logo

Nhật Ký Tin Văn

Tôi không muốn làm cho bạn có cảm tưởng là người Chile chúng tôi xấu xí, chúng tôi cũng có những đức tính... Nào, chúng tôi là một dân tộc với tâm hồn thi ca. Đây không phải lỗi ở chúng tôi, mà do phong cảnh. Chẳng ai đẻ ra ở một xứ sở đẹp đẽ đến như thế mà lại có thể chống lại cái bản năng, nỗi thèm thuồng làm nhà thơ? Tại Chile, bạn lật một hòn đá lên, và thay vì thấy một con thằn lằn, thì lại là một bài thơ, hoặc một mẩu ca dao, lục bát. Isabel Allende: Xứ sở mà tôi bịa đặt ra
"Anh ta có thể kể cho bạn những điều." Conrad viết thư cho một người bạn, về Casement. "Những điều mà bạn cố quên đi." Ông là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy.

Trong The Rings of Saturn, W.G. Sebald kể lại, ông thấy mình  tại một thành phố ven biển Anh, đang ngủ gà ngủ gật trong một chương trình của đài BBC về Roger Casement, một người Ái Nhĩ Lan, bị người Anh xử tử vào tháng Tám 1916 vì tội phản quốc. Tỉnh giấc, bàng hoàng bởi hồi ức của chính mình, và bởi những gì còn sót lại của bài nói trên BBC, ông lò mò tìm hiểu về Casement, và trí tưởng tượng càng sửng sốt thêm, khi biết được tình bạn giữa Casement và Conrad.
Hai người gặp nhau vào năm 1989 hoặc 1890, khi Casement, lúc đó chưa tới ba chục tuổi, làm việc cho Sở Hỏa Xa Congo. Trong vài tuần lễ họ chia nhau một căn phòng. Vào lúc này, Conrad đang loay hoay với cuốn Heart of Darkness ở trong đầu, còn Casement thì đang đi theo sự xúi bẩy của định mệnh của mình: trở thành một người hùng, một kẻ tuẫn đạo, và một kẻ phản quốc... [Bi kịch Casement]


Nghề Đọc

Bernard Pivot, em-xi [MC] chương trình văn học D' Apostrophes trên TV Tây, trong cuốn Métier de Lire, đã kể lại với nhà báo Pierre Nora, về những cuộc gặp gỡ giới viết văn thế giới qua chương trình trên.
 - Chương trình nào tới bi giờ vẫn còn gây ấn tượng ở nơi ông?
Hai tay nhà văn, đều là Nga cả, một, Nabokov, một Soljenitsyne, là hai độc chiêu [scoop] đẹp nhất của tôi. Trước ông khổng lồ, một kẻ sống sót ba trận "đại" hồng thuỷ của thế kỷ 20: chiến tranh, ung thư và những trại tù cải tạo, tôi thấy mình nhỏ bé như một chú lùn. Đây là lần đầu tiên tại Pháp, người ta có thể tiếp cận, sờ mó, nhìn, và nghe người chứng tố cáo số một chủ nghĩa cộng sản Stalin, chủ nghĩa cộng sản ngắn gọn.
Cuộc gặp gỡ trên là vào tháng Tư, 1975. Mười lăm năm sau, những người hiện diện trong chương trình còn nhớ, Soljenitsyne đã chống lại việc người Mỹ bỏ của chạy lấy người tại Việt Nam, và ông đã tiên đoán, miền bắc sẽ "nắm lấy" [mainmise] miền nam.
Người ta đã chê trách tôi, là tại sao không mời thêm một tay trí thức cộng sản, nhưng chẳng lẽ lại để một con rệp bên cạnh một người khổng lồ, trước ống kính của Lịch sử?
Thú vị nhất, theo Pivot, là người khổng lồ Soljenitsyne đã tiên đoán, [trong lần gặp sau đó], là ông ta sẽ sống sót, và chứng kiến chế độ cộng sản Liên Xô sụp đổ, và ông sẽ trở về quê hương:
"Trong thâm tâm, tôi cảm thấy, tôi tin tưởng, tôi sẽ trở về quê hương, và còn sống nhăn." [J'ai en moi le sentiment, la conviction, que je reviendrai, vivant, dans ma patrie".]
Tôi [Pivot] còn nhớ phản ứng của mình: ngưỡng nể, và không thể nào tin nổi!


Tìm Em như thể tìm chim

Le domicile est suspendu au cou de l'homme,
Comme une punition
Alain
[Nơi chốn lủng lẳng ở cổ con người,
Như một sự trừng phạt].

