*





 
 

Lê Minh Hà 

Gió tự thời khuất mặt
2

 

          12.

 

            Rất lạ lùng, đấy lại là những ngày mà Vĩnh và Ngân thân nhau hơn. Có lẽ giữa họ không hẳn là tình bạn nữa. Giữa bạn bè, dù thân thiết bao nhiêu cũng khó có niềm tin cậy ấy như niềm tin cậy mà Vĩnh và Ngân độ ấy cảm thấy ở nhau. Niềm tin cho phép người ta bộc lộ cõi sâu kín, yếu đuối nhất của mình mà không e ngại. Đấy là điều mà Ngân đã được nhận từ Vĩnh vào những ngày tháng đó. Nhưng đấy không phải là lý do để Ngân không ác cảm với ông bố của bạn. Điều ấy thật không bình thường. Nhưng đúng là như thế. Ngân không thấy căm giận ông ta. Khinh? Có lẽ! Nhưng mà không căm giận. Mặc dù nỗi cay cực của bố Ngân biết rõ và không bao giờ quên. Nhưng với Ngân, đó là quá khứ của ông. Một cách vô thức, Ngân đã chối từ nghĩa vụ gồng gánh dĩ vãng, gồng gánh tự hào và đau khổ của thế hệ đã sinh thành ra mình. Một cách vô thức, Ngân đã hiểu ra khả năng nhiễm độc trong hương vị dịu dàng đắng cay của quá khứ. Và bởi thế Ngân đã hành xử rất nhẹ nhàng với người cha của bạn. Nếu tự tin hơn và nhẹ dạ hơn, hay nếu căm giận, có lẽ Ngân đã không thể tự bảo vệ mình, có lẽ đã rơi vào cái bẫy của mình trong ý muốn trả thù cho cuộc đời bố mẹ, trả thù cho cuộc đời không được sống mà mình thực ra cũng không biết sẽ như thế nào.

 

            Nhiều năm sau này, không gặp lại Vĩnh nữa, nhưng khi nhớ về người bạn cũ đã cho mình bao nhiêu tin cậy và âu yếm, và có lẽ, đã có thể cho mình cả yên ấm theo một nghĩa nào đó, Ngân lại nhớ tới buổi chiều ấy. Ông bố Vĩnh lại diễn đúng vở cũ, nửa thân tình nửa sàm sỡ, Ngân xoay người, lách ra khỏi vòng tay ông, nói rất nhẹ nhàng:

            - Bác Mạc!

 

            Hệt như nghe ống nứa nổ trong rừng cháy, người đàn ông ngả tấm thân bệ vệ về phía sau, môi giật giật:

            - Sao... sao Ngân biết cái tên đó? Cháu... cháu là ai?

            - Là bạn Vĩnh con bác, bác biết rồi mà. Vĩnh rủ cháu đi xem vở 'Tôi và Chúng ta'. Ồn ào ghê lắm, chắc bác cũng xem rồi? Cháu cứ khất Vĩnh mãi. Nhưng mà... Vĩnh về thì bác bảo Vĩnh cháu chờ Vĩnh tối nay lúc bảy giờ nhé.

 

            'Bình tĩnh! Bình tĩnh'. Ngân đi về phía cửa, hít thật mạnh và giữ hơi lại trong khoang bụng, đầu âm âm lời tự nhắc mình. Nếu Ngân quay đầu, cô sẽ thấy người đàn ông béo tốt giờ bệch bạc ngồi chảy ra trong lòng ghế. Đã từ lâu lắm rồi, ở quanh ông không còn là những người anh người em thuở ấy. Đã từ lâu lắm rồi, ông không còn nghe ai gọi mình bằng cái tên ấy. Cơn gió nồm nam thốc vào phòng làm ông rợn cả người, như cái lúc nhớ lại trận lũ rừng trên đường công tác năm xưa, như cái lúc hồi tưởng giây phút quăng mình qua bờ đê tránh hỏa lực phục kích của địch một đêm đột nhập làng tề, như cái lúc từ trên ban công đang săm soi giàn hoa cẩm tú thì bất chợt thấy người đàn bà điên cùng phố... Cô gái này không điên.

 

            Ông hoàn toàn mất bình tĩnh. Bà vợ đi làm về gặp cô gái ngoài cổng đã thấy chồng trong bộ dạng thảm não đó. Bà không thể có thêm một phỏng đoán nào ngoài phỏng đoán kinh khủng ấy, vì ông chồng không thể giải thích điều gì. Trong nỗi căm giận chính đáng nhiều năm của mình, liệu bà có thể hiểu được nỗi bất an cứ phình lên nóng rực ruột gan ông? Và ngay cả có biết rằng đêm ấy, khi thằng con trai ông đạp xe trên phố mưa, gọi tên cô gái trong mưa, cô gái sẽ nằm mở mắt, khóc, lặng lẽ, biết rằng mình sẽ không bao giờ còn tìm gặp lại Vĩnh, sẽ không bao giờ còn rong ruổi cùng người con trai vô tư và dễ mến những chiều chiều, chắc là ông cũng vẫn không thể yên tâm.

 

*.

 

            - Giá có thể lại trẻ bằng khi đó, Vĩnh sẽ xin lỗi Ngân cách khác. Có thể Ngân vẫn không chịu, vẫn đi lấy chồng, nhưng giữa chúng mình sẽ không phải là mười mấy năm yên lặng như thế này.

            - Nói thế làm gì Vĩnh. Dù thế nào thì Vĩnh cũng thừa biết bọn mình không thể lấy nhau cơ mà. Cái tính Ngân... là bạn thì có thể chứ làm vợ thì Vĩnh chắc chịu chả nổi ba bảy hăm mốt ngày đâu. Vĩnh ân hận ư? Bọn mình có thể xin lỗi thay cho các cụ được không? Ngày xưa, Ngân cũng choáng váng khi biết những điều không nên biết của các cụ. Nhưng bây giờ, khi đã là đàn bà, đã không thể nào ngờ nghệch lại, Ngân hiểu rằng mọi sự đều có thể, xấu hay tốt, ở bất kì ai, đều có thể.

