*

1 2 3



 
 

Lê Minh Hà 

Gió tự thời khuất mặt

 

                                             Anh đâu buồn mà chỉ tiếc

                                            Em không đi hết những ngày đắm say

                                                            Thời hoa đỏ - Thanh Tùng

                                          

                       Cho một Hà Nội nhọc nhằn mà dịu dàng, một Hà Nội thiếu mà vẫn đủ,

                       những mùa xanh xưa chúng ta
 

Anh có thấy trẻ con chạy sau buổi tan trường trên phố ngập nắng? 

Buổi chiều đông hết lạnh

Những chiếc bóng nhỏ bé chạy xôn xao trên đường

Bụi bợn lên từ những gót chân ríu rít

Tôi có cảm tưởng chúng đang chuyển động trong một nhịp trống vô hình

                                                            một nhịp trống náo nức 

Một ý nghĩ về hạnh phúc le lói rồi sáng bừng 

Bầy trẻ nhỏ vô tư 

Anh có thấy trẻ con chạy sau buổi trường trên phố ngập nắng?

                                                                                Nghĩa - 1983

 

            1.
 

            Nơi ấy, con bé con trở thành thiếu nữ. Qua những tháng ngày đứt đoạn. Rồi thành đàn bà.

            Nơi ấy xa rồi và người đàn bà trẻ con nhớ mãi. Nhớ. Và biết rằng mình sẽ không tìm về. Nơi chốn là để đi xa quay về trong hồi ức. Nếu tìm về bằng bước mỏi, nơi chốn có còn thân thuộc nữa không? 

            Nơi ấy ngày xưa thơm mùi sen ổi là một ngõ vắng dẫn thẳng vào khu tập thể gồm phần lớn gia đình văn hóa mới, có chứng nhận đóng dấu phát hàng năm. Một cái cổng đồ sộ bằng sắt hàn hoa lá cành thường xuyên được gia cố, cánh nhỏ mở, ra vào tự do không kiểm soát, cánh lớn luôn khóa chặt giống như mọi cánh cổng liên quan tới những nơi quyền chức từ bấy đến giờ. Cư dân trong khu thì ra vào qua cánh cổng nhỏ luôn luôn mở. Đã có lần một ông cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn Volga hứng chí cho anh lái xe nghỉ, tự mình ngồi sau tay lái đưa vợ tới thăm một người bà con sống ở đó. Anh thường trực cung kính nép bên cánh cổng nhỏ mời bà vợ oai phong lẫm lẫm vào, còn ông chồng cao cấp của bà thì được đá mắt hừm hừm kèm lời dặn: 'Anh ngồi ngoài trông xe chờ đồng chí đây không nhỡ trẻ con nó tắt mắt thì chúng tôi không chịu trách nhiệm.' Cuộc viếng thăm đó đã trở thành một huyền thoại của ngõ, được kể tới tận bây giờ, khi mà cánh cổng cũ đã được tháo bỏ (có lệnh hay tự động thì cư dân không một ai biết). Ngày gặp mặt cán bộ công nhân hưu trí, ông thường trực cũ mắt đã đục đục, bộ còm lê si đa mua đâu đó trên mạn Quốc Tử Giám, giật giật mấy ngón tay ông bạn già hỏi thăm về ông khách cốp dạo nào. 'Khổ. Nào tôi có biết. Thấy bà ấy bảo gì ông ấy cũng nghe, lại nữa là ông ấy tự lái xe... May gặp ông ấy không để bụng chứ hôm ấy thì tôi hoảng quá... ông ấy mất rồi à... Khổ...' 

*.

 
            Huyền thoại dĩ nhiên để nghe mà nửa tin nửa ngờ. Bọn trẻ bây giờ phóng xe ào ào vào ra cái ngõ chật hàng ngày theo châm ngôn 'đi xe xịn là để người tránh chứ đâu phải để tránh người' không hoài hơi tìm hiểu những huyền thoại kiểu như thế, cũng như những điều kiện tinh thần vật chất làm nảy sinh huyền thoại, chẳng hạn sự tồn tại (không biết để làm gì) của một cái cổng có thật và một ông thường trực có thật một thời. Cũng có thật một thời: vườn hoa giữa khu tập thể, tiếng bóng chuyền vang rất xa những chiều hè đầy nắng, những bông sen với mùi hương có thể làm người ta đêm về bay lên được trong bóng tối dày đặc đầy hăm dọa bởi tiếng còi báo động quen thuộc mà bao giờ cũng đột ngột. 

            Không có ai từ nơi đó thúc nhau 'đi đi đi đi'. Không có ai từ nơi đó gọi nhau 'về đi về đi'. Người ra ra vào vào cánh cổng vô hình xưa, thân yêu thì hồ hởi chào nhau, hỏi giá mớ rau con cá vừa mua. Mà ghét nhau, vừa cãi chửi nhau thì cũng cố làm sao để 'con mặt ... kia ... thằng mặt ... kia' biết nỗi khinh bỉ đang chực bục ra, nhưng nếu có bục ra ở đây thì cũng không bị lên án là kẻ chấp nhặt và gây sự... 

            Người đàn bà trẻ con đã đi đi về về bao nhiêu năm qua cái ngõ nhỏ đầy ứ chuyện vặt vãnh của thế gian này. Bên kia đường, trấn ngay trước cửa một nhà hộ sinh, cây đa già tỏa bóng xuống những bà ộ ệ đi vào và khép nép đi ra, nào khăn nào nón, đùm đùm gói gói, mặt mũi vừa võ vàng vừa bủng beo, nhưng mắt thì cứ sáng rực. Tia sáng đó thường chỉ thấy ở mắt người vừa sống lại. Không phải lúc nào họ cũng hớn ha hớn hở cái vẻ đàn bà ấy. Có những người đi vào một mình, đi ra một mình, mặt cúi gầm, bước dấn về phía phố và tia nhìn của họ không hòa được vào ánh ngày rất rực rỡ nơi này, khoan thủng mặt đất lầm lỳ, làm tim người đàn bà trẻ con buốt nhói. Khi đó Ngân thường thu mình nhìn lên vòm đa cổ thụ, lắng nghe tiếng gió, giống như tiếng thở dài an ủi mà người đời có thể cho nhau.  

Đã một lần, Ngân đã nhìn, đã ngóng một người con gái từ nơi ấy. Người con gái gầy guộc, mặt vàng như nghệ, ôm một bọc nhỏ cúi đầu bước ra khỏi cổng nhà hộ sinh. Cây đa già chao cả vòm lá trên đầu gọi gió. Tiếng gió lá rì rào, như một hơi thở nhẹ, êm dịu, bất thường vào cái ngày tháng bảy vừa sáng đã hầm hập. Cô gái ngửa mặt. Đôi mắt cô ứ đầy nước và cô mỉm cười. Từ bên đường bước vội sang một cô gái khác. Họ trao nhau cái bọc, từ đó thoát ra tiếng oe oe non dại. Họ dìu nhau đi vào ngõ, đầu ngẩng cao, bất chấp những đôi mắt từ các hàng quán hai bên ngõ chú mục. Có một bà nạ dòng từ trong đó lao ra giằng lấy cái bọc đùm đứa bé, chửi bới cô gái ầm ỹ. Một bà khác cũng lao ra. Hai người đàn bà trẻ chỉ né người, bình thản đi tiếp. Tại sao lúc đó người đàn bà trẻ con lại nghĩ rằng con đường dẫn từ cái cổng chỗ mình đang đứng sang cái cổng bên đường rất dài, dài sang tới kiếp sau của mình và của họ. 

*.

             Sống hết nửa đời, người đàn bà trẻ con vẫn không tin hẳn được vào những điều linh thiêng vốn mờ mịt với con người. Cũng vì thế mà Ngân thường chả mấy khi để ý tới mùi hương khói xộc sực nức quanh gốc đa già. Xứ sở này vốn chuộng những điều bí hiểm. Nếu không có thì người ta sẽ tự tạo. Nên đền miễu bị triệt từ năm này qua năm khác mà còn nguyên đó. ' Thần cây đa ma cây gạo.' Bao nhiêu chiều hè đi rông ngoài phố, bọn Ngân đã lẻn ra sau gốc đa, tụt quần tè tồ tồ, rồi sau đó sợ mất mật khi bị bọn lớn hơn khuyên bảo một cách đầy nghiêm trọng. Nhưng ngay cả trong giấc mơ dễ bị hù dọa của con trẻ khi đó Ngân cũng chưa từng yết kiến vị thần đã lấy thân cây đa già làm nơi trú ngụ. Mà ma, có thật sao? Chỉ nhớ lâu lắm lắm rồi, năm sáu kế hoạch năm năm rồi, một đêm kia có người đàn bà mang đến đặt giữa rễ cái rễ con của cây đa già một bọc nhỏ chỉ còn hơi âm ấm và hoàn toàn câm lặng. Nếu tính thời khắc theo giờ làm việc của rất đông người khi đó thì đấy là giữa ca ba. Những người quét đường còn đang rê chổi đoạn đầu phố, phải tảng sáng hoặc muộn hơn họ mới tới được nơi này. Người đàn bà ra đi không dùng dằng. Nhưng chị ta đã khóc, khóc nhiều lắm, trước và sau khi từ bỏ cơ quan mà chị ta đã làm việc mấy năm trời, khóc khi một mình lăn lộn bên rệ đê làng Thanh Nhàn, cái làng mà dân cư của nó khi đó toàn những kẻ cả đời không biết tới chữ thanh nhàn, khóc lúc tỉnh dậy thấy bên cạnh mình là đứa bé vẫn dính với mình bằng một sợi thịt da định mệnh. Chị ta sẽ còn phải khóc nhiều nữa, khi đã trở thành một bà lão bệ vệ và lắm của chìm, rất được ông chồng đang lên như diều thì bị hất về hưu sớm và những đứa con ngoan ngoãn giỏi làm ăn kính yêu. Nhưng đấy là chuyện của bây giờ. Còn lúc đó... 

            Ngân vừa nói chuyện ma. Đấy là một sự kiện trọng đại của cư dân trong và quanh quanh cái ngõ Ngân sống. Phải, nếu có thì con ma nhỏ đó nay cũng đã thành một ma luống tuổi. Đứa bé đó cứ lạnh buốt dần đi giữa những rễ cái và rễ con của cây đa già. Tảng sáng, lúc bà lão bán xôi thường ngồi sát tường nhà hộ sinh phát hiện ra thì đứa bé chỉ còn là một hình người bé bỏng bầm tím. Cái linh hồn bé nhỏ đó nấn ná hồi lâu quanh mấy cái tã cái chăn cũ cũ rồi bay lên lẩn vào vòm lá, nhìn xuống đám người đang lao xao thương cảm và chì chiết, buồn bã thở dài. Đấy là một tiếng thở dài kỳ dị, rất kỳ dị, không chứa ẩn một chút nào sự thoả mãn bé thơ. Đau đớn. Rồi nó bay đi. Không bao giờ nó trở về. 

            Nhưng mà từ đó dưới gốc đa bắt đầu một cuộc sống khác. Bà lão bán xôi đặt nơi thằng bé bị lỗi giờ sinh một bát hương. Những buổi sáng tiếp theo bà đều cắm vào đó một nén hương và đặt bên cạnh một bát xôi. Bát xôi đó, khi đã hết hàng, bà sẽ nhẩn nha gảy gảy tàn than và ngồi nhai chậm rãi cho đến hết trước khi cất gánh lên vai về nhà. Có vẻ như từ hôm đó bà thường bán hết hàng sớm. Không biết vì sao, một sớm kia bà thôi bán xôi, chuyển sang bán vàng hương, cũng ở chỗ đó, và bảo rằng thánh khiến bà. Thánh, theo cách giải thích rối mù mà hết sức đơn giản của bà, chính là đứa bé, nay đã được sung vào đội ngũ những ông hoàng.

             Bà lão sai một thằng cháu đóng cái hòm gỗ, sơn đúng màu sơn quan tài loại ba mậu dịch bán căn cứ vào giấy chứng tử, chất đầy ở một cái phố nhỏ gần gần đó. Thằng cháu phát huy trí tuệ cho xứng với đồng bạc tương đương năm bát phở gà của bà, đóng đinh treo cái hòm lên thân cây, chỗ có cái chạc ba đầu tiên, thỉnh bát hương đã ấm chân vào đó rồi dùng vôi ăn cắp ở công trường gần nhà quét một vệt trắng lốp từ đó xuống tới gốc. Thật không ngờ rằng chỉ một cái hòm đỏ nhỉnh nhỉnh hơn tổ chim bồ câu như thế đủ để đánh thức lại cả một niềm tin tưởng ngỡ đã chết từ lâu lắm trong lòng dân chúng. Người ta đổ xô tới khấn vái, bát hương đặt cao quá không cắm được thì họ cắm hương thẳng vào mặt đất, giữa rễ cái rễ con. Những bà chửa đi đẻ thắp hương trước lúc còn chưa khóc mếu vì đau. Người nhà họ hớt hải chạy ra thắp hương khi những cơn đau kia đã tới mức bất bình thường. Những bà bán hàng trong cái chợ gần đó đều đặn khấn vái nhoay nhoáy trước lúc mở hàng. Những ông mặc thế sự xoay vần, cứ tiếp tục các lễ nghi cúng quảy để xin thánh thần đừng rời bỏ đất nước này mà đi hết. Người ta xin phù hộ và người ta lễ tạ, đông nhất là vào rằm mồng một, chen chúc nhau, huých mông thụi ngực nhau, lườm nguýt nhau trong khoảng cách từ gốc cây cho tới bờ tường nhà hộ sinh. Hoàn toàn công khai, bởi ngôi nhà sát nhà hộ sinh khi đó là một xưởng chế biến mì sợi và mỗi sáng bà chủ xưởng cũng rất thành tâm vái gốc đa đều đều. Sau này, khi hết chiến tranh, bột mì viện trợ không còn và xưởng chế biến mì sợi phải đóng cửa, nhà xưởng trở thành trụ sở công an phường thì mọi sự cũng có khác đi. Nhưng còn lâu mới tới khoảng thời gian đó...

   *.

             Một cách ngẫu nhiên, người đàn bà trẻ con phát hiện ra mình luôn luôn khai không đúng địa chỉ. Cứ như trời xui, tất cả cư dân trong ngõ ai cũng như ai đều một mực nói mình ở Cây đa nhà bò. Nghĩa là bên này đường. Nghĩa là ở trong nhà hộ sinh. Hình như Ngân đã đỏ hết mức có thể đỏ khuôn mặt mình khi đọc trong cái cười của anh bạn mới quen một sự nghi ngờ đùa cợt không xứng đáng. Đấy chính là dấu hiệu đầu tiên cho thấy mối quan hệ của họ không thể khai thông được, mặc dù cả hai đều trẻ, đều vân vân và nói tóm lại là đẹp đôi. Vào những năm tháng ấy không thể có chuyện một cô gái chưa chồng điềm nhiên đi qua gốc đa bước vào cổng nhà hộ sinh nếu không có một lý do chính đáng liên quan tới một người khác có lý do chính đáng để vào ra nơi đó: một bà chị ruột của mình hoặc của bạn, một bà chị họ, một cô em, hay bà mẹ (ví dụ thế) đi đẻ.

             Thực ra thì cả khu tập thể của Ngân có cùng một số nhà, như mọi số nhà khác. Đấy là một trong những khu tập thể đầu tiên được xây dựng sau ngày hoà bình lập lại ở Hà Nội. Không phải là một khu dân cư chung chung mà là khu tập thể của một nhà máy. Ba dãy nhà cao tầng cách nhau những khoảng sân rộng thênh thang và những vườn hoa to như một góc công viên. Tất cả các căn phòng đầu tầng đều rộng gấp đôi các căn phòng khác. Theo như cách người ta hình dung về một cuộc sống chung đầy lý thú thì đó sẽ là nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân trong tầng, đọc sách chẳng hạn, đánh bóng bàn chẳng hạn. Trong những tiểu thuyết Liên Xô được hào hứng dịch và đọc thời ấy thì căn phòng đó sẽ được gọi là Góc đỏ. Những cái cống lộ thiên chạy xung quanh mỗi ngôi nhà bao giờ cũng khô rang và không một cọng rác vào ngày nắng ráo. Ngày mưa, nước theo đó chảy ồ ồ xuống cống cái. Không bao giờ khu tập thể bị ngập, ngay cả lúc đầu kia thành phố dân chúng bì bõm lội trong nước dâng như lũ trên phố. Những cái ghế cho trọng tài ngồi thổi còi cầm chịch mỗi trận đấu bóng giao hữu giữa cư dân trong khu hay giữa đội bóng của nhà máy với các đội bóng khác trong thành phố luôn được gia cố. Hầu hết mọi nhà đều sống gần như cùng một nhịp ăn, làm, chơi. Cũng có đôi ba gia đình có một nhịp sống khác khiến mọi người vừa nghi ngại vừa ganh tị. Nhưng họ là thiểu số, một thiểu số hãnh diện song vẫn phải tìm mọi cách che giấu mình.

 *.

 Cô gái mới vượt cạn một mình kia không thuộc thế hệ những đứa trẻ đầu tiên có mặt trong khu tập thể. Những đứa trẻ đó, sinh sau ngày hòa bình lập lại, lúc bố mẹ đang phấn chấn vì căn phòng tập thể mới được phân và tất cả có một đặc điểm chung: thường mang những cái tên trùng lặp và người ta phải phân biệt lũ trẻ bằng cách gọi ghép tên người sinh thành ra chúng. Rất nhiều Quyết; Chiến; Thắng; Hòa; Bình; Hồng; Hà; Quang; Minh; Nam; Trường; Sơn... Những cái tên không hề luôm nhuôm, còn nhuốm chút gì đó quê quê, song buổi chiều khi các ông bố bà mẹ cao giọng gọi con về tắm táp cơm nước là thấy đã hừng hực tinh thần thời đại.

 Người đàn bà thuộc thế hệ trẻ con đó, thế hệ đã từng chứng kiến mà không hề biết cái phút quyết định sinh tử của cuộc đời cô gái vừa vượt cạn. Lúc cô mới chỉ là một mầm sống...

 *.

 Buổi sáng -

              trong sương mù hiện ra những lá vàng non đầu tiên

 Em có nhớ tình thu ngày xưa?