Lan Hương, tên ở nhà là Hồng, hay Hồng Đen, do nước da hơi ngăm ngăm. Bông Hồng Đen cũng có một tiền thân, tên là Hồng, hay Hồng Con, để phân biệt với Hồng Lớn, con gái ông giáo Dực, thầy dậy học trong làng mà Gấu tôi đã nhắc tới, trong bài viết nhân chuyến trở lại nơi một thời vang bóng.
Cô Hồng Con của Gấu tôi, là con một tên địa chủ. Trong đợt đấu tố, liền sau khi Gấu tôi bỏ chạy đất bắc, cô con gái bị nhốt ở trong chính căn nhà của cha mẹ. Bị sốt thương hàn, quá khát nước, cô gái cố bò ra tới cái ao ở bên ngoài cổng, và gục chết ngay ở bờ ao.
Đấy là Gấu tôi nghe bà chị kể lại, trong lần trở về làng cũ.
Bà chị nói:
-Dạo ấy, mấy đứa nó ghép em với cô Hồng Con, em còn nhớ không?
Nhớ, sao không nhớ.
Chính vì nhớ, nên Gấu mới trở về. Lạ một điều, tại sao chị cũng nhớ chuyện con nít đó? Và chị có cảm thấy ân hận, và chán ghét cái làng của mình không?

Bông Hồng Đen, như Gấu tôi được biết, bị bịnh ung thư, và chỉ còn mấy tháng nữa là từ biệt cõi đời. Cô có hứa, qua một người bạn, sẽ gọi điện thoại cho Gấu, nhưng chờ hoài, chờ hoài...

1965. Những ngày cuộc chiến tuy chưa dữ dội nhưng đã hứa hẹn những điều khủng khiếp. Người Mỹ đổ quân xuống bãi biển Đà Nẵng, liền sau đó là lần chết hụt của tôi tại nhà hàng Mỹ Cảnh. Tất cả những sự kiện đó, mỉa mai thay, chỉ làm cho bóng ma chiến tranh thêm độc, đẹp, thêm quyến rũ và trở thành những nét duyên dáng không thể thiếu.
Của Bông Hồng Đen.
Của Sài-gòn. Lần Cuối Sài Gòn

Influence
Ảnh Hưởng
[Bài đọc tại Đại Học Turin]
Salman Rushdie
Từ sự kiện, có cái chuyện ảnh hưởng xuyên qua rào cản văn hóa, ngôn ngữ, chúng ta có thể suy ra một điều, về bản chất của văn chương: rằng (hãy cho phép tôi tạm quên đi cái ẩn dụ nước nôi trơn tuột ở trên], những cuốn sách có thể  sinh ra từ những bào tử, được gió mang đi khắp nơi, hay là từ những gốc rễ đặc biệt, mang tính địa phương, vốn bám chặt lấy từng tác giả. [Gấu tôi tự hỏi làm sao cái chất miền nam của Faulkner lại có ở trong những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chẳng hạn, và Rushdie bèn trả lời], có những họ hàng quốc tế của những từ ngữ, cũng như những bộ lạc rất thân quen gần gụi, về đất cát, và về máu mủ. Đôi khi - thí dụ như trường hợp ảnh hưởng của James Joyce lên chính tác phẩm của Samuel Beckett [hai người đều là dân Ái Nhĩ Lan], rồi tiếp liền đó, là ảnh hưởng của Beckett lên tác phẩm của Harold Pinter với cùng một mức độ như của Joyce trên Beckett - chúng ta có cảm tưởng về một triều đại vua chúa tiếp nối nhau, hay một ngọn đuốc chuyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, thật rõ ràng, và cũng thật mãnh liệt. Trong những trường hợp khác, những nối kết quen quen như thế tuy không hiển nhiên bằng, nhưng chưa chắc đã kém phần mãnh liệt.
Lần đầu tiên đọc  tiểu thuyết Jane Austen, từ một xứ sở, thời đại thật là xa vời so với nền học vấn, sự dạy dỗ và nơi chốn trưởng thành của tôi, là thành phố lớn Bombay giữa thế kỷ 20, điều làm tôi sửng sốt, là tại làm sao, bằng cách nào, những nhân vật nữ của bà lại Ấn Độ, lại đương thời đến như thế; cứ như tôi có thể "sờ" thấy họ. Những người đàn bà thông minh, sôi nổi, lưỡi nhọn hoắt, lúc nào cũng như muốn xổ lồng, muốn bay bổng, nhưng bị "cấm cung" ("huis clos", tiếng Pháp trong nguyên bản) bởi thói đời chật hẹp, vùng vẫy chi đâu thì cũng chỉ trong bốn bức tường của những cuộc khiêu vũ gia đình, nhằm săn cho được một ông chồng; những nhân vật như thế, người ta có thể gặp ở bất cứ đâu đâu, trong xã hội trưởng giả Ấn Độ. Ảnh hưởng của Jane Austen trên cuốn Sáng Ngày, Clear Light of the Day, của Anita Desai và trên Một Cậu Trai Dễ Bảo, A Suitable Boy, của Vikram Seth, thật hiển nhiên.