 

*.

 

            Dù người đàn bà nói thế, người đàn ông vẫn không thể nào quên được câu chuyện bà mẹ ép nghe vào buổi sáng chủ nhật kinh khủng ấy. Ông bố đã đi câu lạc bộ chơi tennis. Bà giúp việc nghỉ làm. Ông anh vào trường. Chỉ có hai mẹ con. Vĩnh ngồi bất động, chú mục vào giò phong lan treo ngoài gió sớm vừa nở lần đầu. Trời u ám và cái màu vàng cam ấy sao mà lộng lẫy. Vĩnh đã không thể nói gì, nhưng Vĩnh biết mình ước ao gì. Vĩnh hoàn toàn khác thường vào buổi tối khi đến trung tâm ngoại ngữ chờ Ngân. Và Vĩnh đã xin lỗi, đã ngỏ lời. Và lại thêm một lần choáng váng bởi câu chuyện về gia đình bạn. Không có hân hoan đêm mưa hôm nào. Điềm đạm và buồn bã. Cả hai người đều điềm đạm và buồn bã. Y như bây giờ. Hồi ức chung làm họ hiểu rằng ngay từ khi ấy mình sẽ chẳng còn bao giờ trẻ nữa...

 

            - Ngân biết không, hôm ba Vĩnh mất, Vĩnh có thấy Ngân và... cả bác.

            -  Ngân đưa bố đến cùng chú Thái. Ngân cứ nghĩ Ngân không đi cùng lớp mình thì Vĩnh chưa chắc nhớ. Hôm đó phòng tang lễ sao mà đông. Mà Ngân và cả hai cụ thì đều không ghi gì vào sổ tang.

            - Vĩnh cứ ngạc nhiên...

            - Sao lại ngạc nhiên? Sau nay bố Ngân và chú Thái hay nhắc ba Vĩnh những ngày còn ở Việt Bắc. Các cụ bảo ba Vĩnh ngày ấy sống hay lắm. Vĩnh đừng nhớ những chuyện ấy làm gì nữa. Dù sao bác cũng nằm xuống rồi. Mà Ngân phải nói ngay với Vĩnh rằng chính ba Vĩnh đã dạy Ngân nhiều điều. Không biết bác, chưa chắc Ngân như ngày hôm nay để Vĩnh còn muốn gặp lại. Nhờ bác mà Ngân hiểu ra rằng sớm muộn gì thì người ta cũng phải một lần đối diện mình, nhận chịu trách nhiệm của mình. Và...nói thật đừng bực nhé, Ngân thấy cái trò ăn năn hộ của Vĩnh cải lương ghê lắm. Cứ biết chịu cho đủ trách nhiệm của mình hôm nay đã. Thế chưa đủ nhọc sao? Chuyện các cụ để các cụ tự xử lí. Ngẫm cho cùng cũng tại các cụ cả. Các cụ đùng đùng chạy theo nhau. Đã trung thành với tổ chức thì đừng nói chuyện trung thành với nhau. Không thể có những thước đo khác cho những thời điểm khác trong đời người. Ba Vĩnh chỉ làm những gì mà ngày ấy người ta cho là... cho là... nếu chưa đúng thì cũng chẳng có gì ghê gớm. Còn việc giữa bác với Ngân sau này, Vĩnh phải nhìn như giữa bác với một người đàn bà bất kì. Cái chính không phải là bác, mà là người đàn bà kia làm gì. Ngân đã học được ở các cụ nhiều điều...

 

            Bài học đắng cay. Cả hai người hiểu rất rõ rằng nói vậy thôi, dĩ vãng còn nguyên đó. Ám ảnh họ. Đeo đẳng họ. Đời sống nếu đẹp thì hình như luôn đẹp trong cái vẻ u ám này. Nhưng thật ra đời sống nhiều khi chỉ tức cười và buồn rầu một cách phi lí.

       

 

Sao ta không gặp nhau muộn hơn

Những xáo trộn trong đời thành dĩ vãng

Ta biết quý những gì yêu dấu

Không bao giờ ta chia tay em

 

Sao ta không gặp nhau sớm hơn

Lơ ngơ chưa biết tiếc điều gì

Đã không cháy đốm lửa muôn đời ấy

Không tro tàn bỏng rát mấy mươi năm

 

Sao ta không tìm nhau ngày sau

 

 

  13.

 

         Chẳng hạn như trò chơi vợ chồng. Đúng hơn thì phải nói là một vở kịch nhạt mà kì cục.

 