Ta vẫn nhớ tình thu ngày xưa

Không ai biết tình thu ngày sau

 Trong không khí

Một chiếc lá vàng non nhói sáng.

          2.
                                
        
Đêm đã thở một hơi dài mát mẻ vào buổi chiều hè ít gió. Phố lên đèn. Những bóng đèn không có chụp lung lay trên những sợi dây điện chăng dọc ngang thành phố như một tấm mạng nhện khổng lồ. Thế nhưng khu tập thể vẫn âm thầm tối. Vẫn chưa có điện. Những người đàn bà đang chầu hẫu chờ đợi bên mấy cái máy nước công cộng nước chảy bé như đầu đũa rên rỉ. Thỉnh thoảng lại có tiếng ré lên của một bà nào đấy khi bị mấy ông tắm gần đó dội bắn nước vào. Bà gầy nhăng nhẳng than thở:

- Nóng bức thế này mà nhà ăn hôm nay không làm cho chảo nước rau muống luộc cho mát ruột. Cơm chiều mấy đứa nhỏ tha về, nhìn thấy bát canh bí đỏ đã bứ cả cổ. Chan húp trệu trạo được vài ba miếng là buông đũa.

Bóng tối chụp lấy mấy người đàn bà. Tiếng một cô tre trẻ:

- Em dặn con bé đặt nồi chè đỗ đen. Mà quên không đóng lò mùn cưa trước. Cháu nó tự làm, lỏng tay, nồi chè chưa nhừ lò đã sụp. Nó không biết tương ngay đường vào, thế là đỗ bị lại.. Còn lạng đường ướt mua vội vàng hôm rồi sợ hết hạn. Đỗ một nơi đường một nẻo. Bỏ thương vương tội... cũng cố húp cho khỏi phí của trời

         - Còn không? Nhà này còn khúc đá. Tôi ủ mùn cưa chưa chảy hết đâu. Bảo nó sang lấy về mà ăn chè. Mùa này chỉ nước chanh hay đỗ đen đá là chơi được. Nóng thế này ăn gì cũng như nhai trấu.

         - Không ăn được thì phải nằm. Nằm một lúc chiếu sũng mồ hôi. Bọn trẻ con thì thích lăn trên sàn đá. Nhưng mà chỉ mát được vài ba phút, xong rồi là có thoát được mồ hôi đi đâu đâu. Em bảo chúng nó rải cái chiếu mà không đứa nào chịu nghe...

            Lại tiếng bà gầy nhăng nhẳng:

            - Ừ, nhà này cũng thế. Chúng nó lăn khắp nhà chẳng màn chẳng chiếu. May mà nóng thế này muỗi cũng sơ tán đi đâu tiệt cả. Sáng dậy bước chỗ nào cũng rin rít bàn chân vì mồ hôi. Ngồi quạt cho con rã cả tay. Vừa đặt lưng nằm thì chồng lại... 

*.

             Tiếng cười vừa phá ra bị ngắt nửa chừng bởi tiếng trẻ con bỏ dở cuộc chơi trốn tìm, ùa ra từ những miệng hầm công cộng chưa được lấp, chạy rình rịch, hố hố há há: 'Ra xem bà điên hát. Bà Tam bị điên chúng mày ơi'. Lũ đàn bà buông những cái chậu đầy ụ quần áo đương giặt dở, nhìn nhau trong bóng tối mờ mờ, vặn lưng đứng dậy buông tất cả xoong nồi xô chậu rảo chân theo lũ trẻ về phía cổng. Đám đàn ông quăng gầu, độc quần đùi ướt huỳnh huỵch rẽ đám đàn bà xô nhau chạy trước. Phía ấy, phía cây đa già, vẳng lại một điệu ngâm, rồi làn thảm, rồi sa mạc chênh, rồi lại cả 'Đường cày đảm đang'(*) và quan họ. Loạn xà ngầu. Rõ là cuộc biểu diễn của người hóa dại. Người đàn bà điên vắt vẻo trên chót vót, cười khanh khách, chới với gọi xuống: 'Này chị em ơi...'. Điện bật sáng đột ngột. Những người đàn bà vội vã băng ngang phố, tụ lại dưới gốc đa già rướn cổ nhìn, tò mò, kinh ngạc và âu lo. 'Đúng là chị Tam. Sao lại thế này trời ơi.'  Tiếng người đàn bà trẻ. Tiếng người đàn bà sồn sồn: 'Vừa hồi chiều cô ấy còn đứng chia cơm ở nhà ăn tập thể cơ mà'. Những tiếng xì xào nửa thương cảm nửa ơ hờ lan trong đám người dở quen dở lạ đang phình dần ra dưới gốc cây. ''Thiếu vi ta min A đấy mà. Tôi nói đố có sai. Bây giờ có ông nào trèo được lên sờ nhẹ vào người bà ấy một cái là yên cả.'  Tiếng cười ùng ục vang lên như tiếng nước mới đùn ra khỏi ống sau một thời gian dài bị mất. 'Thì ông thử trèo lên. Nói thế là đầy mình kinh nghiệm rồi.' '...Mẹ mấy ông này. Nói thật lại tưởng là đùa nhả. Hồi tôi ở bộ đội, đàn bà con gái bị đầy. Tự dưng khanh khách cười nửa ngày không dứt. Tự dưng khóc rũ rượi như bị ma làm. Nằm co quắp cứng đơ. Cứ ông chính trị viên vào đặt tay lên người một cái là thở bình thường, ngủ dậy lại đâm đầu đào bới gỡ bom phá đá như điên...' Đám người cứ đông dần lên, nhưng dần dần lặng phắc. Chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thì thào: 'Đừng làm cô ấy sợ nhỡ nhào xuống thì chết'. Một cô gái trẻ nói với lên như khóc: 'Xuống đi chị Tam ơi. Về nhà đi tắm đi... em hứng cho chị hai xô nước đầy rồi. Về nhà hát. Về em quạt tóc khô cho. Về nhà đi mai còn đi làm...' Người đàn bà vẫn khanh khách cười vẫn vẽo vọt hát từ cái chạc ba cao chót vót, tóc đổ dài bay rờn rợn trong cơn gió đêm vừa mới nổi. Bài hát về một cây trúc xinh đứng một mình vẫn xinh. Bài hát về bèo dạt mây trôi và những nỗi lòng dang dở. '...Đôi ta thương nhớ í i ... biết bao giờ... lại nhớ tới người... ra sông lại nhớ tới người chứ xuống sông... xuống sông gánh nước.. í i...' Đám đông chợt mê đi. Chưa bao giờ họ nghe người đàn bà nhỡ thì này hát. Sâu lắng. Vời vợi. Đượm một nỗi gì giống như là hạnh phúc. Và cảm giác ấy thành quái gở khi người đàn bà thốt nhiên ngưng giữa lời ca, khóc khóc cười cười. Không ai để ý người đàn ông vừa tới cùng đồng chí trưởng công an khối.

            - Nào bà con ta giải tán. Giải tán! Khẩn trương! Về ngủ mai còn đi làm. Mấy đứa nhóc này... đằng sau quay... chạy!... Nào bà con mình rẽ ra cho chúng tôi làm việc...    

*.

             Đám đông ồn ào trở lại. Người đàn bà hoá dở lại hát váng lên. Trẻ con cứ như cóc nhảy ra rồi lại nhảy vào. Cái giọng Nghệ của anh công an nói bình thường nghe cũng ra khẩn cấp mà chẳng có tác động gì. Thế mà người đàn ông vừa cất tiếng là mọi người xì xào nhỏ dần rồi theo nhau rời gốc cây. Người đàn bà trên cành cao cũng ngần ngừ im tiếng.

           Người đàn ông nói giọng Nam bộ nghe nhỏ nhẹ. Mọi người ai cũng biết ông. Độc thân. Phó giám đốc nhà máy. Ở một mình một phòng nhỏ sửa lại từ cái nhà tắm ở tầng một. Dân tập kết mà không bia rượu, không ăn mắm sống. Nhiều khách và nghe nói vợ con còn trong kia. Mấy anh cán bộ tổ chức hành chính, ông bác sĩ rể của nhà máy, mấy người đàn ông năng nổ và đồng chí công an xúm vào nhau, vung tay vung chân rồi đồng loạt quay sang ông Thản;

            - Làm thế nào bây giờ anh? Trèo lên thì trèo được. Nhưng sợ nhỡ ra chị ấy hoảng nhảy thẳng xuống đất thì...

            Anh công an hộ khẩu khum hai bàn tay làm loa hướng lên người đàn bà dở tính:

            - Chị Tam ơi xuống đi, xuống rồi có chuyện gì thì đề đạt với các đồng chí có trách nhiệm. Xuống đi chị... Có gì mà phẫn...

            Anh cán bộ tổ chức của nhà máy gạt ngang:

            - Sao đồng chí lại nói vậy. Ai làm gì mà chị ấy phẫn. Chị Tam xuống ngay. Có gì thì phản ánh chúng tôi giải quyết!

            Người đàn bà điên đung đưa đôi chân, vuốt mớ tóc dài về đằng trước, khe khẽ cười, khe khẽ khóc, rồi lại hát váng lên. Tiếng hát giờ khản đặc. Ông bác sĩ đứng nghiêng người nhìn xuống bàn chân lắng nghe...

 *.

             Ông bác sĩ đến gần ông Thản:

            - Anh Thản này! Tôi nghe như chị này giả dại đấy thôi. Nhưng cũng là vì đầu óc căng thẳng lắm. Không biết chuyện gì. Thường ngày ở cơ quan anh chị ấy làm gì... Làm nhà ăn à? Hay là có chuyện chấm mút gì bị vỡ lở...

            Người đàn bà điên đã chuyền cành xuống gần chỗ hai người đàn ông đứng, bất chợt cười phè phè, và lại tiếp tục vẽo vọt những lời ca vờn quyến thê thảm. Ông Thản lắng nghe, cố đè nén xuống đáy lòng một nỗi xót thương sâu xa. Ông không biết vì sao người đàn bà lại dở ra như vậy. Chỉ mới chiều nay chị ta còn đứng chia cơm trong nhà ăn. Chị ta bao giờ cũng ý tứ xới cho ông một gà mèn cơm vơi vơi, nhưng lại gia thêm thức ăn hay chút nước thịt kho vào cái nắp gà mèn. Chị ta không mấy lúc bắt chuyện với ai. Nhưng chăm làm đúng kiểu một cô nhà quê vừa được thoát li. Suốt mấy năm rồi chị ta là chiến sĩ thi đua của nhà máy. Cũng cảnh cơm tập thể như ông. Có lần bên bể nước, ông thấy chị ta nhặt mớ rau và vo một rá gạo con, cười ngượng nghịu lúc mọi người trêu chọc về nỗi người làm bếp ăn tập thể lại chê cơm tập thể.

            - Dạ... em.. nhà có ông anh họ...

            - Thế không phải là ông anh ruột à? Anh liền ruột ấy mà. Nghe phong phanh cô có... Này, cứ tìm cha nào xa vợ mà tấn công áp sát. Tiếc gì cái mác chiến sĩ thi đua. Gỡ gạc lấy đứa con cho cửa nhà đỡ quạnh em ạ. Mới lại phòng khi về già...

            Bà có tiếng bỗ bã nhất cười hơ hơ nửa châm chọc nửa thành tâm khuyên bảo... Khi đó ông Thản đã lặng lẽ xách xô nước rút dù. Lòng ông đau nhói. 'Có hẳn đàn bà cứ phải tầm ruồng đàn ông chỉ để kiếm một đứa con?' Về phòng, ông Thản buông phịch xô nước ngoài cửa, ngồi chết lặng như một gốc cây khô. Ông nhớ đôi môi mềm ấy, làn da nóng ấy, đôi mắt ấy. Hừng hực và lấp lánh trong bóng mờ căn phòng không bao giờ tối hẳn bởi ánh sáng của ngọn đèn đầu đường hắt chéo vào. Người đàn bà ấy ông đã bao năm theo đuổi, đã cưới về, đã có với ông hai mặt con trước ngày ông ra đi, đã chỉ nhìn ông ứa nước mắt. Vợ chồng ông buổi đó không nói lời hẹn thề. Nhưng mà ông tin cậy vào những năm chung sống. Sự ngu ngốc của đàn ông! Nhưng có hẳn là như thế! Khi mà khoảng thời gian chia xa đã không phải là hai năm, đã là mười hai năm... 

*.

             ...Những người đàn ông đứng bối rối và bất lực dưới gốc đa. Ông Thản lên tiếng, quả quyết và điềm đạm:

            - Thôi các anh cứ về ngủ mai còn công việc, để tôi đứng đây chờ chị ấy xuống.

            Anh công an hộ khẩu trẻ mừng rỡ vì được giải thoát ra khỏi công việc bó tay bó chân này, nhưng cũng có phần lúng túng:

            - Vậy thì hay rồi. Tôi về qua đồn một chốc rồi lại chạy ra. Mà có điều gì gấp rút thì đồng chí chạy qua chỗ tôi... 

Phố vắng dần. Vào khuya. Ông xích lô vẫn chực khách trước cổng nhà hộ sinh cũng đã vắt mình lên yên kẽo kẹt đạp đi. Ông Thản đứng lặng lẽ dưới gốc cây, tiếc đã không hỏi ông xích lô hút nhờ một điếu thuốc lào cho bớt cơn thèm một hơi thuốc lá bất chợt khô ran lồng ngực. Gió đêm rờn rợn quẩn trong vòm lá. Người đàn bà điên im lặng, lầm lũi tuột dần xuống. Ông Thản lặng lẽ giơ tay. Người đàn bà đổ nhào vào ngực ông, nức một hơi khan, âm thanh khản đặc:

            - Em khổ quá.

            Không biết vì sao ông Thản lại nói như mình biết cả:

            - Đừng dại dột em ạ. Em không tội tình gì....'

 
*.

            ...

            - Anh bảo em làm sao bây giờ? Không chồng mà chửa. Nhục nhã thân em đã đành. Còn mang tiếng cả nhà máy. Biết làm sao bây giờ.

            - Đừng oán hận người ta cô ạ. Có phải là lúc ấy cô cũng đã hạnh phúc rồi không? Đừng băn khoăn miệng tiếng người đời. Trẻ con không có tội gì. Mà nếu cô quyết... thì tôi sẽ trao đổi với ban phụ nữ nhà máy xem có cách nào... Chỉ có điều ta phải cùng nghĩ cho kĩ. Biết đâu đứa trẻ không phải là nguồn cơn khổ sở... 

            Người đàn bà đổi thế ngồi, vén gọn mái tóc rồi chậm chạp búi lại:

            - Anh nói phải. Nếu em bỏ cháu, miệng tiếng người đời em cũng vẫn không ngăn được. Đã chắc gì để mà trông đợi vào duyên muộn. Chỉ có điều em sợ... Nhà máy sẽ không kỷ luật em chứ anh? Anh nói hộ em một câu. Tội nghiệp. Giờ mà em bị đuổi... Đã thoát ly rồi mà phải đâm đầu về quê, ruộng đất vườn tược không, nhục thân em đã đành, cả nhà em nhục. Sinh cháu ra để cháu bị sỉ vả bêu riếu từ trong nhà ra ngoài làng, thà rằng em lại trèo lên cây đâm đầu xuống... 

            Người đàn bà cố trấn áp nỗi sợ trước cái nhục thứ hai, nếu tính cách trục mầm sống ấy ra khỏi thân mình. Sẽ còn phải lâu lắm kể từ ngày ấy những phụ nữ lỡ làng như chị mới có thể tự do đi vào phòng sinh đẻ có kế hoạch ở các bệnh viện phụ sản, đóng tiền, nhận một cái tích kê, rồi mấy tiếng sau yên tâm ra về trong cảm giác vừa nhẹ nhõm vừa đau đớn vừa cắn rứt. Không có một tờ giấy cam đoan của một người chồng cho phép chị làm điều ấy, chị sẽ phải xin giấy chứng nhận ở cơ quan, sẽ phải chịu đựng đủ kiểu nhìn như muốn lột da rút xương của những người quen người lạ. Chị đã từng biết điều đó, không hẳn là người trong cuộc. Nhưng tuyệt nhiên không phải là kẻ đứng ngoài. Mãi mãi chị không quên nổi buổi chiều ấy, buổi chiều chị vừa tròn mười tám tuổi, buổi chiều chị rơi tõm vào trong nỗi đau đớn không cùng tận của đời đàn bà.

 Vì đã nở mấy hôm

vì mưa xuân

và gió xuân

những cánh đào phai

nhẹ nhàng rơi xuống đất

 Bên những gốc đào xưa dòng - sông - thời - gian

đi qua đời thật chậm,

            như ngừng trôi

 

            3.

             - Ối giời chị Phận. Tưởng chị hôm nay đi chợ Thá. Em đang dở tay làm cỏ. Chị vào nhà... U em trong buồng. U ơi, chị Phận đến chơi đây này...

            Người đàn bà kéo nón, múc nắng tạt mặt. Đuôi mắt dài giấu cái nhìn rừng rực và làn môi nhợt nhạt. Thời mỏng mày hay hạt, thời má đỏ môi hồng, thời ngồi trên hè chằm nón thỉnh thoảng nhìn ra sân nắng cười một mình của chị đã tàn héo từ lâu, từ lúc tiễn chồng đi B rồi suýt chết vì đẻ non ngay buổi tối xã làm lễ báo tử một loạt chín anh trai làng. Từ ngày đó, Phận quần quật làm, thôi không chằm nón nữa mà đi buôn nón những ngày việc đồng áng vãn. Chị hay qua nhà Tam, nhìn con em họ vai cứ tròn dần, má cứ ửng dần, tóc cứ bóng dần, thở dài bảo bà Nhị:

         - Thím đừng bắt nó lấy chồng sớm. Chả giai làng thì giai thiên hạ. Hiếm gì. Như cháu đây, nói thím đừng cười, đến cái hơi chồng có muốn nhớ cũng không nhớ nổi. Thì thím bảo cưới được có mấy ngày. Người làng người nước cả. Bố mẹ cháu nhận lời thì cháu cũng gật. Biết gì đâu. Chúng cháu chả được như chú thím...' 

