình chống đối tại nhiều nơi. Khi bay từ San Jose về lại Boston trong cuối tháng Chín năm 2001 tôi được bạn bè nhắn qua e-mail rằng đừng có ghé khu Dorchester đúng giờ xuống khỏi sân bay vì đang có cả một đám đông cầm cờ ba sọc chờ tại đấy. Sự phản đối chúng tôi dâng cao đến mức ông Nguyễn Hữu Luyện đã quyên góp được đến khoảng 200.000 – 300.000 đôla trong cộng đồng người Việt để khởi kiện WJC và khi đến nhà nhà văn Vũ Huy Quang ở San Jose tá túc trong mấy ngày, sau lúc đã biết và quan hệ thân tình với nhau, một hôm bà mẹ anh Quang mới nhìn tôi tủm tỉm cười và nói: “Thế mà cách đây bốn hôm bác vừa góp 20 đôla để kiện cháu và ông Hiến đấy. Bây giờ nghĩ lại thấy tiếc tiền”. Có thể nói đi đến đâu chúng tôi cũng chạm trán với cái áp lực nặng nề đòi giải mã thực chất mọi bí ẩn nấp sau hai cái tên Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi.

Note: Sự kiện, hải ngoại đóng góp khá bộn tiền, và cùng với nó, là 1 làn sóng phản đối hai ông VC, mà giải thích thật đơn giản, là do NHL bị WJC đá đít, thì nhảm quá.

Gấu phán, đám này, não bị liệt 1 nửa quả là quá đúng!
Bí ẩn, thực chất cái con khỉ. Có 1 tên Miền Nam nào “thực sự vì Miền Nam”, được WJC mời không?
Hay mời... Nguyễn Chí Thiện?

Cứ giả dụ, đúng có chuyện NHL bị WJC đá đít thì cũng chưa đủ để dấy lên cả 1 làn sóng phẫn nộ như vậy được.
Ngoài ra, còn chuyện "lịch sự", Tây gọi là “noblesse oblige” nữa.
Viết như thế, thì hoá ra là “chửi” cả lũ hải ngoại bị NHL... lừa, xỏ mũi!

Cờ ba sọc, có tên là cờ VNCH.
Gọi “xách mé” như thế mà không… liệt não thì mới lạ!
Ở chỗ khác, viết cờ ba sọc thì chả sao. Ở đây, trong 1 bài viết về “ba tư cách văn hóa”, mới thực là khốn nạn
NQT

Viết như thế mà khiêm tốn nhận mình có tới….  ba tư cách văn hóa!



**

Tiểu sử RC & Cô Ba của Gấu
Mới tậu, hàng qua tay [second-hand]:

Thằng chả sống ở đâu đó, giữa mộng và thực
“He lived in a state somewhere between reality and a dream”
Luơng tri biểu chúng ta, những sự vật trên thế gian này chỉ hiện hữu tí ti, và cái thực tại thực thì chỉ ở trong mộng.
“Common sense tell us that the things of the earth exist only a little, and that true reality is only in dreams”
Charles Baudelaire
Dedication of Les Paradis Artificiels (1860)

RC ngỏm vì rượu, hầu hạ Cô Ba của Gấu, cũng đặng!

Một câu thật tuyệt của RC, trong Sổ Tay:
“Tớ đếch biết tớ muốn cái gì, nhưng mà lúc này tớ muốn nó, I don’t know what I want, but I want it now”.
Còn 1 cái tít của 1 chương sách trong tiểu sử RC, tặng Sông của NNT, thì thật là tuyệt, tuy chưa đọc Sông, nhưng đọc điểm Sông:

Where Water Comes Together with Other Water:
Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác
Hay là chơi luôn cái tít của Thảo Trần, Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía Nam!



During all her years under house arrest, Aung San Suu Kyi resisted getting a dog for company
Trong tất cả những năm dài bị quản thúc tại gia, bà Aung San Suu Kyi đã tự kiềm chế không nuôi một con chó làm bạn đồng hành.