         Cái hồi đó kì cục thật. Khu tập thể trông thật đẹp. Ba khối nhà cao tầng quây lấy nhau. Giữa là nhà trẻ xây theo lối nhà nghỉ công đoàn ở Đồ Sơn Sầm Sơn gì đó, có hành lang bao quanh và đấy là nơi tụ tập của bọn trẻ con những buổi trưa mùa hè mất điện. Trước nhà trẻ là vườn hoa. Có lẽ chỉ có thế hệ Ngân là biết ngày xưa khu tập thể còn có một vườn hoa. Đúng là kiểu mẫu. Chỉ còn thiếu mấy cái xe đẩy trẻ con và mấy bà béo mặc váy hình cái nơm ngồi trên những chiếc ghế gỗ kê dọc lối đi là giống như cảnh thường thấy trên các tấm bưu thiếp của Liên xô. Nhưng đằng sau những cánh cửa kia là cả một sự nhem nhuốc và lạ lùng là dường như không một ai thấy bất thường. Hai gia đình được chia chung một phòng còn tự cho mình may mắn. Giường kê lênh khênh trên mấy viên gạch cho cao và tất cả nồi niêu xoong chậu tống hết xuống gầm. Một cái tủ gỗ tạp và cái xe đạp dựng kề. Đấy là tất cả cõi riêng của những cặp vợ chồng son rỗi khi đó, tách biệt nhau bằng một tấm vải hoa loè loẹt theo thời gian màu sắc cứ xỉu dần đi. Bọn trẻ con thì thích ở chung lắm. Nhưng bọn lớn hơn một chút thì lại có thú khác. Buổi trưa ấy, theo lời hẹn, cả lũ không tụ tập dưới hành lang nhà trẻ mà dồn về nhà thằng Phái. Căn phòng lớn đầu hồi mà khi thiết kế người ta tính dành để làm nơi cho mọi người tụ bạ, đọc sách chơi đàn đánh bóng bàn hay nói nhăng giờ mới được chia đôi. Nhà thằng Phái chiếm một nửa. Nửa căn kia thuộc hai nhà, nhà bác Miến già không con và nhà chú Tưởng cô Hoa mới cưới. Hai căn được phân cách bằng tấm gỗ dán dựng cao quá đầu, nhìn lên thấy toàn những bao những gói chăn màn. Thằng Phái đã dùi một lỗ nhỏ trên bức tường gỗ từ bao giờ và bây giờ nó hào phóng cho cả bọn xếp hàng ghé mắt nhòm, sau khi đã dặn dò cảnh cáo cả bọn suốt mấy ngày trước đó là phải trật tự như khi kiểm tra một tiết. Cái lỗ bé hơn đầu đinh hóa ra nhìn thẳng qua giường chú Tưởng cô Hoa. Nhà bác Miến đi đâu không rõ. Cứ thấy cô chú vật lộn, lăn bên nọ lăn bên kia, lúc mất tích đâu ở góc tường, lúc chình ình hiện ra nồng nỗng trông ghê không chịu được. Hết phần nhòm ngó, Ngân kéo tay con Hằng An nhà cô Tam lủi một mạch. Cái cảnh vừa nhìn thấy làm nó chóng mặt, buồn nôn, nhưng những tiếng động vừa lọt vào tai lại bắt buộc nó hình dung ra một cảnh khác mà nó đã suýt phải chứng kiến khi còn bé hơn thế này, khi còn đi sơ tán. Hồi ấy nó thân với chị Thục nhà ông Lẫm lắm. Chị là cô gái duy nhất trong làng học hết cấp ba và là kho sách của Ngân, cũng là người duy nhất được bà tin cậy gửi Ngân những khi ngoài bãi có hát chèo hay chiếu bóng. Ngân hay qua nhà chị theo lỗ chó chui ở chân rào, rồi tọt thẳng vào buồng chị. Buồng chị Thục không giống buồng các cô gái khác trong làng, không chăng sào để vắt quần áo, không chồng chất hũ lọ thúng mủng giần sàng, sát cửa sổ lại còn cây khế lá lúc nào cũng nõn nà xanh làm cho nắng cứ xôn xao. Buổi trưa, trời oi bức. Các chú bộ đội đóng quân trong làng không thấy đi lệu rệu. Ông bà Lẫm đi thăm con làm ở nông trường An Khánh tận ngoài Hà Đông. Ngân vừa tới sát gốc cây khế thì giật mình. Cũng những tiếng động kì quái như tiếng động Ngân vừa nghe qua bức vách nhà thằng Phái. Sợ bủn rủn chân tay. Con bé lủi ra đầu hồi nín thở nghe ngóng tiếp. Cho tới khi có tiếng kẹt cửa nhẹ như một tiếng guốc võng chao nghiêng. Người vừa bước ra đi tắt qua vườn ngay chỗ đầu hồi Ngân đứng là chú đại đội trưởng đơn vị bộ đội đóng quân trong làng. Chú sẽ cùng đơn vị ra đi chỉ sau đó ít ngày. Cũng chỉ ít ngày sau, Ngân đã vô tình nhìn thấy chị Thục đi giặt, lúc nó nằm sấp trên cây sung còng bên dốc bến. Bến vắng. Quanh chỗ chị Thục dầm chân, những vòng sóng đỏ lan ra, nhạt dần, trôi đi. Chị Thục đứng thẳng lưng, nâng cái nón đựng mớ đồ ướt, mắt lấp lánh một niềm vui chưa bao giờ Ngân thấy.

 

         Phải rất nhiều năm sau này Ngân mới thoát được cảm giác ghê ghê lờm lợm khi chợt nhớ lại cảnh ấy. Phải rất nhiều năm sau này Ngân mới hiểu ra nỗi đau khổ và khả năng chịu đựng quá sức người của con người thời bấy giờ. Ngày đó, người ta sống hay chỉ đơn giản là hiện diện? Thật khó trả lời. Mà đặt câu hỏi như thế hình như là bất nhẫn. Cũng không ai được quyền tách khỏi đời sống đó để mà kinh ngạc hay xót thương. Không coi tất cả là bình thường, chết chóc, thiếu đói, cấm đoán, cả nhục nhã nữa là bình thường, làm sao người ta sống?

 

        Dù thế, hồi ức vẫn chi phối Ngân mà Ngân không tự biết. Từ chối một bến bờ yên ấm là Vĩnh, Ngân lại chọn cho mình một nơi yên ấm khác, hoàn toàn bất ngờ với bạn bè. Khi không thể hết mình vì tình yêu mình mong có thì sống thế nào chả được. Vậy thì sao không sống cho đàng hoàng?