            Bà Nhị cười. Bà cũng cảnh vợ liệt sĩ từ khi còn trẻ. Cũng bao đêm nghiến răng nằm không dám mộng, không dám đặt bàn tay lên chính thịt da mình, từ chập tối đã thu vén con dao bầu đặt đầu giường. Nào phải để phòng ai. Phòng chính mình thôi. Nhưng bà biết mình khổ ít hơn người cháu họ của chồng. Ông bà mê nhau thật. Lại nữa bà không vướng bận gì nhiều với gia đình nhà chồng. Ông Nhị con độc, các cụ qua đời sớm cả. Đến tuổi này, nghe cô cháu họ của chồng than vãn, bà Nhị mới giật mình. Giá không thương nhau đến vậy, giá không từng mê nhau đến vậy, đến nỗi sự vui vẻ trang nghiêm goá phụ của bà đã làm nhụt tất cả ý chí tán tỉnh của đàn ông thì chẳng biết bà có giữ mình khó hơn không? 

*.

                   ...Bà Nhị cầm con dao bài rọc lá trầu mà tay cứ run bần bật:

            - Việc đến thế rồi hả cháu. Mày định sao bây giờ. Mà sao dại thế, đã chồng đã con rồi, cũng phải biết giữ thân. Nhẽ nào... Ai lại để tới tận giờ mới tính. Vỡ chuyện ra thì mày chỉ có nước chết với nhà nó.

            - Cháu chả sợ thím ạ. Ông Trác ông ấy đang ngõi ghế chủ tịch xã, đố dám làm ầm lên. Xấu mặt cháu thì hổ mặt ông ấy thôi mà. Ông ấy rên ầm ầm. Những là tôi tưởng thím lòng gang dạ sắt thờ chồng. Bao nhiêu đàn bà góa đàn bà ế, được cái danh vợ liệt sĩ là hơn thiên hạ đủ đường. Cháu mới bảo thế này, thế thì bác gái có lẽ cũng mong cái danh ấy lắm. Sao ngày ấy bác đẩy nhà em nhập ngũ ở nhà làm ông xã đội trưởng quèn. Bây giờ bác làm phó chủ tịch xã rồi, to chuyện rồi, em mới đến thưa chuyện với bác. Chứ bác vẫn chỉ là ông xã đội, em chẳng dám. Bà vợ ông Trác phủi đít đứng dậy bảo cháu gái đĩ già mồm. Thím xem, cơm no bò cưỡi người ta chửi thiên hạ dễ thế đấy.

            - Thế thằng Trác bảo sao?

            - Ông ấy đi ngay ra ủy ban, cấp giấy cho cháu đi phá. Cháu đã định liều... Lớn bé gì thì nó cũng là người... Cháu sợ mang tội với giời thím ạ. Nhưng ông ấy nói như van thím ơi thím làm thế chết tôi chết cả họ nhà này không ai ngẩng mặt lên được thím nghe tôi thì thôi tôi coi thím vẫn là người trong nhà trong cửa...Cháu ngồi cười thím ạ. Thím xem thời buổi... Giời xa cũng không dám sợ hơn sợ người gần...Chả hiểu ông ấy đả thông bà vợ thế nào mà bà ấy mang ra cho cháu gần trăm bạc với hai thúng gạo nếp với lủng củng những gì gì nữa cháu cũng chả nhòm. Cháu bảo phắt bà ấy mang về.

            - Mày định thế thật hả Phận. Cháu ơi người chửa cửa mả. Không dưng động dao động kéo vào người. Mà cái thằng mặt dày ấy là thằng nào?

            Chị Phận cười nhợt nhạt:

            - Thằng nào mà chả như thằng nào hả thím. Thằng nào lúc ấy mà chả luồn chả cúi chả như trâu húc mả. Thím bảo thời buổi loạn này, thằng nào ở nhà không đui què mẻ sứt chân tay thì bụng dạ cũng toàn rắn rết. Lúc ấy cháu chỉ nắm độc cái ý của nó thôi mà. Có khác gì nhau đâu.
 

*.

             ...Tam không nghe được câu chuyện buồn thảm của mẹ và chị. Bà Nhị gọi cô gái vào, chẳng nói gì nhiều, chỉ dặn dò:

            - Chị Phận phải đi bệnh viện. Mày để tất cả đấy cho u. Đi thu xếp quần áo theo chị lên viện xem có đỡ gì được nhau không. Cầm lấy chục bạc này, vài hôm nữa làm xong cỏ vườn thì u lên nếu chị em chưa về được. Có lọ vừng u mới giã hôm kia cũng cầm luôn theo. Mà chị có thèm ăn gì cũng không được mua bán lung tung, chỉ được cơm với thịt rang, cùng lắm thì mua cái bánh giò.

            Người con gái vô tư:

            - U buồn cười, người ốm mà lại bắt ăn kiêng thế thì nóng ruột chết. Cũng phải tấm mía múi bưởi chứ lại, rồi bát canh khúc cá. Em sẽ mua cho chị. Em có tiền riêng, không cần tiền u em. Mà chị bị bệnh gì phải đi viện gấp thế, sao em chả nghe nói trước gì.

             Bà Nhị nạt 'mày biết cái gì' rồi quay sang cô cháu, nghẹn lời:

            - Phải giữ mình con ạ. Sao tao lo quá, lo còn hơn hồi mày đẻ con Ngần. Cố chịu đau chịu đớn kiêng khem cho kĩ rồi về chừa đi cháu ạ.

            Phận cúi mặt, nghẹn ngào:

            - Thôi nói làm gì trước hả bà. Con đi chuyến này, chả nghĩ đến mình, chỉ những thương con Ngần. Nó quặt quẹo từ ngày mới đẻ. Đã nhà quê, đã mồ côi, lại không xốc vác, mai sau biết làm gì đút miệng.

            Tam là người duy nhất trong ba người phụ nữ không nghĩ rằng những lời đó sao mà sái. Nhưng cả bà mẹ và người chị họ cũng không hề nghĩ rằng chỉ hôm sau đã phải để tang nhau.

           Người rằng con nhện giăng mùng

            Ta biết nói sao

            Đêm ta mơ

            Dòng sông thành đường Autobahn (*)

            Những chiếc ô tô lao điên cuồng trong tối

       

            Người rằng đò đầy chớ qua

            Ta biết nói sao

            Thăm thẳm trời xanh, ngày mây trắng

            Tuyệt vọng đường về      

       

         4.

             Ông Thản ôm người đàn bà đang run bần bật trong cơn nức nở khan, buồn bã. Ông không nghĩ tới việc trách cứ Tam. Có thể làm điều ấy được chăng khi trong trí ông lần lượt diễu lại những con chữ tai ác. Những con chữ làm ông đau đớn vì nỗi bất lực của mình khi nghĩ tới hai đứa con gái còn nhỏ dại và người vợ đã bỏ nhà đi. Vợ ông có khổ sở như thế này không? Có tủi hổ như thế này không? Có tuyệt vọng như thế này không? Đối diện với nỗi đau khổ của Tam, ông chợt hiểu ra rằng ông không được quyền căm hận. Nỗi đau khổ cùng cực suốt mấy tháng qua đã làm ông lầm tưởng.  Còn lại trong ông, nguyên vẹn, vẫn là những yêu thương ấy, những yêu thương sâu nặng, sâu nặng đến độ trở thành đảm bảo cho lòng chung thủy nơi ông.

         Thế cho nên ông Thản đã không ngần ngại buông bát cơm chiều vào thẳng nhà hộ sinh thăm Tam vừa qua cơn đẻ khó. Chị thư ký công đoàn nhà ăn e dè:

            - Thì anh cứ ăn cho xong bữa hẵng nào. Trong ấy giờ có chị tổ trưởng phụ nữ rồi. Lẽ ra phải báo cho phòng hành chính. Nhưng giờ này thì còn có ai ở nhà máy nữa đâu. Vả lại không hiểu sao cô Tam cứ một mực xin được gặp anh... Cô ấy nói gở lắm...'  

*.

             Ngân không bao giờ thấu được nỗi đau đớn của người đàn bà tội nghiệp ấy. Mà liệu có ai tận tường điều đó ngoài chính bản thân người trong cuộc đang khổ sở thu vén đời mình. Chị ta nằm như dán vào cái giường trải tấm chiếu không còn biết màu gì của nhà hộ sinh. Khuôn mặt mà tất cả  đường nét đều vạc xuống gầy guộc qua cơn mất máu vì đẻ khó bừng bừng đỏ trong cơn sốt. Trên cái tủ con đặt sát giường Tam, chỏng chơ nải chuối và hộp sữa. Chị tổ trưởng phụ nữ nhà ăn - người vẫn thường đứng bếp với Tam - sốt ruột đứng đổi chân ở đầu giường, dáng vẻ vừa thương hại vừa dè bỉu, diễn đạt trọn vẹn lòng tốt bất đắc dĩ với mấy sản phụ tươi tỉnh cùng phòng. Chị ta thấy ông Thản, tươi cười:

            - May quá, phó giám đốc có đây rồi. Bác sĩ vừa lại phòng báo chuẩn bị chuyển cô ấy lên viện C anh ạ. Giờ cô ấy mới ngủ có vẻ yên yên. Trước cứ mê, khóc gọi ai mãi...

            Người đàn bà ngừng lại, thăm dò:

            - Với lại cứ gọi anh...

            Ông Thản bình tĩnh:

         - Được rồi, chị về qua nhà chị thư kí công đoàn nói tôi nhắn công đoàn xem thế nào trích qũy

trợ cấp đột xuất cho cô Tam, mức cao nhất. Cô ấy chưa lo được cho đứa nhỏ. Mà thế này thì chưa biết nằm tới bao giờ...

- Cô ấy may mắn quá, được phó giám đốc quan tâm trực tiếp thế này... 

            Không có một chút ác ý nào, dường như thế, ẩn sau câu nói. Nhưng hình như mọi lời đồn thổi tai vạ thiên hạ vung vãi làm cho người đời điêu đứng đều bắt đầu như thế chăng? Không như thế, người ta sẽ không thể chịu đựng nổi ngày sống khó nhọc, buồn chán mà tưng bừng của những năm tháng ấy. Không ai biết, trong cơn sốt khô rốc, Tam đã gặp lại người chị họ chết đã bao lâu rồi. Đã nhìn thấy mình trong tấm thân dường như mỏng hẳn đi của Phận sau cơn băng huyết, không động cựa giữa căn phòng bệnh viện huyện âm u cơn gió đồng chiều. Đã thấy lại mình, mười tám tuổi, đưa ngang cánh tay gạt nước mắt ròng ròng, lếch thếch xách gói đồ hai chị em hôm trước tha đi, chạy theo hai người đàn ông bà con hàng huyện đã thuê giúp để võng xác Phận về. Cô gái mười tám tuổi chẳng biết tục lệ làng nước là gì, đã suýt làm cả làng náo loạn...

*.

             Chiều ấy bà Nhị không hiểu làm sao mà cứ như giẫm phải tổ kiến. Bụng dạ tơ vò. Bà không nói được với ai về nỗi sợ thất đảm đang nghiến lấy tâm can mình. Nắng chiều còn như chan lửa, bà đùng đùng đội nón, vác sào ra thu rơm đang phơi lại, rồi chạy ra chạy vào, luấn quấn với đàn gà và đám thúng mủng, bụng bảo dạ phải nấu nướng rồi sáng mai đùm lên với hai chị em nó.

            Buổi tối. Trăng quầng. Bức bối. Bà Nhị chặn cửa chuồng gà xong, ra ngõ, nép dậu cúc tần, thấp thỏm nhìn ngược về phía đầu làng. Thì Tam về tới, giọng khản đặc:

            - Mẹ ơi, con đưa chị Phận về. Bây giờ võng chị ấy vào đâu?

            - Giời ơi! Chị ấy chết rồi ư? - Bà Nhị nghe hai hàm răng lách cách trong miệng như vào những ngày rét ngọt đi làm bùn cấy cần, hay sang đò sớm đem nón mới chằm đi chợ xa - Nó đâu?

            - Chúng cháu đứng đây bà ạ.

            Tiếng đàn ông đục đục. Hai bóng người nhô ra khỏi hàng rào ô rô nhà bên, trải dài trong trăng mờ cùng cái võng treo giữa hai đầu đòn xóc, phủ tấm chiếu im lìm. Bà Nhị run giọng, nói như rên:

            - Các ông làm phúc... Giời ơi... Đây không phải là nhà chị ấy. Nhà chị ấy chỉ có độc con bé cháu hơn mười tuổi. Con tôi không biết... Tam ơi, con nhờ hai bác võng chị trở lại chỗ cây gạo đầu làng. U đi báo cho bên nhà chị ấy. Giời ơi... ối Phận ơi... 

            Bà Nhị khóc suốt đêm ấy, khóc khi mắng thẳng mặt thằng cháu chồng phó chủ tịch xã và con vợ chỏng lỏn của nó, khóc khi lẩy bẩy liệm đứa cháu dưới gốc đa đầu làng và chôn nó trong đêm, khóc khi ôm đứa con dại của Phận vào lòng cố dỗ cho nó ngủ. Nhưng sáng ra thì bà không khóc được nữa khi nhìn mặt con gái. Mặt Tam trắng như người nằm ổ, nhưng cô không có cái vẻ yếu lướt tự hào của họ. Cô như người đi lạc, dúi vào đâu ngủ đỗ, rồi đột nhiên bừng tỉnh. Bà Nhị biết thế là vĩnh viễn con mình không còn có thể vô tư. Chỉ một sớm một chiều, cô đã chạm tới nỗi đau đâm suốt đời đàn bà, thuở đó. 

            Nhưng Tam, dù thế, không tự miễn dịch được cho mình. Nếu những người đàn bà biết bước lùi trước những khao khát hạnh phúc của mình, có lẽ họ đã không đau khổ nhiều như thế. Nhưng như thế, thế giới này còn gì? 

Có những lúc niềm cay đắng ngấm trong từng ánh mắt

Có những lúc khói thuốc bay

                   như khói hương

                    nguyện cho những đời vẫn sống

Có những lúc nuốt máu trong mồm cho khỏi rớt xuống cống

Có những lúc máu nhỏ xuống thảm cùn

                    chỉ có con gián biết

Có những lúc máu nhỏ xuống lá mục

                   chỉ có con sâu biết

Có những lúc thân cát bụi bị hất về cát bụi

                   bằng một phát súng giảm thanh

Có những cô hồn...

 
Đồng hương - Berlin 1996 

 
            5.
   

            Thế giới này còn gì? Thật là một câu hỏi đàn bà. Chỉ có đàn bà hay những người trẻ tuổi mới băn khoăn và đặt những câu hỏi chẳng để làm gì như thế. Sẽ đến ngày người đàn bà trẻ con này nhìn đời nhẹ nhõm hơn, ân cần hơn, bớt thiết tha hơn. Và sẽ hiểu dần ra rằng phải học cho bằng được, để mà biết, không phải là đòi hỏi hay chối từ, mà là chấp nhận, chấp nhận tất cả.

            Và cũng sẽ đến cái ngày Ngân hiểu ra rằng dính vào chữ nghĩa là dính vào một trò chơi nguy hiểm, mà kẻ đặt cược vào chữ nghĩa thường là kẻ thua. Chữ nghĩa không phải là nơi ẩn giấu của con người khi trốn chạy chính mình. Dính vào chữ nghĩa là sẽ chuốc lấy cho mình những băn khoăn day dứt không có kết thúc. Sẽ tự làm mình rủi ro khi cứ cố phân tích bản thân, cố đi tìm mình trong bóng đời. Điều ấy rồi sẽ được hiểu ra thôi, rất nhanh. Chỉ cần một cơn bệnh trọng. Chỉ cần một lần mấp mé bên bờ sống chết.
   
        
   Gượng dậy được sau những lần như thế, người đàn bà trẻ con luôn luôn muốn ra phố lúc bình minh, lúc còn vắng tiếng người xe. Chỉ có tiếng gió chuyển trên vòm đa cổ thụ. Những bình minh êm ả, tiếng gió xôn xao. Những bình minh u ám, tiếng gió dằn dọc. Như trong gió có linh hồn. Của nắng sương. Của đất. Của nước.
 

*.

             Cây đa đã đứng đó bao năm nhìn ngó cuộc đời, không biết. Nhưng Ngân thích cây đa già từ khi còn bé tí, nắm chặt ngón tay mẹ, chập chững trên mấy đầu ngón chân những bước đầu tiên ra với phố. Ngày hôm đó cây đa trút lá ra lộc mới. Nắng. Và gió. Vòm đa đón từng cơn gió thả lá rào rào. Con bé con lúc đó mặc cái váy trắng, cổ trễ một bên vai và gấu lại hếch lên một bên, để lộ cặp đùi gầy. Đứa bé ấy ngước nhìn mưa lá, reo vui: 'Mẹ... Lá...' Từ buổi ấy, cây đa bên kia ngõ nhỏ đã là người bạn của Ngân, để chia tay và gặp lại. Trong bao nhiêu năm tháng ấu thơ đứt đoạn. Vì chiến tranh. Cây đa đã trút lá theo Ngân ngày Ngân còn là một đứa bé ba tuổi, ôm con búp bê nhựa mậu dịch nhem nhuốc, nhăn nhó để mẹ nhét vào cái ghế ngồi bằng gỗ đã bắt đầu chật chằng sau xe đạp cùng đủ thứ đồ lỉnh kỉnh. Cây đa đã nổi gió theo cái xe mẹ chở Ngân đi dọc thành phố, đã thấy Ngân gà gật trên con đường dẫn ra ngoại thành về nơi sơ tán, nơi Ngân đã học những bài hát đầu tiên và những chữ cái đầu tiên. 'Be bé bằng bông - hai má hồng hồng - bé đi sơ tán bế em theo cùng... Mẹ mua xe gỗ - cho bé ngồi trong - bao giờ chiến thắng đưa bé về phố đông'.  'Bố ơi bố mũ bố có sao vàng - sao vuông mũ mẹ mũ con sao gì? Bố cười con cứ ngoan đi - Măng non sao đỏ thiếu nhi Bác Hồ'.  Toàn những bài hát lên thời đó nghe vui mà sau này nhớ lại thì sao mà buồn bã.  Đã bao trưa Ngân dừng chân dưới bóng đa ngày về lại phố đi học còn phải mang theo cái bàn gấp bố kì cạch đóng từ gỗ tạp cùng nửa cục gạch thay cho ghế ngồi. Từ bao giờ, người đàn bà trẻ con không tự biết, chu kì sống của cây đa già đã trở thành một phần vui buồn trong đời. Cây đa biết tất về Ngân, biết kẻ đầu tiên thành tâm ôm ấp đứa bé người đàn bà giả điên sinh ra là Ngân. Không phải là mẹ đứa bé, không phải bà nó, cũng không phải ông Thản, người đàn ông đã tự hứng lấy bao nhiêu đồn thổi và nghi kị độc địa, không hề được một lần nói lại rằng không phải ông thương đứa con của người đàn bà lỡ dở vì tình ý với chị ta, mà chỉ vì...
 