“I did not think it would be fair to the dog,” she told Post editors and reporters Wednesday during a visit to the newspaper.
“Tôi không nghĩ điều đó là công bằng đối với con chó,” bà nói với các ký giả của báo Washington Post trong cuộc thăm viếng tòa báo vào ngày thứ tư 19-09.

.....

Cám ơn dịch giả Đinh Từ Thức.
Bài rất hay.
Nguyễn Đức Tùng
(1)

Do đọc lời khen của nhà thơ dởm NDT, GCC tò mò đọc bản dịch, rồi tò mò đọc hai câu đầu nguyên tác, là bèn bắt chước Sến, quẳng vô thùng rác!
To resist, là cưỡng lại. Không có nghĩa kiềm chế.
Mít nói kiềm chế cơn nóng nẩy, giận dữ. Cưỡng lại nỗi thèm khát, ao ước.
Ở đây, người viết, còn là người tù, bị bỏ tù, lâu quá, cô đơn quá, thèm nuôi 1 con chó cho có bạn, nhưng cưỡng lại nỗi thèm của mình; từ đó, mới ra ý sau, nếu tôi bắt 1 con chó đi tù như tôi, là đếch có fair đối với nó!

Nguyên tác hay như thế mà dịch cực nhảm, do đếch rành tiếng Mít!
Thế mà cũng có thằng mở miệng khen dịch tới quá!
Cái tít "nhà vô địch", biến thành "nhà dấn thân"!
Đâu có phải ông này không rành tiếng Anh, mà là hơi...  khùng, cứ muốn dịch khác đi, thế là khác luôn ẩn ý, và khổ công dùng chữ, của người viết.
GCC nghi tay thi sĩ dởm này không thực bụng khen DTT!
Ổng khen người khác!

Ở tù mà “đồng hành”!
"Company", ở đây, chỉ có nghĩa, bầu bạn. Dịch là đồng hành, thì nghĩa của nó khác đi.

Câu chót - “I am in favor of steps that will bring about harmony in the long run,” she told us – DTT dịch là, “Tôi ưa chuộng mọi bước tiến sẽ mang lại hài hòa dài lâu”, nhảm. Đúng ra phải dịch, tôi ủng hộ những bước đi, trên đường dài, sẽ mang đến sự hài hòa. Đâu có phải “sự hài hòa dài lâu”?

Fairness is still very much on her mind, as she tries to help engineer an improbable peaceful transition from dictatorship to democracy in her Southeast Asian nation of 50 million people.

Sự công bằng vẫn là điều bà quan tâm, trong thời gian hỗ trợ sự chuyển tiếp an bình không thể ngờ từ độc tài sang dân chủ tại đất nước 50 triệu dân của bà.

DTT.

Người dịch toàn là “dịch phỏng”, thành ra những từ quan trọng, chìa khóa, ẩn ý, đắc địa, của người viết, được DTT chuyển qua tiếng Việt thành 1 từ yếu xìu!

“Improbable” không có nghĩa “không thể ngờ”, mà là “chưa chắc". Đây là 1 từ xác xuất, của giới…  kỳ bẻo, có tính may rủi.
Cái từ thần sầu để nói về “diễn tiến hòa bình”, tại 1 xứ sở láng giềng của xứ Mít ta!

Chưa chắc!
Cũng là 1 cảnh giác, của người viết, gửi tới bà Aung San Suu Kyi.

Làm Gấu nhớ đến chuyện tiếu lâm Mít, về hai cha con nhà kia, ông bố lạc quan quá mức, ông con thì lúc nào cũng,"chưa chắc đâu, bố ơi"; cả hai đang ngồi ăn cơm, trên 1 cái trõng, ông bố cáu quá, hỏi con, bây giờ tao với mày đang ăn cơm, có chắc không, ông con lắc đầu, chưa chắc, bố cáu quá đứng phắt dậy, thế là mâm cơm đi luôn, ông con cười, thấy chưa bố!