        Cuộc sống đàng hoàng ấy thật là nhờ nhệch, làm xộc xệch mọi cảm giác của Ngân. Phải vì thế mà trong lòng người đàn bà trẻ con này cứ thảng thốt mãi tiếng rống gọi trở về của tháng ngày thiết tha buồn khổ. Cảm giác về những ngày ấy từ nhịp sống bây giờ tưởng chừng có thể làm tất cả trong trẻo lại. Ngân đã tự mình thấm thía, năm từng năm, khi trên phố lại mơ hồ mùi hương của những gánh hoa loa kèn bán sớm, khi một trưa bất chợt gặp màu bằng lăng tím dại dột trong mưa làm thanh thoát lại cái khoảng phố Thợ Nhuộm khô cằn, khi ngoài ngõ một sớm kia tự dưng quang quẻ hẳn vì cây đa thay lá mới. Bao giờ cũng là những hồi ức buồn thảm thức dậy cùng những hương và sắc ấy. Lung linh nhất và mơ hồ nhất trong nỗi nhớ nhọc nhằn luôn luôn là mẹ. Mẹ, và những giờ phút cuối ...

 

 

 

         Những câu thơ buồn và lạnh

         Mang theo suốt cuộc hành trình

         Tôi sưởi ấm lòng mình

         Bằng những câu thơ buồn và lạnh

 

         *

 

           

         Không bao giờ, không bao giờ còn ra quả nữa

         Nhưng những cuối mùa

         Quanh gốc,

                             rụng toàn cuống hoa

 

                                Gửi một cây anh đào cùng tuổi

 

 

         14.

 

            'Con mang trên vai tuổi con gái chòng chành - con không được như các bạn của mình - khi mỏi nghiêng về bên mẹ...'

         Ngân đã viết như thế ở trang cuối của một cuốn vở, giữa một tiết học cuối năm, khi các bạn trong lớp dấm dúi chuyền tay nhau cuốn sổ lưu niệm để mơ màng nhắm mắt trước khi hạ bút vạch một chữ kí lãng mạn, với cái đuôi loằng ngoằng hướng tới tương lai. Đấy sẽ là cuốn vở duy nhất Ngân giữ lại nhiều năm sau khi đã rời trường phổ thông và đại học. Cuốn vở chỉ nguệch ngoạc đôi công thức toán và dòng chữ đó, trang cuối cùng. Nó nhắc Ngân nhớ tới nỗi cô độc bất thường của mình, không hẳn chỉ vì mồ côi mẹ sớm đến thế.

 

*.

 

            Nhiều năm sau này, khi đã là một người đàn bà từng trải nhiều mà vẫn không dạn dày, những dòng chữ viết trong buổi sáng hè rời rợi gió đó sẽ làm Ngân sợ hãi khi nghĩ về đời sống. Ngân nhớ mẹ đã ra đi vào tuổi Ngân bây giờ, mà chưa từng có một khoảng thời gian nào thật sự yên bình, nói gì hạnh phúc. Chỉ ở tuổi này, Ngân mới thấu hết nỗi đau của một đứa con mồ côi, chỉ thấu, khi hiểu ra nỗi đau đớn kiệt cùng của mẹ những ngày tháng đó, khi mẹ biết mình sắp chết, mà con mình còn nhỏ dại thế kia. Dẫu đã hết đạn bom. Nhưng đã bắt đầu lẩn khuất đâu đó khó khăn của thời hậu chiến, với bao nhiêu lo toan no đói tầm thường.

      

            Và cũng chỉ ở tuổi này, khi hầu như mọi buồn vui dồn hết vào những đứa con rứt ruột, Ngân mới dám nghĩ rằng mẹ thật ra đã ra đi đúng lúc. Mẹ sẽ sống làm sao cho qua những ngày tháng đó. Mẹ, người đàn bà đẹp nhất, đẹp đến nỗi bao giờ bắt gặp một gương mặt phụ nữ khả ái, Ngân đều có cảm giác người đó có đôi ba nét giống mẹ mình.

 

            Đấy không hẳn là cảm giác dễ hiểu ở một đứa con yêu mẹ. Người phụ nữ đã sinh ra người đàn bà trẻ con đẹp thật. Đẹp khác thường. Mái tóc rất dày nâu óng lên trong màu nắng quái dâng ngập những thân cây già bao chiều trên phố vắng. Hàng lông mày rậm cũng óng một màu nâu như thế. Sắc nâu lạ lùng và nồng ấm biết bao nhiêu, cứ làm Ngân thót cả tim mỗi bận nhìn dọc phố ngóng bóng mẹ đi về. Thường phụ nữ da trắng thì tóc và mắt cũng hơi nâu, nhưng đường nét sẽ nhạt, và buồn vui thì hời hợt yếu mềm. Còn mẹ, tóc và lông mày óng ả một màu nâu pha màu đồng đỏ, mắt to và môi mọng, hai khoé môi lúc nào cũng như đang giấu sẵn một nụ cười trái ngược với cái nhìn đầy tra vấn. Mẹ đã đi suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình với mắt và môi ấy, cả tin mà không biết khoan nhượng. Mẹ đã đi qua hai cuộc chiến tranh. Tuổi thơ âm u dưới bóng rừng già Việt Bắc. Tuổi trẻ trập trùng những nỗi đạn bom, nỗi mẹ già con dại chồng nghèo u uất mãi một nỗi niềm không thể nào gỡ bỏ. Mẹ đã đi qua tất cả với cái nhìn đau đáu và miệng cười không bao giờ gìn giữ lại cho mình một chút gì. Ngân không biết mình thừa hưởng được ở mẹ điều gì. Không phải là nhan sắc thắt lòng thắt ruột. Không phải là tính khí, cả tin, nóng nảy, kiêu hãnh mà thực ra khiêm nhường. Ngân nhớ, nhớ bao nhiêu giọng hát của mẹ, những đêm Hà Nội, mất điện, thanh khiết trăng sao. Những bài hát thời kháng chiến, những bản nhạc vàng ở lớp ở trường Ngân vẫn thường nghe nói mà không biết. " Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng - Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa ... Âm ba thoáng rung cánh đào rơi - Nao nao bầu sương khói phủ lưng trời - Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan -Quê hương dần xa cách núi ngàn...  Gió hát trầm khúc ca - Tiếng phách giòn lắng xa - Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta...'  Bao nhiêu bài mẹ đã hát Ngân nghe. Những bài hát mẹ đã nghe từ bà ngoại giữa một Hà Nội lạ lùng trước ngày kháng chiến, nghe từ các chú các bác cùng cơ quan ông ngoại dưới bóng núi chiến khu, những bài mẹ đã học thời thiếu sinh quân quê người. Nhưng Ngân nhớ, nhớ nhất khúc thiên thai kì diệu mà mẹ đã hát say mê trong hơi gió nồm nam lồng lộng thổi, và nhớ những ngón tay mẹ mơn man trên tấm lưng nóng hầm hập vì sốt của Ngân. Ngân nhớ đêm mùa hạ ấy Ngân rét lắm trong cơn sốt, nhưng con bé con vẫn nằm mình trần, yên lặng, chỉ để được có bàn tay mẹ trên thịt da mình, chỉ để được nghe mẹ hát như mẹ đang nghĩ ngợi. Trăng xanh biếc hào phóng rải trên tấm chiếu cũ hai mẹ con nằm. Đấy là đêm riêng tư cuối cùng của hai mẹ con. Mẹ sẽ không thể sống những ngày những đêm đầy sự kiện đến rất nhanh sau đó. Như đêm ấy...