*.

             - Cô Tam này! Em bé đói rồi này. Nó cứ mút mãi ngón tay của cháu.

            - € à úi chao ôi con bống. Em tè sũng sĩnh ra rồi đây chị Ngân này. Em tè hết nên rỗng bụng đấy mà.

            - Cô cho em bé bú đi. Rồi để cháu trông em cho. Máy nước đang vắng, cô đi giặt cho em đi cô ạ.

            - Ừ. Ngân giúp cô thế này thì học vào lúc nào? Rồi mẹ có mắng cho không? Độ vài ba hôm nữa bà nhà cô từ trong quê ra đỡ cho cô, cháu sang chỉ việc chơi với em thôi. Rồi chị Ngân dạy em học nhé. Con mẹ nằm đây với chị nhé, để mẹ đi vò ù cái đống tã khai mù khai mịt này... 

            ...Lúc ấy con bé lên mấy nhỉ? Con bé đâu đã cạn nghĩa chữ thương người. Cứ xong bài vở là nó kiếm cớ qua nhà cô Tam, để được nắm hai bàn chân nhăn nheo mỏng hơn cả chân búp bê của em bé, để được ngửi cái mùi sữa chua chua phảng phất quanh giường, và chơi trò ra vẻ mình là chị lớn cho thoả ao ước có em. Ao ước ấy, con bé đã bao nhiêu lần kèo nèo mẹ. Nhưng mẹ và bố chỉ cười, bảo có hai chị em nó là đủ rồi, cứ đứa nào cãi nhau thì đứa kia bênh và sau này cúng giỗ thì hai chị em chia nhau việc. Bố bảo thích em thì sang mà chơi với em nhà cô Tam. Mẹ dặn thêm có sang thì trông em đỡ cho cô giặt giũ cơm nước. 'Đang chân son mình rồi giờ con bận con mọn một mình ra ra vào vào cái chái đó, rõ tội. Nhà ở quê nghe đâu cũng neo người, có mỗi bà cụ lụi cụi với mấy con gà con qué giờ cũng phải thu xếp ra trông cháu lâu dài... May mà có ông Thản... Người ta bảo...'

            - Bảo bảo cái gì? Toàn những bọn rỗi hơi rách việc. Chuyện chả có gì cứ úp úp mở mở nói qua tai nhau. Thật có muốn tốt cũng phải nhìn quanh.

            - Anh thì chỉ được cái... - Mẹ dè dặt mỉm cười trước cơn cáu kỉnh vô cớ của bố, đưa mắt về phía hai đứa con đang hào hứng gắp gắp và và.

             Khi đó con bé đâu đã hiểu hết sự độc địa của người đời. Bác Thản nó vẫn gặp chiều chiều ở nhà cô Tam. Bác ngồi yên lặng nhìn hai đứa bé, rất ít khi cười. Không có con bé ở đó thì bác sẽ thay nó trông đứa nhỏ cho cô Tam đi chợ, giặt giũ hay chạy ra tổ phục vụ nước sôi năm xu một phích đầu ngõ. Mấy hôm trước con bé mới thấy cô ngồi nán lại nói chuyện với bác:

            - Em nghe bác thôi ăn cơm tập thể. Thế là thế nào ạ? Chị em giờ nấu không ngon hay sao ạ?

            - Có gì đâu cô. Ăn tập thể thì cứ phải đúng giờ đúng giấc. Tôi công kia việc nọ hay đến muộn, phiền các chị các bà xong việc ngồi chầu phục vụ nốt tôi. Với lại tự túc thì mới thấy hóa ra mình không ăn hết tiêu chuẩn. Tháng này tôi còn dư ba lạng phiếu thịt, lại cả phiếu cá và đậu phụ. Cô Tam cầm lấy mua thêm. Vài ba hôm nữa bà ngoại ra, thêm miệng ăn trong nhà là gay đó.

            - Em trả ơn anh cả đời không nổi. Không có anh thì đã không có con bé cháu bây giờ, thì chắc em ân hận suốt đời. Anh giữ lấy phiếu mua mà dùng, em không dám cầm đâu. Em làm nhà ăn thì lạ gì. Tiêu chuẩn sự nghiệp hành chính có bao nhiêu. Mà anh thì đồng hương đồng khói suốt.

            - Ấy cô Tam đừng bận lòng. Anh em tới tôi thì có gì ăn nấy à. Dân Nam tụi tôi sống dễ mà. Cô không cầm thì không lẽ xui tôi mang ra bán cho phe phẩy, rồi kiểm điểm đảng viên lại mắc cái tiếng tiếp tay với tư thương, khéo bình bầu cuối năm trượt cái oạch đó đa... € mà cô Tam này, việc khai sinh cho cháu tới đâu rồi?

            - Dạ... Em đang rối cả ruột anh ạ. Em đã hứa với người ta sống chết gì cũng không khai tên người ta ra, không để người ta khổ từ trong nhà ra phố. Nhưng mà lớn lên con tủi nỗi không cha thì... em sợ cháu oán.

            - Tôi người ngoài chả dám bàn gì. Nhưng nếu chỉ vì một cái tên đàn ông để làm bố con bé cháu thì... Tên tôi nè. Tôi họ Võ. Mấy đứa nhỏ nhà tôi tên đẹp không à. Võ Hằng Thương con chị. Võ Hằng Tâm con em. Hay con bé này ta đặt là Võ Hằng ... Hằng...

            - Giời ơi... Cả cái nhà máy này ai chả biết chỉ độc anh họ Võ. Mẹ con em làm thế sao đành.

            - Cô Tam băn khoăn làm gì. Người ta nói mỏi miệng thì người ta thôi. Mà giả dụ họp đảng ủy có ai nói ra nói vào thì bất quá tôi lại tiếp tục lặng im là cùng chứ gì. Cái chính là con bé. Đã sinh ra nó thì phải cho nó được làm người bình thường. Mình đã sống không bình thường mãi rồi. Tôi nghĩ hay gọi nó là con Hằng An. Võ Hằng An.

            Cô Tam nước mắt ròng ròng. Con bé con chả hiểu vì sao. Chỉ thấy bác Thản đặt tên cho em bé hay quá. Nghe qua đã chôn ngay vào ruột. 

*.

             - Mẹ này, em bé nhà cô Tam sẽ tên là Võ Hằng An. Sao bố mẹ không đặt cho con tên hay như thế. Tên gì lại là Lều Thoại Ngân. Cô giáo bảo họ nhà mình nghe như họ người Hoa. Thế là chúng nó cứ gọi con là Tàu Phù đanh đá.

            - Tên con hay mà. Có gì mà phụng phịu. Con bảo cô Tam đặt tên em bé là Võ Hằng An à?

            - Không! Bác Thản đặt. Cô Tam nghe rồi khóc. Tên em bé hay hơn tên cô ấy bao nhiêu.

            Mẹ đưa mắt cho bố. Đêm, xoay trở trên cái giường có rệp, Ngân nghe mẹ thì thào:

            - Ông Thản liều quá. Rõ là thánh chứ không phải là người. Cái cô Tam không có phận mà gặp ông ấy thì quá phúc. Trước thấy mấy ông miền Nam tập kết ngồi đâu cũng chửi, lại tụ tập bia rượu lu bù, em cứ chờn chợn. Nghĩ người Nam họ hời hợt, cù chầy cù bửa. Ra ở đâu cũng người mình cả, có thế này thế khác.

- Tốt thế rồi thì khổ - Tiếng bố.

             Cả bố, cả mẹ, và người cùng nhà máy không ai biết rằng đêm đêm ông Thản vẫn lần đọc lại lá thư cũ kĩ. Thư do con gái ông viết, không biết vì nước mắt hay vì những cơn mưa rừng mà nhoè mất nhiều dòng. Cũng không ai biết, khi đặt tên cho đứa con của người đàn bà khốn khổ, ông đã nghĩ tới một đứa bé khác, đã hình dung mình là một người đàn ông khác, và người đàn bà nước mắt ròng ròng ngồi trước mặt ông không phải là Tam, mà là người vợ ông yêu.

 
Gửi bố 

Đã thấy trong gương tóc đen chen tóc bạc

Bốn năm con xa nhà

 

Này là nét của mẹ

Này la nét của cha

Này là mũi tẹt da vàng

Lẫn làm sao cho được

 

Những ngày kiếm ăn quanh

Những ngày gào thét hão

Lý tưởng nào tìm kiếm suốt đời con

 

Bố ơi

Tóc bố không còn sợi đen

Con còn phiêu bạt mãi

Càng già con càng thương bố hơn.

 

            6. 

            Sau này, Ngân đã nhiều lúc dằn vặt mình bởi không hề nghĩ rằng khi ngây ngô kể về người đàn ông tốt bụng và kín đáo ấy mình đã làm cho người cha mất ngủ. Nhưng biết làm sao được. Khi đó Ngân còn bé quá. Cái giường đầy rệp không thể làm mất giấc của một đứa trẻ lên mười.

            Nửa đêm về sáng, người cha lặng lẽ vén màn khoác áo ra đường. Gió từ bờ tre bên đê rờn rợn thổi trên tấm lưng còn âm ẩm mồ hôi. Sao đã mờ đi. Phố phường thanh vắng quá. Cái thanh vắng vẫn mang không khí thời đang chiến của những đêm vừa yên bình trở lại. Vẫn còn nguyên những dãy tăng xê hai bên hè phố. Hầm công cộng cũng chưa lấp. Không còn tiếng còi báo động hú dồn. Người đàn ông đi trong cơn mộng mị, trong nỗi thiếu vắng thắt lòng một Hà Nội cũ càng. Hà Nội của những tiếng rao đêm rải trong sương trước ngày kháng chiến. Hà Nội chợ Hôm thơm nức mùi thức ăn thời hòa bình lập lại. Ngày đó ông hai mươi. Mới chỉ hai mươi.

 
*.

             Ngày đó ông còn làm việc ở phố Trần Bình Trọng. Khuya, công việc vãn vãn, mấy chàng trai rủ nhau thả bộ dọc Trần Nhân Tông đi kiếm cái ăn đêm. Hồ Thiền Quang về khuya mơ màng như một con mắt khép khiến chàng trai liên tưởng tới con mắt kia lóng lánh sau mái tóc lơi bên má... Cô gái nhà góc Quang Trung Trần Nhân Tông... Đề tài bàn tán mê mải của mấy anh cán bộ mới về xuôi. Bao lâu rồi ông không còn gặp lại anh em cũ cùng cơ quan độ ấy. Bao lâu rồi ông không một lần thấy lại gương mặt cô gái ngày xưa. Đâu phải vì đã vợ con mà không dám tìm người nhìn lại. Tránh tất cả những quan hệ cũ, người cha tìm cách tránh gặp lại chính mình. Ông căng thẳng toàn bộ con người mình để sống, như tất cả mọi người thời bom đạn, nhưng cũng là để chống lại hồi ức mênh mông cứ tìm cách gọi ông về. Về những ngày tháng ở cơ quan, về một thời mới lớn, về những chiều sương một mình một túi dết công văn, áo nâu quần đùi lên Chiêm Hóa hay lần về ngủ đỗ nơi Ghềnh Quýt. Về những người anh hay than phiền ông lười tưới rau tăng gia ngày ấy. Họ bây giờ ở đâu? 

            Ông cúi đầu đi, không muốn hỏi mình câu đó. Họ ở ngay đây, giữa lòng thành phố này, chắc là không mất ngủ như ông, chắc là không phải vật vã với khao khát có nguyên cả một căn phòng để đêm về vợ chồng có thể thì thầm những điều ngoài chuyện tem phiếu và lương lậu, để buổi tối con có chỗ mỗi đứa một góc học bài. Họ ở ngay đây, giữa thành phố này, chắc là không phải đổ trống ngực khi gắp thăm cái xe đạp cung cấp cho vợ khỏi phải rều rệu cuốc bộ đi làm đi chợ. Như ông những năm chưa xa xôi gì. 

*.

             Những năm ấy, bao nhiêu đêm đông gió bấc, khi ngồi sau xe ôm lưng bố để bố đạp xe loanh quanh các phố cho qua cơn thở khó, Ngân đã nghe bố kể bao nhiêu chuyện về thời xưa của ông. Tiếng được tiếng mất, lúc bị bạt đi vì gió, lúc bị chìm lấp trong hơi Ngân thở rít như tiếng gió hút qua ống nứa. Khi đó, Ngân chưa cảm thông sâu xa được với cha mình. Chỉ thấy đời buồn khổ quá, nặng nhọc quá, nặng nhọc như sự hô hấp của mình. Tiếng dương cầm khuya thường nghe những đêm xưa ấy không mang lại cho Ngân một cảm giác gì nhẹ nhõm. Nó giống như âm thanh vẳng lại từ một thế giới khác, có thật, rất yên bình, mà không thể nào len vào được. Đấy không phải là ý nghĩ bình thường nên có ở một con bé lên mười. 

         Cảm giác cô độc của mình bắt đầu từ đó chăng? Nhiều năm sau này, khi ngồi cùng chúng bạn. Ngân lại bắt gặp mình luẩn quẩn với ý nghĩ này. Cảm giác đó chiếm trọn ngày sống của Ngân. Nhưng cô độc không phải là thói quen, chưa bao giờ là thói quen của Ngân. Rất ít người biết điều đó. Bởi thế, rất nhiều người thân với Ngân.

Nhưng những người con trai từng muốn đi qua đời người đàn bà này thì biết rất nhanh. Mặc dù họ không hiểu. Bản năng tự bảo vệ của đàn ông!? Họ làm Ngân kinh ngạc và oán hận, đôi khi, để rồi sau lại thấy cả hai cùng may mắn. Họ nhận ra ngay cái phanh tự động rít lên trong tâm hồn cô gái, ngoài ý muốn của cô. Không ai biết rằng cần phải mặc kệ, cần phải đừng kiêu hãnh thế, cần phải bước dấn thêm một bước cho người đàn bà trẻ con kia gục đầu vào vai mình, rỏ lên đó những giọt nước nóng bỏng và mặn mòi, để rồi sau đó...
 

  *.

                      Để rồi sau đó... Nếu có thể thế, người đàn bà trẻ con sẽ nói cho anh ta nghe cái gì. Về tình yêu chăng? Từ tuổi bé thơ lớn lên cùng với phố, Ngân đã nghe được bao nhiêu tiếng thì thầm tình ái vẳng lên từ mặt đất. Tiếng lục đục hối hả dưới hố tăng xê giữa giờ báo động. 'Nhanh lên anh, nhanh lên anh, báo yên rồi...' 'Em...' Tiếng chàng trai rên trong cực lạc không khác gì tiếng người sắp chết. Những đứa trẻ có biết rằng chúng được sinh ra để rồi hấp hối trong những năm tháng ấy như thế nào không? Không phải từ tình yêu. Làm sao có thể có tình yêu giữa hai con người chưa từng biết mặt nhau, chỉ vô tình đi qua đời nhau khi lao vội xuống hố tăng xê vào lúc còi báo động rú. Những đêm hè Hà Nội... Những ban trưa Hà Nội... Không chợ. Không trường. Không ông bà già. Không con trẻ. Chỉ có những người trẻ tuổi đi về theo tiếng còi tầm. Nhưng đấy không phải là một thành phố chết. Vẫn ran ran tiếng ve những buổi chiều lộng gió. Hàng sấu phố Trần Hưng Đạo mùa hoa vẫn rải cánh nhỏ như màu nắng sáng đánh lừa đàn sẻ mỗi bình minh. Mấy gốc ban già đường Thanh Niên dẫu vắng chân người vẫn đơm vầng hồng xôn xao khi mùa xuân đến sớm. Hàng hàng cây thâm thấp dọc bờ Thành đường Hoàng Diệu vẫn phơi phới một màu vàng nõn như những buổi thu trưa. Và, những đứa trẻ vẫn ra đời. Không phải từ tình yêu, không phải, mà từ nỗi tuyệt vọng của lòng ham sống. Hay cũng có thể là từ thói dễ dãi cả trong hạnh phúc lẫn bất hạnh ở không ít người. 

            Hay là tiếng thì thầm mời mọc đêm đêm vẫn lan từ gốc cây này tới gốc cây khác ở khoảng phố gần nhà Ngân. Những đứa trẻ lớn lên đã giễu cợt gọi chỗ đó là thung lũng tình yêu. Nơi đó nhiều công sở và nhà lãnh đạo. Nơi đó có một bể bơi thiếu niên chỉ những chiều hè sau những năm đánh phá mới lao xao tiếng trẻ. Nơi đó có một vườn hoa nhỏ đối diện cửa nhà xác một bệnh viện. Nơi đó có những bức tường trống chạy dài không bao giờ thiếu khẩu hiệu được viết bởi bàn tay của các họa sĩ nhà nghề nằm kề bên những cánh cổng sắt chỉ mở ngày đôi bận cho xe ra vào. Bọn đàn ông ban ngày thường một tay giữ ghidong xe đạp một tay vạch quần tồ tồ tương thẳng vào tường, ngay cả lúc khối phố đã cho kẻ thêm bên cạnh các khẩu hiệu khí thế hừng hực hai chữ lạnh lùng: Cấm đái. Còn ban đêm, cũng họ, sẽ tìm tới khoảng không gian khai mù mịt lấp ló những ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ mẹt thuốc lá hay mẹt bưởi sấu ô mai, để mặc cả, âu yếm và chửi rủa. Tất cả những ngọn đèn thành phố cho lắp ở khoảng phố đó đều bị người ta chọi đá vỡ lập tức. Đấy là thiên đường đèn dầu. Của những gã choai choai no cơm hứng cật. Của những tay đàn ông nhà quê thoát li xa vợ lương chỉ đủ tậu cái xe đạp tuần tuần tháng tháng về nã thêm gạo của vợ con. Của những người đàn bà xộc xệch vì cơm áo thường từ mấy khu bờ sông lại hay từ đoạn dưới Lương Yên Thúy Ái ngược lên. Ngân rất sợ những âm thanh vọng lại từ nơi đó... Chúng không giống như tiếng bình yên của những bầy chim thức sớm, mặc kệ những vòng bánh xe đạp quay quay, từ mặt phố bay vù lên rồi lại thản nhiên đáp xuống lẫm chẫm bước giữa tinh sương.