 

*.

 

         ...Đêm ấy, 30 tháng 4 năm 75, Hà Nội vẫn mất điện. Trong bóng tối hầm hập, tiếng loa truyền thanh không dễ định vị như lúc ban ngày, vang xa hơn, chói lói hơn. Hai chị em Ngân kẽo kẹt đèo nhau về nhà trên cái xe đạp cũ. Từ bệnh viện K nơi mẹ và những bệnh nhân ung thư nằm - những người mà người thân đang cố giấu họ một cách vô ích chẩn đoán vô vọng của bác sĩ, nơi chỉ có những mắt nhìn mỏi mệt của người sống và hoang vu cuả người đang chết trở ra phố, Ngân có cảm giác thế giới này không có thật. Người như nước tuôn về phía Bờ Hồ. Như cả thành phố dồn về đây, để đứng bên nhau, để cùng lắng nghe. Đoạn Hai Bà Trưng - Hàng Bài tắc cứng. Không rõ mặt ai trong tối. Chỉ những hơi thở nóng, nặng nề. Chỉ những tiếng lầm bầm xin lỗi của những người bị mắc xe đạp vào nhau hay sơ ý giẫm phải chân nhau. Bay náo nức trên tất cả, trên đám người không rõ mặt, trên vòm lá bắt đầu lồng lộng gió là những âm giai nao nức. 'Việt Nam trên đường chúng ta đi - Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó - Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời - Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước mà vui sao ta chẳng nói nên lời... Chặng đường xa ta đi giữa mùa xuân - Ta đi giữa tình thương... chiến trường xa dồn dập bước... Việt Nam... Việt Nam...'  'Yên hàn thật rồi.' Ai nói lầm thầm như mơ. Đột ngột vang lừng một giai điệu chưa bao giờ nghe... 'Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng - Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng...' Lại Việt Nam. Lại Hồ Chí Minh. Có cái gì cảm động lắm, vừa cảm động vừa nghẹn ngào vừa kỳ quặc nở dần ra trong bóng tối của ngày đại thắng.

 

         Khi đó Ngân chưa biết Trịnh Công Sơn. Cũng chưa biết tự hỏi mình nếu vào lúc đó hoặc trước đó người Hà Nội đã biết chẳng hạn 'Một buổi sáng mùa xuân' hay 'Đại bác ru đêm' của Trịnh thì ấn tượng về ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đằng đẵng ấy đối với mỗi người sẽ như thế nào?

 

            Đại hội Đảng lần thứ tư sẽ diễn ra sau đó một năm. Trước đó là cuộc diễu binh lớn chưa từng thấy. Nhà Ngân chật cứng bà con ra tỉnh xem duyệt binh. Mẹ lại nằm viện, đang heo hắt những hơi thở cuối. Ai ra Hà Nội cũng vào thăm mẹ và mẹ vẫn cố hết sức để mỉm cười, để diễn tả niềm vui có thật trong lòng khi biết mình sẽ chết. Rằng con mình đã sống và sẽ sống. Vì đã là hòa bình. Nhưng, trong hòa bình đã bắt đầu một cái gì đó còn khó khăn hơn cả thời bom đạn. Sau này, ký ức về những ngày đó trong trí Ngân cứ tự xóa từng vệt. Chỉ còn duy nhất một ấn tượng: hè năm đó ve sao mà nhiều thế, và mậu dịch bán nhiều chanh thế. Ve ran ran đêm ngày như một lời tiên cảm về những mùa khô khát chưa tới. Chanh đổ từng đống bên hè phố, thơm mát đường trưa tháng sáu, rồi úa đi, nẫu đi, bốc mùi. Tại sao Ngân lại nhớ điều nhỏ nhặt ấy? Tại sao Ngân không mấy khi nghĩ tới những buổi trưa hai chị em lủi thủi đi xuyên thành phố mang cơm cho bố đang trông mẹ trong bệnh viện? Tại sao Ngân không nhớ những tiết học đột nhiên nhãng hẳn lời thầy giảng, trái tim đập nặng như muốn ngừng vì ý nghĩ có thể trên cái giường sắt đó ở viện mẹ đã tắt thở? Đấy có phải là phản ứng tự vệ để lẽo đẽo cho hết phần đời chưa kịp sống?