 *.

             Nơi đó gần nhà lắm nhưng Ngân thường tránh đạp xe qua. Đi thêm một đoạn nữa, sẽ có thể rẽ ngang, sẽ lại gặp những vòm cây bốn mùa xanh lục, và những khoảng phố êm đềm. Ở khoảng giữa phố Lê Thánh Tông, nhiều năm về trước, đi học về nhìn qua hàng rào gang một biệt thự có lính gác, bọn Ngân buồn cười mãi vì lần nào cũng thấy một ông da nhuôm nhuôm mặc váy quấn một cục trễ rốn. Nghe nói đấy là một lãnh tụ cách mạng ở Miến Điện. Đấy là một chiến sĩ thực sự hay đấy là một tên cốp khủng bố? Làm sao một câu hỏi bất kính như thế khi đó có thể nảy ra trong đầu Ngân!

             Nhưng sau này, hồi tưởng lại phố xưa, nhớ cái bụng tròn đen đen bệ vệ lộ ra dưới cạp váy sặc sỡ của ông lãnh tụ Miến Điện, người đàn bà trẻ con lại băn khoăn nhớ. Những cuộc cách mạng bùng nổ là hạnh phúc hay là bất hạnh của các dân tộc đã đưa vai ra gánh gồng lịch sử? Và những cuộc kháng chiến? Có phải người ta cứ phải đi cho hết con đường máu ấy để trở lại với mình? Những ai, nào những ai ai, sau khi chinh chiến đi qua còn được nhớ?

            Đám bạn thường cười Ngân vì nỗi nhồi được vào đầu đủ thứ vớ vẩn và vô nghĩa, như câu hỏi kia hay như màu lá nào kia, trong khi ngày sinh của nhau, chẳng hạn, chật vật lắm Ngân mới có thể giữ được trong đầu. Nhưng một cuộc gặp gỡ tình cờ, một tiếng cười vô cớ, một câu chuyện bâng quơ tất cả đã quên đi thì Ngân lại nhớ rành rẽ nhiều năm. Cần phải nhiều thời gian nữa để Ngân hiểu rằng chai đá được là đỡ khổ. Bao giờ?
 
            Một cách vô thức, Ngân đã tự biến mình thành nơi lưu giữ kí ức của ông bà cha mẹ. Thổi suốt lòng Ngân cho tới bây giờ là tiếng thầm thì của gió những chiều xưa biên giới, là tiếng đêm rì rào bí ẩn trong cánh rừng vây quanh khu nhà cơ quan nơi chiến khu. Bữa cơm cơ quan không có tay đàn bà nấu nướng toàn măng và bí đỏ những ngày đầu kháng chiến. Miếng thịt trâu bạc nhạc người bạn Tày hơn hai tuổi để dành cho sau chuyến giao thông về sớm ngày ấy đậm mãi trong câu chuyện của bố tới bây giờ. 'Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo - Nhớ khi tiếng mõ rừng chiều - chày đêm nện cối đều đều suối xa...' Ngày ấy hình như đúng là thế đấy. Người cha hay nhắc nhỏm những tên đất tên người. Lạ, nghe mãi thành thân quen, như tên quê, như tên người họ hàng gần vì hoàn cảnh gieo neo thành thử chưa bao giờ biết mặt. 

*.

 
            Chuyện kể:

            - ...Ngày xưa khi bằng thằng con gái của bố bây giờ bố đã một mình đi giao thông rồi. Đường rừng quanh co. Lắm dốc lắm. Mình người Hà Nội, tản cư về quê mấy ngày đã biết mùi đồng ruộng rừng rú gì đâu. Đi đường dốc không quen, mỏi lắm. Thế nhưng mấy cô Mán thì lại cứ cười rinh rích hỏi thăm đường miền xuôi thế nào. Nào có ai đã từng ra khỏi mấy dãy núi ấy đâu. Các cô ấy trèo núi quen, đi chân bao giờ cũng nhấc cao thế này này.

           - Ông cụ người Thổ, tên là Muỗi, tính hiền lắm, nhà nghèo lắm. Mà có cái gì cũng cho cơ quan. Có năm sinh nhật Bác, cơ quan bày trò ăn uống. Ăn mãi thịt trâu bí ử sợ quá rồi, ông Tuất mới xung phong cải thiện cho anh em. Tưởng làm gì, hóa ra ông ấy tính thịt con chó ông Muỗi cho đã nuôi được tới nửa năm. Đã chuẩn bị đầy đủ riềng húng mắm tôm, mài dao rửa thớt xong xuôi từ chiều hôm trước. Lại còn phân công nhau vào tận trong mấy nhà nằm lảnh sát chân núi tầm cho được mấy quả chanh cốm. Cứ thấy con chó len lét len lét, vừa sập tối đã chui tít vào tận góc lán dưới sạp nằm im thít. Anh em bảo chó nó khôn, nó biết sắp chết nên buồn, có anh lại tuyên bố luôn là thà ăn thịt trâu kho thừa lại còn hơn ăn thịt nó. Nỡ nào... Ai ngờ con chó nó ngửi ra mùi cọp. Nửa đêm, nằm trên sàn nứa, cả sạp dài thế này này, nghe oẳng độc một tiếng, tất cả chồm dậy vỗ sạp ầm ầm. Đốt đuốc lên thấy một vệt máu chạy tít từ trong góc dưới sạp ra cửa. Hôm sau, ban ngày ban mặt mới biết con hổ rình gần chỗ trồng bụi ớt từ bao giờ. Hú vía. Hết được xơi thịt chó lại quay ra thương nó quá. Nuôi nó từ lúc nó bằng con chuột mang từ nhà cụ Muỗi về...

         - Kỉ niệm bố nhắc lại quanh mâm cơm nghe có vẻ vui vui nhiều hơn buồn. Những buổi chiều đi đánh đai gốc trám chờ trám rụng để hôm sau vác giành ra nhặt. Những trưa rủ nhau đi đánh cá suối bằng nhựa cây sui. Những đêm rừng trong quán tản cư ở Sơn Dương. Và cô Mán hồn nhiên se trụi  lông mày bằng sợi chỉ. Ngân đâu biết vì sao cha mình thiết tha với ngày cũ đến thế, đâu biết vì sao dù thế ông vẫn không tìm gặp lại bao người trong những câu chuyện ân tình xưa. Mà ông, cũng đã chắc gì ông tự biết, rằng mình thực ra đã sống hết đời người từ sau lần oan khuất kinh hồn mà ông chỉ nói nhẹ nhàng là tai nạn, rằng mình thiết tha với yêu thương xưa chỉ để sống mà san sẻ bớt ngày tháng gian nan cho vợ cho con. 

          - Những ngày tháng lạ lùng với Ngân. Bầy trẻ cùng khu tập thể đi sơ tán vãn cả. Đám lớn theo trường. Đám nhỏ theo cơ quan bố mẹ. Lớp học rã không tăm hơi bè bạn. Chị gái cũng theo trường đi. Chỉ còn Ngân, bé nhỏ và yếu ớt, giữa thành phố trống, chờ bố mẹ đưa về quê ở cùng bà. Sáng sáng bố mẹ đi làm, còn Ngân bê cái ghế con trên chồng mấy cuốn tiểu thuyết người lớn và bát bánh khúc, tròng thêm vào cổ cái bi đông sắt của bố, lùi lũi xuống ngồi một mình ở cửa hầm công cộng vừa được xây cấp tốc trong khu. Cơn gió sớm thênh thang lồng qua các cửa hầm, hơi bom từ Vĩnh Tuy thốc lên hất văng người, hương vị chiếc kem que ngày chiến tranh... Tất cả Ngân đều biết. Không có gì giống cảnh Matxcova để trống trước bước hành quân của đoàn lính viễn chinh Pháp mà Ngân đã đọc được ở 'Chiến tranh và hòa bình' chính trong những ngày tháng đó...
 

         Tim ta đau vết thương gì không rõ

         Nên cần chi trái gió với trở trời
        

         *

   

         Nếu có thể vui được

         Tôi đã không buồn thế này

 

         *

 

         Ràng buộc với cái gì cũng sợ

         Đành ràng buộc với tự do

 

         *

 

         ...Tháng ngày con lớn lên

            Tháng ngày cha đánh mất

            Mùa xuân đến bằng những mầm cỏ sắc

            Con gái ơi.

 

        7.

             Năm ấy Ngân còn chưa lên mười. Tất cả đều lạ lùng. Bởi vì yên tĩnh, mặc dù de dọa thì cụ thể và bất ngờ hơn rất nhiều. Cái làm Ngân nhớ nhiều không hiểu vì sao lại là bậc thang mà Ngân đột nhiên phát hiện ra một vết lở mới vào một đêm chạy báo động. Vết lở ấy còn mãi mấy mươi năm sau. Nó không nhắc nhớ ngày chiến tranh, nó nhắc nhớ những con đường làng lát gạch nghiêng không biết từ thuở ca dao nào và sau này chẳng hề được tu bổ, toang hoác những ổ gà. Những ổ gà khiến các bà lão đêm đêm ngồi hóng gió ở dốc bến giữa xóm nhỏ mà bà cháu Ngân sơ tán về lại chép miệng thở than về một ngày xưa không trở lại.

             Nhưng những ngày tháng đó vẫn chòng chành mãi trong Ngân. Điềm nào báo trước cuộc chiến tranh đánh phá lần thứ hai khi đó? Chưa bao giờ Ngân nghe ai thắc mắc như mình. Hình như cái điềm ấy đến cùng với chấy và rệp. Không biết lây từ đâu mà trẻ con hồi ấy lắm chấy thế. Tóc nhiều đứa trứng chấy trắng như rắc vừng. Có mấy đứa con gái vẫn chơi với Ngân còn phải gọt trụi cả đầu để tiệt chấy. Mẹ chiến đấu từng ngày với những con chấy sơ tán qua đầu hai chị em Ngân những lúc tụ bạ cùng đám trẻ, nhất quyết không để chúng kịp sinh sôi. Đấy là một cuộc phong tỏa tuyệt vọng và mẹ đã chứng tỏ một sự kiên nhẫn khó hiểu. Tối nào chị em Ngân cũng phải gò cổ gục đầu trên trang vở để mẹ lấy lược bí cào tóc và mẹ vô cùng hể hả khi đột nhiên một con chấy kềnh rơi bộp xuống, lồng vô phương trên trang vở như một chiếc xe tăng. 

         Nhưng mẹ phải buông xuôi trước đám rệp cũng đột nhiên sinh sôi ở mọi nhà trong khu tập thể vào hồi đó, mặc dù mẹ được bố giúp tận tình. Ngày cuối tuần nào cả nhà cũng phải tổng vệ sinh. Mẹ nấu hết ấm nước sôi này đến ấm nước sôi khác để bố dội vào từng khe giường. Thế nhưng bọn rệp lì lợm vẫn cắn nhoay nhoáy cả đêm khiến mẹ thường xuyên mất ngủ. Ngân không tài nào lí giải được nguyên nhân nạn chấy rệp hoành hành trong khu tập thể hồi đó. Chúng đột nhiên biến hết ít ngày sau khi máy bay Mỹ ngừng đánh phá. Điều ấy bí hiểm chẳng khác gì sự bầy cò vẫn bay rợp phố Ngân ngay cả trong những năm ác liệt nhất bỗng dưng rùng rùng bay đi vào một buổi sáng rất đỗi yên bình và không về lại. 

            Bố kể hồi lên Việt Bắc cả cơ quan bị bệnh ghẻ hành. Nấu đủ thứ lá lẩu độc địa để tắm mà không lại với ghẻ. Rồi cũng tự nhiên mà khỏi, đồng loạt, vào năm bắt đầu mùa phản công. Còn rệp bố bảo chả có bao giờ, mặc dù giường nằm là sạp nứa đóng dọc lán cho cả đống người đêm đêm co quắp nhau. 'Đỡ lạnh.' Bố bảo thế, mắt ánh lên niềm âu yếm tháng ngày đã qua.

             Ôi chiếc giường kháng chiến! Ngân không thể hình dung được mình có một lần nào nằm trên đó. Có lẽ bởi thế mà người đàn bà trẻ con không sao hiểu thấu nỗi chua chát của người cha khi nhắc tới những ân tình xưa. Với Ngân, ân tình phải được biểu hiện trong sự đủ đầy vật chất chứ không phải chỉ là trong gian khó. Lúc gian nan, người ta dễ sống với nhau hơn, dễ lo lắng cho nhau. Đấy chưa chắc là cảm thông, đấy là bản năng cộng sinh của con người.
 

*.

         Khi đã đi xa, người đàn bà trẻ con nhiều khi ân hận vì nỗi đã tàn nhẫn nói tuột điều đó với cha mình. Ông bố không yên lặng. Ông không thể nào chịu nổi ý nghĩ chính nỗi đau khổ của mình là căn nguyên tính khí hoài nghi ở con gái. Dù chỉ còn dám tin mình, ông vẫn mong con biết tin người, tin đời. Không có chuyện cân nhắc đó là bản tính tốt hay xấu. Ông biết rằng khả năng dễ tin sẽ làm người ta sống dễ dàng hơn, nhẹ nhõm hơn. Và ông cũng biết rằng ông đã chua xót biết bao nhiêu khi phải trút lại nửa cuộc đời kia của mình, nửa đời vô tư lự, đầy tin tưởng, niềm tin vô chừng hoang dại. 

*.

             Gió ngày ấy còn thổi mãi. Xót và ráp. Như con đường len lỏi qua những cánh ruộng bậc thang thiếu nước mà ông vẫn còn cảm được dưới chân trần, bàn chân của cậu bé học trò Thủ đô nhà nghèo nhưng cũng chỉ mới bắt đầu biết thế nào là bươn trải khi chiến tranh chồm tới. Gió ngày ấy còn thổi mãi, lạnh buốt hơi mưa chiều rừng Việt Bắc. Cậu trai mười bốn tuổi lên cơn sốt rét nửa đường công tác. Thằng bạn vừa đỡ ông đi vừa khóc vừa chửi cho bằng hết vốn liếng rủa xả tiếng Kinh đã học được ở ông. 'Mày ơi. Đi đi. Mẹ mày. Không tao bỏ mày lại ở đây cho cọp vồ bây giờ. Cố thêm một đoạn là tới châu Tự Do. Cố đi nào. Rồi tao đi xin kí ninh cho. Rồi tao xin gạo nấu cháo cho. Mẹ mày chứ sao mày làm ông khổ.' Ông không đi nổi nữa. Thằng bạn lệch thệch cõng ông, cổ tròng thêm túi dết công văn của ông. Mãi mãi sau này, khi đã từng trải bao nhiêu cay đắng, khi đã tự dứt mình khỏi mọi quan hệ cũ ông vẫn thầm tự hỏi không biết bây giờ thằng bạn lang bạt nơi đâu. Có nhớ chiều xưa cõng ông đi? Có nhớ đêm xưa Sơn Dương dựa lưng vào đống chăn mượn đắp cho ông, háo hức nghe những câu chuyện vùng tề của đám đàn ông đàn bà buôn chuyến. Có như ông, vẫn y nguyên những bâng khuâng khi tưởng lại tiếng ghita phập phừng bên đống lửa. Và những bài ca... '...Đêm nay biết bao nhiêu người Thủ đô mơ thấy trở về nơi ngàn năm văn vật ... Ôii Hà Nội ơi ghi biết bao kỉ niệm luyến thương... Ngày Tổng khởi nghĩa tưng bừng muôn ánh sao vàng... Ngày tết Trung Thu các em nhi đồng Thủ đô vui đón trăng lên quanh Bờ Hồ... Ba Đình...' Tiếng đồng ca chìm đi trong một giai điệu buồn buồn rồi bất chợt lại cất cao phơi phới những nhớ thương không bao giờ còn có nữa... 'Mời anh vệ quốc dừng chân bên quán... dặm trường chiến chinh bụi đường thắm nhuốm áo nâu...' '...Đây miền biên giới chứa chan bao tình mến thương...Còn lưu tiếng thơm lớp người ngày xưa lưu dấu... Đây miền biên giới êm đềm khi bóng chiều về... Lôi cuốn bao người về vui với gió chiều hôm... Có ai xuôi về miền quê đồng bằng yêu dấu... Tôi nhắn đôi lời...'

 

         Gió ngày ấy còn thổi mãi. Cơn gió sáng đầu tiên về lại Thủ đô. '...Cất bước ra đi chiều năm xưa... Dặm dài kháng chiến quên ngày về... Bụi đường trường chinh pha mái tóc... Cất bước ra đi ghi lời thề... Ngày mai sẽ về...' Bài ca ấy làm ông buồn lịm cả người khi tìm về phố cũ, dù biết chẳng thể nào thấy lại bóng mẹ bóng em. Ông đã đứng dưới gốc cây già đầu phố nghe thịt da heo may rờn rợn, nhớ quặn lòng người cha chín năm về trước ra đi từ thành phố này và đã nằm lại ở một góc rừng bao nhiêu năm lá chết thôi không còn xao xác. Ông đã đứng dưới gốc cây già đầu phố, nghe gió mùa thu hoan hỉ xôn xao trong đám lá rụng ven đường, thương thằng bạn Thổ không được về xuôi tiếp quản Thủ đô, hoàn toàn không biết rằng chỉ nỗi nhớ ấy là duy nhất để ấm lòng nhiều năm tháng về sau. Nhớ giọng nó hút dài đi trên con đường rừng buổi hai đứa từ Sơn Dương về lại cơ quan. Bài hát ấy ở cơ quan có lẽ chỉ có hai đứa hay hát nhất. 'Mẹ ơi lúc xa mẹ tuổi còn đang thơ ấu... con ra đi xa xăm không hẹn ngày về... Buổi nào con ra đi lòng ghi nhớ... Tiếng của mẹ già gọi hoài vang nương khe...' Và ông, vừa dứt cơn sốt, thấy mình không giống mình của ngày hôm trước. Nó có nhìn thấy đôi mắt ông nóng ướt hay không mà đột nhiên chuyển giọng, gào mấy câu hát nhại vừa học được đêm trước bằng một thứ tiếng Kinh trôi chảy nhưng ngòng ngọng: 'Tóc em dài sao em không búi cứ phi dê cho rối lòng anh...' Không có một bóng người trên đường ngoài hai thằng con trai nhỏ. Chỉ cánh rừng sau mấy ngày mưa sũng nắng mới hừng. Không bao giờ ông gặp lại thằng bạn đã chia chung với ông tấm chăn đơn ngày ấy, đã tập cho ông ăn ớt hiểm chống sốt rét, đã chỉ cho ông cách đào măng và thổi cơm lam. Làm sao ông có thể nói cho Ngân hiểu được rằng đấy là những ân tình vĩnh viễn và ông tin có những người không bao giờ thay lòng. Không có niềm tin ấy, làm sao ông có thể sống sau những ngày không còn dám tin ai mình vẫn thường gặp mặt và thường phải tự xét mình sống có còn lí tưởng hay không? 

*.

          Tâm sự... Tâm tình... Lí tưởng... Không hiểu sao Ngân lại dị ứng đặc biệt với những từ như thế, đến nỗi không bao giờ dùng để nói về mình. Ngôn ngữ không phải là đời sống con người. Ngôn ngữ là nơi ẩn trú của đời sống và bản thân nó có một cuộc đời riêng biệt. Không thể gò ép. Không thể gọt đẽo. Không thể phỉnh phờ. Và cũng không thể dùng nó để phỉnh phờ mình.

         Cũng vì thế mà Ngân ưa chế nhạo. Trước hết là chế nhạo mình. Đấy là một khả năng rất không nên có ở đàn bà. Nó cũng giống như cái kính cận mà một người đàn bà trẻ phải mang, dù có đẹp có sang có đắt tiền đến mấy thì cũng chỉ làm cho người đàn bà đó mất nhiều hơn được trong cái nhìn đầu tiên của người đời. Đàn bà phải cần hơi hơi xinh, hơi hơi thông minh, hơi hơi duyên, còn ngoài ra: thừa, để có thể hạnh phúc theo tiêu chuẩn.
 

         'Hạnh phúc?' Chưa bao giờ Ngân dám đặt cho mình câu hỏi đó. Chẳng lẽ lại phải tìm câu trả lời khi rõ ràng Ngân hạnh phúc đúng theo sự đong đếm của người đời. Chẳng lẽ có thể than vãn khi đợi chờ Ngân trong khung cửa ấy là một tình yêu có thật, là một yên bình rất gần với mơ ước của bao người. Chồng Ngân yêu Ngân. Không có gì phải hoài nghi điều đó. Người đàn ông đã bắt đầu bệ vệ tương xứng với tuổi tác và thành công trong cuộc đời chí ít chưa bao giờ nói rằng không yêu vợ và tin vợ. Người đàn ông đó đã cho Ngân hai mặt con, đầy trách nhiệm với vợ con và hoàn toàn trung thành với Ngân. Làm sao Ngân có thể nói với mọi người rằng chính điều đó làm Ngân khổ sở, cũng như là Ngân đã không thể nói điều đó với chồng mình. 

         Nhưng đúng là Ngân khổ. Khổ vì nỗi chồng mình coi chuyện gừng cay muối mặn là lẽ dĩ nhiên và hạnh phúc là bất biến. Khổ vì nỗi được chồng tin cậy. Khổ vì nỗi chồng không bao giờ băn khoăn tới chữ thủy chung. Làm sao có thể lên án một người đàn ông đầy năng lực thủy chung bởi anh ta thực ra chẳng có một đam mê gì trong cuộc đời, ngoài công việc, sự tiến thân, tiện nghi trong đời sống? Một người đàn ông như thế bao giờ cũng đáng được trọng vọng, từ trong nhà ra ngoài phố. 

         Chưa bao giờ Ngân có cái lo âu vì nỗi sợ sẽ mất chồng. Chưa bao giờ Ngân được thỏa mãn vì nỗi chồng mình sợ mất mình. Đời sống cứ thế từng ngày trượt qua Ngân, nhàn nhã, nhàm chán, phi lí. Không thể nào hiểu nổi làm sao Ngân lại có thể sống vậy chừng ấy năm. Giá như không có mấy đứa con? Thì vẫn thế. Ngân biết là vẫn thế. Dù có ngấm ngầm công phẫn mình đến bao nhiêu, Ngân cũng sẽ không lồng ra khỏi cái lồng son này. 

            Và sẽ tiếp tục âm thầm buồn, tiếc những ngày khó nhọc, tiếc những ao ước không thành nên suốt đời vẫy gọi, tiếc những phấp phỏng và thảng thốt rất không đâu, tiếc những người không bao giờ có thể coi là bạn nữa, mà cũng không bao giờ có thể là gì nữa. Ý nghĩ này hồi đầu làm Ngân kinh hãi và ghê khiếp. Nhưng dần dà, Ngân hiểu ra rằng đấy là lối thoát cuối cùng của mình, của những kiếp đàn bà như mình. Phải! Khi người đàn bà không còn có thể sống cho, sống cùng khao khát, thì phải để cho họ quyền thương nhớ tháng ngày đang qua. Nếu không, họ sẽ không chịu được cảm giác mình phản bội lại chính mình. Hồi ức luôn làm sáng lại ngày đang sống một cách trang trọng và buồn thảm. Đấy chính là vẻ quyến rũ của quá khứ trong Ngân. Có biết bao nhiêu người đã chia cùng Ngân quá khứ đó. Còn ai vẫn mang dĩ vãng trong từng ngày sống bây giờ? Khi hỏi mình điều đó, không hiểu sao Ngân luôn tin rằng có, có đấy, dẫu chỉ đôi người. Những người bạn đã từng cho Ngân những ngày sống cứ như mơ, vì cảm giác được hiểu đến tận cùng. Hiểu nhau... Người ta luôn cầu mong điều đó và hay nói thế. Nhưng thế nào là hiểu nhau? Phải làm gì để hiểu được nhau? Tâm tình ư? Tâm sự ư? Sẻ chia cùng nhau một lí tưởng ư? Có ích gì hơn một bản lí lịch trích ngang không? Hiểu nhau trước hết là cảm giác muốn hiểu nhau. Những từ tâm tình, tâm sự, chân thành, biết ơn, lí tưởng... trở thành xa xỉ và hoàn toàn thừa trong những năm tháng đó. Họ có thể không còn muốn như xưa nữa. Có sao! Lúc đó những từ ngữ vô cảm cũng đâu còn cần thiết. Lúc đó, Ngân sẽ lại nhạo báng chính mình và nhạo báng mọi người. Đấy là một phản ứng tự vệ vô điều kiện ở Ngân. 

         Chồng Ngân chưa bao giờ mất thì giờ để tìm hiểu điều đó. Với người đàn ông, đấy là thói đỏng đảnh đáng yêu và đáng bực của đàn bà, tùy thời điểm, tùy thời tiết trong ngày và tùy công việc ở cơ quan. Anh không thể tưởng được ra rằng biết bao lần đi cùng anh trên phố, người đàn bà trẻ con kia đã tách mình ra khỏi chồng. Chỉ những hoài nhớ kia là có thật. Chỉ nỗi buồn kia là có thật. Chỉ còn Ngân và xa xôi, và nỗi cô đơn tê người. Anh sẽ cảm thấy bị xúc phạm, nếu mà anh biết, và có lẽ còn tức giận bởi thấy mình hóa ra cũng vẫn là một kẻ ghen tuông. 

         Nhưng có thể ghen với dĩ vãng được chăng? Khi mà, ngay trong dĩ vãng hoàn toàn tự do Ngân chưa bao giờ thật sự muốn thuộc về một ai vẫn từng quấn quít cùng Ngân. Như với người đàn ông Ngân vừa gặp lại...
 

Khi ấy có một niềm hi vọng bé

Không ai nói,

                chỉ dám nghĩ bơ vơ

Điều hi vọng bé ấy

mười năm sau vẫn còn
 

*

 
Khi nghĩ về những ngày hoang dại

Ta biết

       Sẽ không bao giờ ta quên người ấy

Khi nghĩ về những ngày hoang dại

Ta biết

       Người ấy

            đã lâu rồi  

                quên ta

 
        
   9.

             ...Hội nghị kết thúc vào lúc xế chiều. Suốt từ hôm khai mạc, xoay như con quay vì là người của bộ chủ trì, Ngân vẫn bắt gặp mình từng lúc rưng rưng. Nhớ những ngày tháng ấy. Ngân đã bao nhiêu lần ngồi sau tấm lưng trai trẻ ấy, để người con trai đèo đi lang thang trong hoàng hôn. Bao nhiêu gió đã thổi qua đời. Bao nhiêu cơn mưa đã chẳng còn làm lòng buồn dìu dịu nỗi buồn thanh xuân vô tư lự tuổi nào. Thành phố cũng có gì là rộng rãi. Vậy mà sao chẳng mấy khi gặp lại từ lúc Ngân đi lấy chồng. Vẫn có những lúc thoảng nghe được tin nhau. Vẫn có những lúc thấy nhau trong đám cưới của bạn bè thời đi học. Nhưng chưa bao giờ Ngân hỏi lại người vô tình nhắc nhớ hay tìm cách chuyện riêng cùng Vĩnh. Bạn bè cũ đứa nào cũng lắc đầu cười vì nỗi hồi ấy đã ngỡ... Tưởng chừng như tháng ngày xưa không có nẻo quay về... 

*.

 

         - Ngân...

'Từ từ! Từ từ!' Có một hồi chuông rung bất chợt trong tâm trí. Người đàn bà kìm mình xếp lại mấy trang tài  liệu đưa cho anh nhân viên trẻ cùng phòng. Âm trầm đằng sau lại vang lên: 'Bé con!' 'Chao ôi! Chẳng lẽ bọn mình còn trẻ thế!'

         - Vĩnh - Người đàn bà thở ra một hơi dài, quay lại - Mấy hôm rồi Ngân thấy Vĩnh mà công việc rối mù. Nhưng Ngân có nghe tham luận của Vĩnh...

         - Còn Vĩnh thì cứ chầu chực xem lúc nào Ngân đứng một mình. Giờ thì phải liều ra quấy nhiễu không thì Ngân lại biến mất. Mà hội nghị thì chả biết sang năm có tổ chức lại được không?

         Anh nhân viên trẻ cùng phòng Ngân ý tứ đếm lại số trang tập tài liệu, chả biết để làm gì. Ông anh chắc là một vệ tinh xoay quanh bà chị thuở nào. Người đàn bà nhìn bạn, bình tĩnh:

         - Vĩnh chưa về ngay chứ. Vậy chờ Ngân vài phút làm nốt mấy việc với anh bạn này. Vĩnh đi xe cơ quan hay là...?

         - Vĩnh sẽ đợi đầu đường. Bạn trẻ này! Đừng bắt mình chờ lâu quá nhé.

Chàng trai trẻ mỉm cười, ngỡ ngàng. 'Ông anh bà chị này chắc không phải người yêu cũ. Chắc là bạn bè thân thiết thôi.' Chàng ta chưa đến cái tuổi hiểu ra rằng vẫn có thể có những tình yêu đến một lúc nào đó lại giống như tình bạn. Chàng ta không hiểu nụ cười kín đáo mà âu yếm của Ngân khi nghe lời hẹn của Vĩnh. Đã có những ngày xa xôi lắm ở lớp ngoại ngữ ban đêm họ vẫn hẹn nhau như thế.

 *.

          ...Trái tim Ngân lại đập dồn khi từ xa nhìn lại thấy Vĩnh ngồi ghé trên xe máy, một chân xoải dài trên hè phố. 'Y như ngày xưa. Bình tĩnh lại. Ngày xưa là buổi tối...'  Chiều nay, nắng nhỏ dập dềnh, tán phượng lá chưa vàng hết. Phố người xe hớt hải. Một cơn gió thốc lại làm Ngân đau đau trong xoang mũi. Gió bấc. Gió bấc về.

            - Bọn mình đi đâu bây giờ Ngân? Ngân muốn uống gì không? Có cái quán nhỏ Vĩnh hay ghé...

            - Đừng Vĩnh. Kiếm chỗ nào ở vỉa hè thôi. Cả ngày ngồi trong phòng rồi...

         Có điều gì rưng rưng trở lại. Tuổi học trò đầy vơi... Cái tuổi mê nhau mà không tự biết, một ngày không thấy mặt nhau là ruột gan cồn cào. Những ngày kem que và bánh rán, những ngày rẽ vào hiệu sách lại tiếc rẻ đi ra, những ngày Tam Đảo hì hục bưng bê hoa địa lan về chia nhau. Những ngày thương yêu lắm...

         Cả hai ghìm xe máy đi chầm chậm, rồi tạt một hàng nước mía ngang đường. Vĩnh hỏi:

         - Ngân vẫn thích uống thật lạnh những ngày gió trở như thế này chứ?

         - Vẫn. Uống rồi chờ ốm. Nhưng mà thèm lắm, cứ nhìn là không nhịn được. Chết vì tham, đúng không?

         - Nhưng hôm nay về thì Ngân không được quyền ốm rồi. Các cháu có khoẻ không?

         Người đàn bà khuấy nhẹ mấy viên đá lanh canh trong cốc, nghe vỏ cam bốc lên một mùi hương quá vãng, không trả lời, chỉ nhẹ giọng ơ hờ:

            - Vĩnh nhớ góc phố này không? Giá bớt bớt xe cộ đi thì may ra mới cảm lại được cái thư nhàn xưa... Vĩnh sống thế nào? Ngân biết là Vĩnh êm ấm.

- Êm ấm? Có lẽ. Thì Vĩnh cũng có một vợ, hai con, một ngôi nhà như các nhà văn nhà vẻ bây giờ thường mô tả là đầy đủ tiện nghi hiện đại. Bốn bên các cụ nhà Vĩnh đều đã chôn xong cả. Còn Ngân?

         - Ăn với nói! Mọi người bảo là Ngân hạnh phúc. Xong thủ tục hỏi thăm nhau chưa nào? Vĩnh có hay gặp lại các bạn không?

- Một vài. Thụy bỏ chồng, lấy Thái. Ngân nhớ bọn ấy ngày xưa động một cái lại lườm nguýt nhau không? Giờ rổ rá cạp lại, có vẻ vừa đẹp vừa bền. Phan tây giả có vẻ muốn về hẳn, vừa tậu cái nhà to vật, tiền tấn. Ông đưa thư của Ngân, phải Việt ngày xưa vẫn đưa thư cho Ngân không? Việt cũng vừa tậu một cô vợ mới toe, trẻ măng đô lin, chả biết là thứ mấy. Hùng bị vợ bỏ rồi. Mợ nó đi tây. Mọi người cứ cười tại cậu nó ngày xưa quên thủy chung với người yêu, nay bị quả báo. Hôm nọ bọn Vĩnh tụ tập, nhìn nó thấy thương. Vợ lấy tây, anh ả cũng chơi đẹp, không phải chia của nả hay đấu tố nhau trước tòa. Nhưng có đứa con thì mẹ nó mang đi lúc mới ba tuổi, nhớ con cuồng cả người mà chịu chết không làm sao thăm nom được. Tội nhất là con bé giờ chỉ còn bập bõm tiếng Việt. Bà nội nó cứ héo cả người...

            Im lặng.

            Bất chợt:

            - Vĩnh thấy Ngân, mừng ghê lắm. Ngân biết không? Hồi ấy nếu như Vĩnh có thể bình thản lại dễ dàng Vĩnh đã tới thăm vợ chồng Ngân luôn rồi. Hoặc giả Vĩnh đã có thể hỏi thăm và biết được nhiều về Ngân hơn rồi. Giá có thể trẻ lại bằng khi đó, Vĩnh sẽ xin lỗi Ngân cách khác. Có thể Ngân vẫn không chịu, vẫn đi lấy chồng, nhưng giữa chúng mình sẽ không phải là mười mấy năm yên lặng như thế này. Rồi có lúc Vĩnh lại nghĩ may là bọn mình không đi tới cái gì. Vĩnh không phải là một người chồng tốt.

         Người đàn bà ngần ngừ:

            - Ngân cũng không phải là một người vợ tốt. Chúng mình cùng may.

            Người đàn ông cười phá lên, nhìn sâu vào mắt bạn:

            - Bé con. Vẫn bướng y như trước.

          'Không! Không phải thế!' Ngay cả ngày ấy Ngân cũng chỉ thèm được bé bỏng, được dịu dàng. Không ai biết đằng sau vầng trán dô của cô gái vẫn được tiếng thông minh và đầy nghị lực luôn luôn chất chứa một nỗi tuyệt vọng, một nỗi lo sợ ghê hồn trước tương lai. Tương lai là cái gì? Là đồng lương còm và tiêu chuẩn gạo mì bốc mùi ẩm mốc, cứt gián hôi rình? Là cái đích trở thành nghiên cứu sinh để đi nước ngoài một chuyến và sẽ lát đường về Hà Nội bằng hàng đống những mâm nhôm xoong nhôm chậu nhôm bàn là hoa dâu giường gấp nồi áp suất? Là khoảng cách ngày càng xa giữa mình và những đứa bạn không thông minh hơn nhưng lắm cơ may nhờ bố mẹ làm to hơn bố mẹ mình? Sâu thẳm, là tiếng gọi nào thảng thốt và hối thúc của những miền xôn xao thiết tha lắm mà chưa tới được. Vang vang từng ngày. Làm cho Ngân luôn cảm thấy cô độc, vô cùng cô độc giữa những niềm vui thường ngày của bạn bè. Nỗi cô độc ấy, niềm thiết tha ấy, sự yếu ớt thể chất ấy rút lại đã thành ngày sống của Ngân, đã lặn vào trong Ngân và hiển hiện ra trong một dáng vẻ khiêm nhường mà kiêu hãnh, đầy vẻ thách đố quyến rũ, bởi chính Ngân cũng không tự biết.
*.