 

            Lúc đó, trong đầu óc cô gái mười ba tuổi không còn chỗ cho Trịnh Công Sơn. Mà có lẽ, với những người khác thì cũng thế. Đại hội Đảng IV thành công rực rỡ. Báo đăng. Đài nói. Công viên Thống Nhất thành rừng ánh sáng. Nghị quyết về các chỉ tiêu kinh tế đất nước phải đạt tới trong kế hoạch năm năm tiếp đó... Những con số... 'Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng...' Hai mốt triệu tấn lương thực thành mục tiêu trên giấy cho bà con nông dân hướng tới... 'Hợp lý.' 'Nhảy vọt.' Đài nói. Báo đăng. Có thể đoan chắc chuyện ngờ vực không có trong lòng người dân bình thường. Cái chính là đang sống, còn sống. Vả chăng đánh Mỹ còn được thì làm gì chả được. Đã ở nước nào đại sứ Mỹ phải cuốn cờ cắp nách cút đâu. Không ai thấy chuyện giang sơn thu về một mối mà vào tìm thân nhân trong miền đất vừa giải phóng vẫn cần có đủ thứ giấy chứng nhận nhân thân của cơ quan khối phố là điều bất thường. Nếu có ngỡ ngàng thì chỉ là ngỡ ngàng về một miền Nam phồn vinh lắm đồ nhựa xanh xanh đỏ đỏ, lắm máy móc gia dụng cũ, lắm vải mỏng đẹp tuyệt mà vừa giặt vài ba nước đã rách và vào chợ Bến Thành không biết cách mặc cả thì chớ có mua bán gì. Nếu có ngờ vực thì chỉ là sự ngờ vực kín đáo trước những người đàn bà miền Nam ra thăm chồng đi tù, áo bà ba vải mỏng tang mà nét cắt trông cưng cứng, quần ống rộng đen nhấp nhoáng, dép lưới, đội mũ vải thay vì nón lá, miệng lúc nào cũng hờm sẵn một nụ cười giữ ý chẳng ăn nhập gì với cái nhìn căng thẳng, buồn bã. Họ luẩn quẩn trong căn phòng chật của người bà con Hà Nội, lo xếp xếp sắp sắp những gói những lọ những hộp bốc mùi thơm lừng. Toàn những mùi xa xỉ tra tấn mũi và lưỡi và dạ dày của đám con chủ nhà cùng chúng bạn. Ngoài phố, tiếng loa truyền thanh vẫn vang vang dội ngược vào nhau. Náo nức. '...Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay - Non nước mây trời lòng ta mê say...' '...Từ ngày hôm nay chỉ còn những tiếng ca...' '...Từ thành phố này Người đã ra đi - Bao năm ước mong đón Bác trở về...' Cũng đã chen vào những âm thanh mới của những cuộc chiến mới. Nức lòng. Hùng tráng. '...Chẳng kẻ thù nào ngăn được bước ta đi - Khí thế tiến công mang sức mạnh thần kỳ - Lời Tổ Quốc vẫn âm vang sông núi...' '...Chúng con lên đường hình Tổ Quốc trong tim...' Trịnh Công Sơn phản chiến của cuộc chiến đã qua không thể chen chân trong dòng chảy này của đời sống. Còn tình ca? Tình ca thích hợp với một cuộc chiến nhất định thắng chỉ có thể hát về những nỗi nhớ hai đầu, hai đầu dòng sông, hai đầu núi biếc, hai phương trời cách biệt, là sự chia xa thực chứ không phải là tưởng tượng, và không bao giờ là cô đơn. Vẫn còn nguyên trong trí nhớ Ngân tiếng hát Trung Kiên sắt đá một niềm tin phơi phới: '...Khi hát lên tiếng ca gửi về người yêu phương xa - Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba - Em ơi nghe chăng lời trái tim... Qua núi biếc trập trùng xa xa - Qua bóng mây che mờ quê ta - Tiếng ca đời đời đời chung thủy thiết tha... Giữ lấy đức tin bền vững em ơi - Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời làm một bản tình ca dâng cả bao người...' Vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ Ngân giọng nữ trung nồng ấm và rạo rực của Vũ Dậu: '...Rất dài và rất xa là những ngày thương nhớ... Anh đang mùa hành quân pháo lăn dài chiến dịch - Bồi hồi đêm xuất kích chờ nghe tiếng pháo ran - Ngôi sao như mắt anh trong những đêm không ngủ - Giáo án em vẫn mở cho ánh sao bay vào - Ngày và đêm xa nhau những đêm dài thương nhớ - Thời gian trong cách trở vẫn cháy ngời tình yêu...' Vẫn còn nguyên... giọng hát và ánh mắt... gửi trao... hò hẹn... rụt rè... liều lĩnh... Quang... chiều Đại Lải năm nào: '...Một tiếng chim ngân - một làn gió biển - một sớm mai xuân bên cửa hầm dã chiến thấy trời xanh xao xuyến... ta vẫn thầm hái hoa tặng nhau...' Không một nhấp nháy xao xuyến trước tấm tình ấy, nhưng Ngân nhớ, nhớ tới bây giờ và chắc mãi về sau nữa, về người bạn cùng lớp sẽ hy sinh chỉ sau đó ít ngày, dù Ngân đã chồng con, đã mệt nhọc lắm bơ phờ lắm vì phải sống. Lứa tuổi Ngân khi ấy chưa có tình ca cho riêng mình. Vẫn phải ăn đong tình ca của các thế hệ trước. Tiền chiến là cái gì đó chỉ lõm bõm nghe 'các cụ' âm ư rồi thở dài sau những bữa ăn chiều còn hơn là đạm bạc. Còn cái món ỉ ôi sướt mướt ' Thi ơi Thi Thi có biết biết không Thi khi con tim yêu đương thầm chết...' nhà hàng xóm khuân từ miền Nam ra nghe lén qua cái Akai cũ to như hòm lương khô, cái món ấy làm cho xương thịt thiếu ăn cứ muốn rão ra và những trưa hanh hao Hà Nội đâm khó thở.

         Khi đó Ngân chưa biết Trịnh Công Sơn. Mà biết, liệu Ngân đã biết để mà mê đắm?

 

*.

  

            Cô gái mười sáu tuổi không hề nghĩ rằng chỉ sau đó mấy năm thôi mình sẽ đổi khác hoàn toàn. Càng thiết tha bao nhiêu thì càng có vẻ ơ hờ. Càng nồng nhiệt bao nhiêu thì càng cô độc. Trịnh Công Sơn? Rồi Ngân sẽ biết nhưng không phải ngay lập tức đã cảm được. 'Biển nhớ.' 'Tình nhớ.' 'Cuối cùng cho một tình yêu.' 'Rừng xưa đã khép.' '...Tình yêu như trái phá con tim mù lòa... Một mai thức dậy chợt hồn như ngất ngây... Chợt buồn trong mắt nai... Tình yêu như vết cháy trên da thịt người... Tình xa như trời... Tình gần như khói mây... Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài... Tình cho nhau môi ấm một lần là trăm năm...' Tình nào mà chẳng như tình nào. Có gào thét than van cho lắm cũng có khác gì nhau lắm. Ngân sẽ còn phải nhắm mắt lăn đời mình qua những đam mê và khó nhọc của ngày sống thời hậu chiến rồi mới hiểu ra rằng những than van, những gào thét, những day dứt giữa những cơn say dài những cơn say vùi của Trịnh cần phải cảm không phải bằng trái tim đau khổ vì yêu hay vì đã chán yêu mà phải bằng trái tim hoang mang của người biết mình là duy nhất, lớn lao và nhỏ bé, tột cùng. '...Từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng...' Đấy không còn là nỗi thiết tha tuyệt vọng của kẻ đang yêu. Đấy là nỗi bi thảm của người - xa - lạ, mến thương cuộc đời này, mê đắm cuộc đời này, cô độc tuyệt đối trong cuộc đời này và mỗi mối tình sống qua, mỗi người tình quen thêm chỉ là thêm một bước, vào hoang vu.

         Ngân hiểu ra điều ấy hơi bị sớm. Nhưng cần một buổi chiều, một cơn gió bời bời khua trong vòm sấu làm chao nghiêng một chiếc lá bên trời, một mùi hương thơm ngát của tách cà phê quán vắng, một con người sẽ bước ra khỏi đời Ngân, điều mà cả Ngân và người ấy khi chia tay đã không hề nghĩ.

 

*.

 

         ...Trời trở lạnh đột ngột. Phong phanh trong cái áo mỏng đứng run cầm cập giữa đám người chen chúc trước cửa hàng chất đốt, Ngân buồn nản nghĩ tới cái cổ họng nhạy cảm và lồng ngực ốm yếu của mình. Bài tập lớn chưa làm. Sắp thi điều kiện rồi. Rồi sau đó là kỳ thi tốt nghiệp. Nhưng trước mắt sẽ là những đêm không ngủ không chạy đâu cho thoát vì khó thở, sẽ là những ngày nằm bẹp dí trên giường kẹp giữa hai chồng sách sẽ đọc và đã đọc. Nhưng cũng không thể bỏ về. Đã xếp hàng suốt từ trưa tới giờ. Bìa chất đốt chiều nay hết hạn. Bố đi làm. Chị đi thực tập. Không còn trông được vào đâu. Ngân không chờ đợi cái tin ấy vào đúng lúc ấy.

 

            Việt dừng xe sát bên Ngân, nhẹ giọng: 'đặt lên đây' và đỡ lấy can dầu nặng trĩu trong tay Ngân. Có cái gì thương mến lắm trong mắt Việt. Ngân không biết khuôn mặt trắng xanh, cái áo cũ mỏng Ngân vừa co hai vạt quấn chặt tấm thân thanh mảnh, mái tóc dày buông lơi của mình đã siết lấy trái tim Việt trong khoảnh khắc đó của buổi chiều đó. 'Vừa lĩnh học bổng. Muộn muộn Việt tới. Đi nhé!' Vẫn là thương mến, nhưng thêm một chút gì như gượng nhẹ, như vui thầm trong mắt Việt, khi Ngân gật đầu. Việt không lên nhà, trước khi quay xe, Việt ngần ngừ rồi bảo: 'Phan viết thư về kể chuyện có cô bạn nhà ở gần gần đây'. Mặt Ngân không thể tái hơn được. Ngân mỉm cười. Cả ba là bạn cũ...

 