             Vĩnh nhìn Ngân, nhìn người đàn bà mỡ màng và mới mẻ đang bình tĩnh hớp từng hớp nước mía lạnh buốt, đột nhiên nhớ lời thằng bạn bác sĩ cảnh tỉnh: 'Liệu thần xác. Cái Ngân nó chẳng khác gì moocfin'. Hồi đó Vĩnh đã vừa ái ngại cho thằng bạn vừa không che giấu niềm hãnh diện ít nhiều còn là tự mãn của mình. Giá hồi ấy Vĩnh đừng quá kiêu hãnh thế trước Ngân. Mà giá như ngày ấy Ngân cũng đừng kiêu hãnh thế. Thì có phải bây giờ người đàn bà này sẽ trở về nhà cơm nước cho Vĩnh và những đứa con của họ. Thì có phải đêm về... Vĩnh bất giác mỉm cười.

         - Ngân biết vì sao Vĩnh cười rồi. Đã một lần Vĩnh nhìn Ngân cười như thế. Cái đêm bọn mình đi xem 'Tôi và chúng ta', đi mãi mà không về đến nhà ấy. Đúng không?

            Vĩnh giật mình. Ngân ngày xưa cũng thế, luôn nói trước những ý nghĩ nhiều khi mới chỉ manh nha trong trí Vĩnh, làm Vĩnh kinh ngạc và sung sướng vì được cảm hiểu. Nhưng cũng chính điều đó đã làm Vĩnh tự ái, khi nghĩ ra rằng đằng sau những lời của Ngân chẳng hàm chứa một chút thần giao cách cảm gì, mà chỉ đơn giản là mình đang bị Ngân phân tích. Vĩnh thăm dò:

            - Thế vì gì nào? Ngân nói thử đi. Chính Vĩnh cũng không biết ngày ấy vì sao mình cười đấy.

 *.

             Đêm ấy, hai người trẻ tuổi rời hội trường trường Bách khoa lúc đã 11 giờ đêm. Khuya, phố mưa tầm tã. Xe Ngân chệnh choạng trong làn nước đang chảy như thác trên mặt phố. Vĩnh nắm lấy bàn tay Ngân đặt trên ghi đông, dắt Ngân đi. Gió và mưa lùng bùng bên ngoài tấm nilon. Đi mãi, không thể nào rẽ về phố nhà được. Nẻo phố nào cũng bị chặn vì bộ đội tập trung. Ngày mai là quốc khánh. Ngày mai duyệt binh. Đấy sẽ phải là một sự kiện bình thường để cho dân hoàn hồn sau cú đổi tiền trời sập. Mưa. Mưa. Vĩnh nhìn Ngân tuyên bố: Vĩnh sẽ gọi thật to tên Ngân để xem mấy ông lính này làm như thế nào.' Vĩnh gọi thật, gọi như chưa bao giờ. 'Ngân...ân...' 'Ngân... ân...' Say sưa. Vui sướng. Một gương mặt tối dưới vành mũ cối, một dáng người tùm hum trong chiếc áo mưa vải bạt từ góc đường vọt ra:

            - Anh chị 'nàm' cái gì đấy? 'Nàm' gì mà hét như hóa ngộ thế?

            - Hóa ngộ thật đồng chí ạ. Bọn tôi chưa biết đếm tiền mới, gửi xe trả tiền nhầm, thiệt đến trăm bạc chứ không ít. Giờ thì không biết đâu là đường về nhà. Anh xem, bọn tôi mắt mũi kèm nhèm, mưa gió thế này, kính cũng không đeo được...

            - Nhà anh chị ở đâu?

            - Đấy! Rẽ đường này nhé. Xong đi thẳng. Đi một đoạn có cái ngã tư lại rẽ, rẽ trái, lại đi, rẽ phải, thế là đã gần về tới nhà. Nhưng hôm nay không hiểu sao đêm hôm thấy chỗ nào đường cũng chặn. 

            Anh lính nhìn ngờ vực. Ngân thì phải cố lắm mới giữ được vẻ ngoan ngoãn tội nghiệp của một đứa con gái không quen đi chơi về muộn, tiếng cười chỉ chực phì ra sau mỗi câu đầy vẻ nghiêm trang của Vĩnh. Theo lời dặn của anh lính, hai người quay xe và đường thông thật. Lúc chia nhau nắm hoa cúc tím mò mẫm hái ở vườn trường lúc tối, hai đứa nhìn nhau qua màn mưa đầu thu rào rạt, lòng thầm tiếc rẻ vì thế là đã về tới nhà, rồi bỗng dưng phì cười. Vĩnh nhớ chưa bao giờ kể cho Ngân nghe rằng đêm đó, một mình, Vĩnh lại gọi tên Ngân, đã lắng nghe tiếng mình xuyên trong màn mưa và âm vang trở lại dọc con đường vắng. Đêm đó, Vĩnh biết rằng mình vĩnh viễn muốn đi về cùng người con gái ấy, vĩnh viễn muốn có những phút được nhìn nhau như thế, say sưa, vui sướng, quên hết mọi âu lo về ngày sống cằn cỗi, đầy bất trắc...

            Vĩnh không biết rằng đêm đó người đàn bà trẻ con kia đã đứng lại một mình đầu ngõ nhỏ, đã ngước nhìn vòm đa lướt mướt trong mưa lấp loáng ánh đèn sáng tưng bừng của trụ sở công an phường sát đó, và sát đó là mấy chiếc xích lô tùm hum cái mái che cũ kĩ. Trong một chiếc xích lô như thế có người bạn xưa của bố mà bố kể rất nhiều, với bao nhiêu là nể trọng, nhưng chưa bao giờ dừng chân trò chuyện lâu lâu hay mời nhau ghé nhà uống ngụm nước. Vĩnh không biết, đêm đó người đàn bà trẻ con đã khóc, biết mình không bao giờ có thể vô tư, biết sẽ không bao giờ còn có lại cùng chàng trai những giờ phút mê say vừa trải.

Mùa đông - chiều - cánh chim lạc gió

Như mối tình của một con người

Không bao giờ còn mong đáp lại

 

*

 Từ một quãng đời nào ta đánh mất niềm vui

Từ một kiếp trước nào ta đã chọn kiếp này để nhớ

Hỏi mãi để làm gì

 *

 Những ý nghĩ không thành hình chìm trong man mác buồn

Hay nỗi nhớ về hạnh phúc vừa bay đi khuất

 Em, hãy đi bên anh và đừng nói.

 10.

             Ngân đã một lần thử giải thích điều đó với cô bạn vẫn tự nghĩ là mình thân nhất với Ngân.

Nhưng cô bạn đã chỉ há miệng nghe và lắc đầu lia lịa. Có thể là Ngân đã không nói hết chăng? Mà nói làm sao? Không thể! Không bao giờ có thể.

Cậu con trai không bao giờ biết cô gái đã gắng giữ cho cậu bằng an. Nếu biết điều đó, cậu ta sẽ nghĩ gì? Có thể vô tư tiếp tục được không? Có thể lặng im như cô ta được không? Bởi vì đó là bố cậu.

 *.     

          Cô gái biết ông ta từ lúc còn là cô học trò nhỏ, còn ghét cậu con trai và tất cả bọn con trai chỉ vì họ là con trai. Ông ta hay đến đón cậu con những buổi tan trường. Những ngày sau chiến tranh, trẻ con còn phải học ba ca, trường tan muộn, lúc thành phố đã lên đèn. Ông bố ngồi trong chiếc Lada chờ con, mặt mũi phương phi, vẻ béo tốt phương phi hiếm có ở người bình thường ngày ấy. Ngày ấy ai cũng gầy, hình như thế. Hình như ông ta bao giờ cũng tươi cười và chẳng hiểu sao cô bé lại có cảm giác vẻ tươi cười ấy hoàn toàn vô cảm. Cả lớp e dè và kính cẩn tụm lại ở cổng trường nhìn thằng bạn chui vào trong chiếc Lada trắng. Có lần cô bé vô tình nhìn qua cô giáo. Cô cũng một vẻ e dè kính cẩn và điều đó có cái gì hết sức lạ lùng trong ý nghĩ của đứa học trò nhỏ. Học cùng lớp thật, lại cùng bàn, có nói chuyện riêng, hỏi bài hay cãi nhau thật, nhưng cứ ra khỏi cổng trường là cô bé có cảm giác cậu bạn thuộc về một thế giới khác. Mà trong đó, tất cả những ao ước của loại trẻ con như cô đều có thật, đều trở thành bình thường. Là không phải quần áo vá. Là không phải dép cao su. Là cặp da đựng sách vở thật đàng hoàng. Là xe đạp thiếu nhi và những buổi mang đàn đi học thêm. Là những mùa hè đi biển hoặc sinh hoạt câu lạc bộ thiếu nhi thành phố. Và đủ thứ đồ lặt vặt lẩm cẩm tuyệt vời: chiếc com pa ngoại; bút máy Kim tinh; hòn tẩy thơm như một viên kẹo làm ứa nước bọt không có ở bất kể cửa hàng bách hóa nào. Cậu con trai không bao giờ biết những buổi chiều mồ hôi mồ kê chen chúc trước của hàng gạo. Cũng không bao giờ biết cần phải kiên nhẫn như thế nào nơi máy nước công cộng mỗi chiều. Cô bé hoàn toàn hờ hững trong khi bạn bè mắt tròn mắt dẹt trước những câu chuyện cậu con trai kể về một mùa hè ở biển hay một buổi xem phim chiêu đãi và cậu ta không hiểu được đấy chẳng hẳn là sự khinh khi giả vờ như cậu đã từng tưởng thế ngày hai đứa chưa cùng trong một hội. Ở cô bé, vẻ ơ hờ luôn luôn là cố gắng đầy thất vọng để mình không bị mất mình. Khi cô lớn lên, sự ơ hờ đi xa hơn sẽ trở thành thói quen nhạo báng những lúc lòng buồn nản quá và nó sẽ giúp cho cô toài ra khỏi được âm thầm.

             Trong mắt cậu con trai, cô gái luôn luôn là đứa con gái có tiếng cười thảnh thơi và ưa trêu chọc, là cái đinh của những cuộc tụ bạ chúng bạn, là nỗi lo ngại ngấm ngầm của bà mẹ, dù bà luôn luôn tươi cười những lúc cô gái tới. Không hiểu vì sao. Bà mẹ cậu trai, cao ráo, nghiêm trang, giỏi chuyên môn và thường đi nước ngoài vì khả năng chuyên môn có thật chứ không phải vì uy thế của chồng. Bà có cái uy riêng thế nào đó làm tất cả lũ con gái cùng lớp cậu con đều sờ sợ, trừ cô gái, và bà cảm thấy điều đó rất rõ, ngay lập tức, khi biết mặt cô lần đầu. Lần đó cậu con trai mời cả lớp tới nhân sinh nhật cuối cùng trước khi cả lũ ra trường. Đấy là một buổi gặp mặt vui nhất, đông nhất, đầy đủ nhất và chỉ một mình cậu ta làm được điều đó. Trong khi đám con gái tíu tít quạt chả rửa rau thì từ phòng làm việc nhìn ra bà thấy một đứa con gái đang ngồi yên lặng giữa lũ con trai, lắng nghe điều gì đó và mỉm cười. Cô gái không biết, mà làm sao biết được, rằng cái vẻ tự chủ, nửa nồng ấm nửa lạnh lẽo của mình khi dự vào niềm vui chung cùng tất cả bạn bè đã là nguyên nhân của nỗi ác cảm vô cớ nơi bà mẹ. Những người đàn bà ít nhiều giống nhau về tính cách thường rất nhạy cảm và nghiêm khắc trong sự đánh giá nhau.

             Cô nhận ra ngay sự dè chừng của bà mẹ cậu bạn, khi mà hai đứa đã rất thân nhau trong mùa hè cuối cùng của tuổi học trò, nhưng không biết nguyên do thật. Đã có cái gì để một bà mẹ phải lo ngại đâu cơ chứ. Hai đứa thân nhau, nhưng đó là tình thân hơn một chút giữa những người trẻ tuổi cùng bè cùng hội. Có thể vì gần nhà nhau chăng? Đấy là một tình bạn kì dị, vì kẻ trong cuộc đã không hề nghĩ đến tình yêu, ít nhất là buổi ban đầu. Biết nhau lâu quá rồi để không thể có một tình yêu lốc xoáy.

             Mà nếu như có một tình yêu như thế, thì nó sẽ bị dập tắt ngay lập tức vào buổi chiều ấy. Buổi chiều cuối hè năm thứ hai đời sinh viên của cô gái. Cô đến tìm cậu bạn và cậu ta chưa về. Bố cậu mời cô gái vào chơi. Lần đầu tiên cô bước vào căn phòng làm việc thênh thang của ông. Khung cửa sổ mở rộng về phố nắng, nồm nam lồng lộng. Cành sấu vạm vỡ chìa sát ô cửa, tưởng chừng với tay là có thể ngắt những chùm quả đã bắt đầu ưng ửng chín. Ông bố sẻ phin cà phê vừa được, một tay chìa cốc cà phê đá cho cô gái, một tay quàng lấy vai cô từ từ siết chặt. Không hiểu sao cô gái không hoảng hốt, chỉ thấy ghê sợ, ghê sợ bàn tay mình râm rấp hơi nước tỏa ra từ cốc cà phê đá đang tan, ghê sợ bàn tay đàn ông mũm mĩm hâm hấp nóng trên vai. Chưa từng có ai đặt được tay như thế lên vai cô. Cô gái thân với nhiều cậu trai trong lớp, nhưng họ không bao giờ suồng sã với cô. Có cần phải hỏi gì nhau trong lớp tránh mắt thầy cô giáo, các cậu trai ấy đều dùng thước kẻ, bút hay bất kể đồ vật gì sẵn đó đập nhè nhẹ lên vai cô bạn. Họ gọi đó là vật cách điện và điều đó làm nhiều cô bạn khác rất không bằng lòng. Cậu con trai cũng luôn làm thế.

             Cậu ta sẽ nghĩ gì nếu nhìn thấy cảnh này? Mẹ cậu sẽ nghĩ gì? €, mẹ cậu. Khi đã rất thân nhau rồi, khi đã là sinh viên rồi, cậu con trai đã một lần kể cho cô bạn nghe về chuyện nhà. Lũ trẻ con cùng lớp ngày xưa làm sao biết được nỗi khổ của cậu mỗi chiều muộn khi chui vào trong ô tô cùng với bố. Làm sao biết được anh em cậu đã ngơ ngác bao nhiêu khi đột nhiên cái biệt thự có thêm chủ mới. Nhà cậu đang rộng thế thì giờ hẹp hẳn lại, thu gọn trong một tầng. Bà giúp việc thôi không thấy đến. Cái Vonga bố cậu thường đi thay bằng cái Lada. Vẻ lạnh lẽo của mẹ trong bữa cơm chiều nóng sốt... Khi kể cho cô gái nghe, cậu con trai đã cười: 'Ghen như mẹ Vĩnh thật có một không hai. Nhưng có như thế bố Vĩnh mới biết yên phận đấy'. Quả là ghen như thế cô gái chưa từng thấy thật. Ở trong khu tập thể bao năm, cô lạ gì những cuộc đánh ghen. Vả. Đấm. Chát. Huỵch. Quấn tóc nhau mà rứt. Xé quần xé áo. Có những đám đánh nhau thì chửi bới tưng bừng. Có đám chỉ hì hục vật lộn, nhưng lúc buông nhau ra thì chỉ nhìn họ thôi đã đủ để hiểu thế nào là hận thù. Không một đám đánh ghen nào thiếu tiếng cười của dân tình lúc nào cũng sẵn lòng xúm xít xúi bẩy can gián. Rồi sau đó là những câu nhiếc móc, khích bác, mai mỉa và mát mẻ, bên một vòi nước công cộng, giữa hàng người trước cửa hàng thực phẩm hay chất đốt. Những cuộc đánh ghen ấy, nói thật, đã là một thứ gia vị đặc biệt cho bữa cơm chiều ở nhiều nhà.

             Chưa bao giờ cô gái biết người ta có thể đánh ghen một cách khác, lặng lẽ, đầy hiệu quả, như cách đánh ghen của mẹ cậu bạn. Hồi ấy bà vừa từ Liên Xô về với bằng phó tiến sĩ. Chồng rập rình lên cao nữa, vợ dạy đại học, con hai đứa ngoan và giỏi, nhà biệt thự có cổng sắt và hàng rào dây leo, ban công trồng toàn hoa quý, cùng với tất cả những cái đó: người giúp việc ăn lương nhà nước, bìa Tôn Đản và sổ Giao tế. Còn gì và còn mấy ai hơn. Thế mà chỉ hôm trước hôm sau bà lại phải đối mặt với thực tế cay cực với mọi đời đàn bà: chia chồng. Tình địch là cô thư kí của ông chồng, đẹp và có học, và tự tin. Không một lời giận dữ trách móc ông chồng đang đắm đuối trong công việc cùng cô thư kí; không một lời cảnh cáo người đàn bà đang hăm he cõi bình yên của mình, bà vợ học rộng lên thẳng cơ quan chồng xin gặp ông bí thư đảng đoàn của bộ. Cái điều mà ai cũng biết nhưng không ai tiện nói thì giờ người vợ nói toạc. Không thể khuyên can người vợ khi bà ta bình tĩnh đến thế. Bình tĩnh xin chuyển cô thư kí đi xa 'vì hạnh phúc của cô ấy'. Bình tĩnh xin hạ tầng công tác của chồng vì 'đạo đức không có ngoại lệ khi đánh giá'. Bình tĩnh xin trả bớt tiêu chuẩn nhà cửa và vân vân cho tương ứng với địa vị mới của chồng dù không ai đặt ra vấn đề ấy. Điều thứ ba này bà làm thật, ngoài sự chờ đợi của kẻ cao người thấp trong cơ quan ông chồng. Không một lần tỏ ra phân vân tiếc rẻ, ngay cả khi ông chồng đã được phục chức nhưng tiêu chuẩn cũ không phục hồi được vì nhà cửa đã chia rồi và chủ mới nhất quyết không đi.

 *.

             Nhưng vào buổi chiều xảy ra câu chuyện kia thì cô gái chưa hề biết điều này trong gia cảnh cậu bạn. Gần như là bản năng, cô hiểu ngay phải hành xử thế nào để bà mẹ cậu không cảm thấy cô là một sự rối mắc không cần thiết, để cậu bạn không phải đau đớn, và để mình không phải hối hận về sau. Chùm sấu chín lấp ló trong vòm lá rậm và cô gái đầy vẻ ngây thơ nghiêng người về đó. Bàn tay người đàn ông trượt đi trên bờ vai con gái mười chín tuổi, chới với giơ ngang rồi thõng xuống. Và ông từ tốn hỏi cô gái về chuyện học hành, về dự định khi sẽ ra trường, về những khả năng xin việc ở cơ quan ông. Và cô, rất lễ độ, rất vui vẻ trả lời ông. Cho tới lúc cậu con trai về tới nhà.

             Không bao giờ cô gái có thể nói ra sự phẫn nộ của mình vào buổi chiều ấy. Từ đó với cô là một cuộc lẩn tránh kín đáo trong quan hệ với cậu bạn và gia đình cậu. Có những buổi chiều đạp xe trên phố cùng chúng bạn, cô gái đã giật thót mình vì tiếng xe ô tô rà sát lại, cảm thấy như chiều quánh lại còn người mình thì nhão ra khi ông bố cậu bạn hạ cửa kính xe thò đầu ra cười với cô. Những lúc như thế, cô cảm giác rất rõ giữa ông ta với mình không có thứ bậc, và mình hoàn toàn bình đẳng với người đàn ông ấy, với tất cả đàn ông, dù họ có ở cương vị đáng trọng và đáng ngại như thế nào. Cảm giác ấy không mang lại niềm vui sướng cho cô gái, bởi vì từ đó đối với cô cuộc đời mất đi kì bí, không đáng sợ nhưng đáng buồn.

 *.

             Cậu con trai không biết điều đó, mặc dù cậu biết rõ bố mình, và, một cách có ý thức, cậu đã giải thích cho cô bạn rằng có những điều bắt buộc phải chấp nhận và thông cảm, khi cậu vừa cười vừa kể đầy vẻ vô can về cuộc đánh ghen của bà mẹ. 'Không thể tránh được điều ấy, với đàn ông, nhất là ở những nhà như nhà Vĩnh. Mẹ Vĩnh đánh ghen thế quả cũng độc đáo và quyết liệt thật, nhưng cũng vẫn cứ là làm chuyện thường tình...' Có vẻ như cậu chẳng buồn bực gì. Có vẻ như cậu coi tất cả những điều đó như là một phần đời sống gia đình, được thế thì phải chấp nhận thế.

             Cậu ta có thể tiếp tục như thế được không, nếu cậu biết cảm giác và ý nghĩ của cô gái do bố mình đưa lại. Cậu không biết rằng từ lâu cô gái đã thầm quan sát ông bố của cậu và thôi không có ý định tiếp tục tránh ông ta. Điều đó xảy ra có vẻ như rất đỗi vô tình. Hôm đó cả hội kéo tới nhà cô xin việc đỡ một tay trong đám cưới bà chị gái của cô vào tuần tới. Chuyện nổ như ngô rang. Người cha vô cùng hoan hỉ. Đấy là lần đầu tiên ông thật tâm sung sướng từ cái ngày ông gà trống nuôi con. Ông điểm mặt tất cả lũ con trai, băn khoăn không biết thằng nào đang lăm le làm rể thứ của mình.

           Sau dãy núi là mặt trời hoàng hôn

            Sau màu vàng thu là những cuộc đời lá

        

            Nước mắt có khi rơi, sau một lần hạnh phúc

            Hay miệng cười như không sau năm tháng tơi bời

 

        *.

 

        Từng lang thang qua những trường đại học

        Từng lơ mơ trên những giảng đường

        Những hàng cây thẫm màu in hình lên nền trời ráng đỏ

        Đoá cúc vàng lộng lẫy mùa đang thu (*)

 

         Giờ làm thợ không nên làm thầy không đắt

         Mãi thư sinh cho đến thuở bạc đầu

 

Quen với nỗi buồn như khói thuốc

         Quen với suông tình như sương khuya.

 

         Không tin ai trên đời, không tin ai trên trời.

 

         Sống đã thôi là hạnh phúc

         Yêu đã thôi là đắm say

         Và thu đã thôi là quyến rũ.

 

         *. Thơ thời sinh viên

 

 

        11.

 
         - Thế cháu nhà ở đâu? Bố mẹ làm việc ở đâu hả cháu?

            - Thế còn cháu?...

            Phải nói là Ngân rất bực dọc về lối bố tra vấn tiểu sử sơ lược của đám bạn trai. Ngân đã một lần tuyên bố: 'Nếu con lấy chồng, bố yên trí sẽ không có thông gia là tù hình sự vì tội trộm cắp hay lừa đảo hay nghiện ngập. Con hãi ngựa theo đường cũ. Con hãi con nhà tông giống cả lông lẫn cánh. Còn ngoài ra thì...' 'Ngoài ra thì sao?' - Bố im lặng hồi lâu rồi nhẹ nhàng hỏi - 'Chưa bao giờ bố kể cho các con nghe rằng bố đã từng phải đi tù, và lúc ấy bố đã mong mình có án, dẫu là án hình sự. Không. Không. Đừng tưởng bở. Hồi Pháp thuộc bố còn bé đến nỗi chưa thể là tội phạm. Các con nghĩ bố đi tù ở thời nào?' 

         ...Đang những giờ vui, Ngân không dám vùng vằng khi nhìn đám con trai cóm róm trả lời các câu hỏi của bố. Đến lượt Vĩnh rồi.

            - Sáng hôm qua đi làm bác thấy thằng cháu Vĩnh đạp xe phía trước với mấy đứa bạn. Chắc các cháu đến trường.

            Vĩnh cười vui vẻ:

            - Bác thấy cháu ở phố nào bác? €... Cháu ở phố đó mà.

            - Đoạn nào hả cháu? Trước bác cũng hay qua lại phố đó...

            - Nhà cháu gần về phía... Số ... Bác chắc có người quen ở phố đó? Hay là bác chỉ đi qua. Nhà cháu ở ngay góc đường, có cái giàn tigon ấy.

            Có cái gì căng thẳng trong giọng nói nhẹ nhàng của bố:

- €... Bác hay tới nhà một ông họa sĩ vườn. Bạn cũ. Gần nhà cháu đấy.

 *.

          Phải, bố có hay qua phố đấy, đến nhà chú Thái. Chú ở trong dãy nhà ngang của một khu biệt thự cũ nay một ông tướng cùng gia đình trấn ngự. Ngày bé Ngân cũng hay theo bố đến đó. Nhà tuềnh toàng, nhưng có một vẻ đẹp riêng quyến rũ. Có lẽ vì gần như cách biệt với phố xá bên ngoài. Có lẽ vì giàn ti gôn chỉ khẽ động vào đã âm thầm tan tác trên mảnh sân nhỏ. Có lẽ vì bốn bức tường treo đầy những tác phẩm độc đáo của chú Thái. Một cái vòng đeo cổ làm bằng những hạt ý dĩ chạm trổ hết sức kì công. Cái nón còn chằm dở đính ở góc tường thành cái chụp đèn thật lạ. Đôi guốc chạm lửa hình La Gioconde mà chú đã tặng cho Ngân. Sàn phòng, chú Thái quăng bừa đủ thứ tre gỗ và các dụng cụ làm việc. Chẳng bàn chẳng ghế, độc một tấm phản không chân. Bố con Ngân tới, chú dẹp bớt đồ trên phản, giục cậu con trai trạc tuổi Ngân mặt mũi lúc nào cũng lầm lì pha nước. Còn chú thì với tay ra sau thùng đồ nghề, nhấc chai rượu uống dở. Và cứ thế, chủ rượu khách trà. Câu chuyện thì đơn điệu. Hoặc chú Thái đem khoe với bố một thứ gì đấy chú mới làm ra. Rồi có lúc cả bố và chú nhắc tới đôi ba tên người trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, giọng chẳng hàm chứa một cảm xúc nào đặc biệt. Nói thật là chả thú vị gì khi đi theo bố nếu sau đó Ngân không thường được chú Thái tặng cho một thứ gì đặc biệt: chiếc vòng cổ bằng hạt ý dĩ chạm trổ, chiếc vòng đeo tay sơn mài mà chú bảo là phải mất bốn tháng để làm ra nó, cái cốc gỗ đựng bút chạm hình một cái mặt đàn ông mếu xệch. Chú Thái thường dặn: 'Dân mình không chuộng nhưng mà Tây nó thích lắm. Khi nào cháu chán, mang lên chú đổi cho thứ khác, hay để đây chú bán cho lấy tiền mua đồ dùng học tập đỡ bố.'

          Chú Thái thật hay. Tính giản dị, bình đẳng, rộng rãi, lại đẹp trai, cứ như tây lai với miệng rộng và môi như tạc, mắt sâu nhìn hút hồn, mũi hơi khoằm, lại râu quai nón. Thành thử đến chú dù nghe chuyện người lớn chán chết nhưng Ngân vẫn thích đi theo bố, song cứ ngồi lì bên phản, không dám lân la ra ngoài. Ra ngoài, thế nào cũng chạm mặt bà vợ và ông con đẹp trai hệt ông bố nhưng lầm lầm lì lì của chú Thái. Vợ chú mắt dài dại cứ đi vòng vòng quanh sân lẩm bẩm. Có đôi lần cô vào nhà, nhìn bố, vui sướng ồ à và hỏi bố những chuyện chả biết từ đời tám hoánh nào. Hóa ra cô Thùy cũng là người quen cũ của bố. Nhưng cô không nói chuyện lâu. Thường, tự dưng cô nghĩ ra điều gì đó, nhổm dậy và lại lững thững ra khỏi phòng, chẳng nói chẳng rằng gì nữa. Chú Thái sẽ cất giọng khàn khàn gọi với cậu con: 'Mẹ lại bắt đầu đấy. Khóa cổng lại'. Đến nhà chú Thái gặp những lúc như thế Ngân cứ có cảm giác bất an rất lạ.

          Ngân nhớ một hôm chú Thái bảo bố:

            - Ông ta mới về phố này Khánh ạ. Đi Vonga rồi. Mình cứ tự hỏi ông ta sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy Thùy.

         Nhiều năm sau Ngân lại một lần nghe chú Thái nhắc tới người đàn ông nọ:

            - Khánh này, ông ấy đến nhà mình. Mình đã sợ Thùy lên cơn. Nhưng mà Thùy không nhận ra ai nữa ít lâu nay. Ông ta ngồi ở chỗ cậu đang ngồi ấy. Khó nhọc lắm. Mình nghiệm ra lối ngồi xếp bằng tròn hay lối ngồi xổm đích thị là của dân. Có bụng rồi là không ngồi thế được. Ông ấy hỏi mình có cần giúp đỡ gì không. Mình cười, bảo bao năm mình sống trong xó nhà ngang này, nhìn lên căn phòng mình ở ngày còn bé mình còn chịu được. Cả dãy nhà ngang này ngày xưa là dành cho ba người. Mình ở đúng phòng ông bếp nhà mình khi xưa đấy. Thế thì sá gì những sự khác. Còn cái điều mình mong mỏi là Thùy tỉnh lại thì mình không mong nữa rồi. Ông ấy nghĩ cho cùng cũng chả phải là người gây nên nông nỗi này. Này, từ hôm ấy mình thôi băn khoăn chuyện ông ấy sẽ nghĩ gì khi thấy lại Thùy. Không thể nghĩ về tương lai thì tốt nhất đừng quay nhìn quá khứ làm gì. Chẳng ích gì, tự hào hay hối tiếc cũng chả để làm gì.

 *.

          Ngân biết chú Thái hồi kháng chiến là Thiếu sinh quân. Nhưng khi về tới Thủ đô ngày hòa bình lập lại thì cả nhà chú đã di cư vào Nam. Cái biệt thự to vật của nhà chú bị trưng thu, trở thành nơi trấn ngự của một ông trung tướng. Sau này, nhà nước đổi mới chính sách nhà cửa, chú đòi mãi được một phần dãy nhà ngang này và cùng cả bầu đoàn dọn từ một căn phòng tập thể rộng tám mét về đây. Người ta đề nghị đền bù cho chú bằng tiền nhưng chú không chịu. Chú Thái bảo không thích nhớ về quá khứ. Nếu không thế thì sao chú lại nhất mực quay về phố cũ? Chú nghĩ gì khi ngày ngày vào ra cái ngõ nhỏ dành riêng cho kẻ ăn người làm khi xưa? Chú nghĩ gì khi đêm đêm từ dưới này nhìn lên khung cửa sổ căn phòng xưa của một thời thơ ấu vời vợi nhớ? Chú nghĩ gì khi rất nhiều buổi chiều người vợ dài dại của chú trang điểm kĩ càng và ra phố, không biết đi đâu, để rồi đêm mới trở về, lần nào cũng trở về, ngồi xuống bên cạnh chú và khóc. Chú Thái kể cho bố nghe đấy là phút duy nhất tỉnh táo trong ngày của cô Thùy, hai mươi mấy năm nay. Quá khứ với chú Thái nếu không phải là nơi chốn để tìm về, dù tự hào hay hối tiếc, thì đích thực là nơi buộc chú phải đi tiếp cho hết từng phần sống khốn khó này. Đôi khi là như thế, để buộc mình không được quyền thanh thản, người ta tìm về những ngày đã qua.

 
*.

             Khi ấy Vĩnh đâu biết điều ấy. Nên Vĩnh đã rất hồn nhiên:

            - Thế thì cháu biết. Có lần cháu đã cùng một thằng bạn học mỹ thuật công nghiệp tới đó. Bác ấy có bà vợ hơi bị dở dở phải không ạ?

            Và Vĩnh quay lại với các bạn:

            - Dở người nhưng mà đẹp tuyệt vời, nhất dáng nhì da thứ ba đến nét nhé. Khéo đẹp nhất phố tớ. Lại còn rất biết ăn diện. Đi ngoài đường khó mà biết. Cực sang.

            Vĩnh không để ý rằng Ngân hoảng hốt. Bố cứ nhìn Vĩnh chằm chằm. Cảm giác bất an đột ngột ào tới làm bụng Ngân thắt lại.

             Ngân có lý do để mà lo ngại. Một tuần sau ngày cưới của chị Ngân, việc nhà đã hết và hai bố con đã quen với cảnh sống lặng lẽ mới, bố hỏi sau bữa cơm chiều:

            - Con thân với Vĩnh lâu chưa?

            Lại vẫn là cảm giác bất an lẩn quất trong lòng. Ngân làu bàu:

            - Con biết làm sao được. Bọn con cùng chơi trong một hội từ hồi cấp ba. Mà con với Vĩnh thực ra học cùng nhau bao nhiêu năm trước đó bố biết rồi còn gì. Có việc gì thế ạ?

            - Không, không có gì cả. Bố chỉ muốn nói cho con biết rằng đời bố con mình đã khác nếu bố Vĩnh không như thế. Cả cô Thùy nhà chú Thái nữa, có lẽ... Phải, nhà mình và nhà chú Thái chắc không nông nỗi bao năm như thế này.

 *.

          Ra thế! Đấy là người đã kí lệnh chuyển bố thẳng từ phòng làm việc của cơ quan bộ sang Hỏa lò, kí lệnh khám nhà, qua mặt cả viện Kiểm sát. Mẹ cho Ngân ăn bộ ngay đêm đó, thít chặt hai bầu vú và uống Aspirin liều cao để triệt sữa, chạy hết nơi nọ đến nơi kia hỏi tin bố. Bà được tin, nửa đêm cùng cô út đi bộ từ quê ra Hà Nội, ôm Ngân về nuôi cho con dâu lo tìm chồng.

            Khi đó Ngân vừa tròn hai tháng tuổi.

            Không một ai trong nhà biết bố ở đâu.

              Ra thế! Cô Thùy trước đó đẹp nổi tiếng cơ quan bộ, vốn là trinh sát và đang yêu chú Thái. Đột ngột cô được điều về bên cơ yếu. Cô lấy chú Thái độ ấy, rồi bỗng dưng lẩn thẩn, mỗi lúc một nặng dần. Dáng dấp sang trọng vẫn còn, đường nét vẫn cực kì hoàn hảo, ăn mặc vẫn vô cùng lịch lãm. Chỉ có đôi mắt, đôi mắt ngày xưa nhìn ai cũng vừa như hờ hững vừa như thấu tận tâm can nay dài dại, và mái tóc bạc trắng trong có vài hôm.

            Không ai biết vì sao, ngoài đôi ba người. Bố. Chú Thái. Mấy đồng chí cũ.

             Ra thế! Kể từ hôm đó, Ngân nhìn bố Vĩnh khác hẳn. Không sợ hãi. Đã đành. Đầy tò mò. Đấy là người đã định đoạt số phận của mình ư? Nếu không có ông ta, không có những ngang trái trong đời bố mẹ, mình sẽ sống một cuộc đời khác, sẽ cảm nghĩ theo một cách khác. Nhưng, như thế nào

  

Yêu em bao nhiêu cho vừa

Khi đời ta đang thanh xuân

 

Dù trời mưa phùn lầy lội

Dù đêm gió bấc ngại ngùng

Khi đời ta đang thanh xuân

Yêu em bao nhiêu cho vừa

 

Những ngày thiếu ăn thiếu mặc

Đi qua tuổi trẻ chúng mình

Những ngày tình yêu thắp sáng

Cháy lên tuổi trẻ chúng mình

 

Yêu em bao nhiêu cho vừa

Khi đời ta đang thanh xuân

 

Tặng em chùm hoa hồng dại

Thơm sâu trong những ngày mưa

Tặng em một chiều dâng nắng

Hàng cây ôm kín bóng người

 

Khi đời ta đang thanh xuân