...'Đen hay nâu? Ngân đừng uống đen. Nâu nhé!' Vẫn Việt nói. Việt ngồi xoay lưng ra cửa. Ngoài kia gió vẫn bời bời. Lá sấu xoay tròn lấp loáng trong sắc trời xám sáng chỉ có vào những ngày cuối thu gió trở như thế này. Ngân cầm cái thìa, gẩy một chút bơ vào tách cà phê chị chủ quán vừa mang tới, chăm chú nhìn giọt bơ loang. Mùi cà phê ngầy ngậy và khắc khoải. Việt vẫn nói, vẫn nói. 'Vậy đấy. Phan đã có một cô bạn. Khi nói một cô bạn thì đã không còn là bạn. Phan đang xoay làm chuyển tiếp sinh...' Ngân lắng nghe, nghĩ, tưởng như mình thờ ơ. 'Không một ai biết chúng mình đã viết cho nhau những lá thư như thế nào. Cả Việt nữa. Nhưng lẽ nào Việt không biết chúng mình...' Ngần ấy năm Ngân thân tình với bao nhiêu người nhưng không thân thiết riêng một người nào. Không hẹn thề, không gì cả, nhưng những lá thư mang màu sắc một trời xa và những lá thư Ngân gửi đi bằng con tem mua từ đồng học bổng chắt bóp dán bằng cơm nguội đã riết Ngân vào trong ảo giác về một cái gì tuyệt đối và vĩnh viễn. Có thể gọi là tình bạn. Cũng có thể là tình yêu. Bởi vì chỉ có hai người, chỉ có khát khao, cảm hiểu. Thánh thiện. Nguyên chất. Tất cả bạn bè đều nghĩ thế. Mà đến hai gia đình cũng nghĩ thế. Việt chắc càng nghĩ thế. Vì Việt thân với Phan đến thế và vẫn là người chuyển thư Phan cho Ngân. 'Mấy năm rồi nhỉ? Chẳng bao lâu nữa tất cả sẽ ra trường...' Ngân xoè bàn tay hất mái tóc văng về phía sau lưng, cố gắng rời mắt khỏi một chiếc lá sấu đang vật lộn với gió tìm cách đậu xuống hè phố: 'Việt vừa bảo gì Ngân? €, Việt được dự kiến ở lại trường? Chúa thế!' Việt cắt ngang lời Ngân, thô bạo: 'Việt bảo Việt muốn có Ngân. Việt muốn sống cùng Ngân khi bọn mình ra trường. Việt không muốn cứ phải làm hộp thư sống hộp thư chết của Ngân với những ai ai! Ngân nói đi!' Việt chộp lấy bàn tay Ngân: 'Nói đi! Nói đi!' Ngân ngẩn người, tỉnh hẳn. Quán vắng. Chỉ có hai người và chị chủ quán đang hí hoáy thay băng mới. Trịnh Công Sơn! Sao lại Trịnh Công Sơn lúc này? '...Đời sao im vắng... Người về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm... Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày... Có sợi tóc nào trôi trong trí nhớ nhỏ nhoi... Không còn không còn ai... Ta trôi trong cuộc đời... Không chờ không chờ ai...' Ngoài trời mưa giăng tự lúc nào. Ngân khẽ khàng rút những ngón tay ra khỏi bàn tay Việt, với tách cà phê nguội uống ực ực. Chua loét. Vô duyên. '...Có những ai xa đời quay về... về lại nơi cuối trời làm mây trôi...' Việt nhìn vào mắt Ngân, vẫy chị chủ quán rồi lặng lẽ ra mở khóa xe. Ngân ngồi nhìn phố chiều đông dần lên, nhìn những dáng người mải mốt trong mưa lất phất. Phía bên kia ngã tư, người ta đang dựng một tấm pano mới. Bác. Mặt gầy và mắt sáng. Tay chống nạnh. Và phía dưới là hàng chữ to đùng: 'Bác đang cùng chúng cháu hành quân.' 'Bác đang cần chúng cháu hành quân...' Ngân lắc đầu, xua đi một nỗi nhớ. Phan. Phan hay gào câu hát láo lếu ấy. Cứ tưởng như Phan thì khó sống. Vậy mà lại chính Phan là người biết cách hòa hợp trước với cuộc đời này. '...Ngày ra đi với gió - ta nghe tình đổi mùa...' Đâu rồi ôi những non tơ?

 

            Sau này, Ngân không biết nên ơn hay nên oán Trịnh Công Sơn. Liệu không có Trịnh Công Sơn xót xa và giản dị đến ma quái, liệu không có giọng hát rền rền mê mệt một nỗi ai hoài trống trải của Khánh Ly, không rõ Ngân có chú tâm hơn không khi nghe Việt nói lời yêu dấu ấy. '...Ngày ra đi với gió... Ta nghe tình đổi mùa... Rừng đông rơi chiếc lá... Ta cười với âm u... Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời không thấy một ngày vui... Đường trần rồi khăn gói... mai đây chào cuộc đời... nghìn trùng cơn gió bay...' Không bao giờ họ trở lại câu chuyện cũ, dù vẫn đến nhà nhau chơi, vẫn lang thang cùng nhau, vẫn lo lắng cho nhau. Nhưng buổi chiều ấy vĩnh viễn trở thành màn sương mưa phủ lấy một cõi chung riêng tư lắm mà không một ai muốn vén. '...Nhìn lại nhau con mắt lo âu xin vỗ về muôn yêu dấu... Nhìn lại nhau che những cơn đau...' Trịnh Công Sơn bất chợt, đã buộc Ngân phải soi ngắm lại cuộc sống quanh mình, phải nhìn thẳng vào từng ngày sống của mình.

 

*.

 

            Đấy là những ngày kì quặc và buồn thảm. Nhưng hầu như không ai nhận thấy. Có biết một cuộc sống khác hơn đâu để mà ao ước rồi buồn. Chỉ những lo là lo. Toàn chuyện áo cơm phải từng ngày đối mặt. Niềm vui chiến thắng, đúng hơn là niềm vui yên hàn đã nhoè mờ theo thời gian. Niềm tin thì, không ai muốn nói và dám nói, nhưng cứ từng ngày mai một. Làm sao có thể tin vào một sự đổi thay lập tức và kì diệu, rằng 'thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày xưa' khi thành phố hình như mỗi ngày một xao xác và nghèo hơn, khi định lượng gạo còm cõi thế mà mậu dịch cũng không thể cung ứng. Làm sao có thể yên tâm khi chiều chiều nghe tiếng reo à à cuả bọn trẻ con là phải buông tất cả sách vở chạy ra chen lấn đổi bánh mì tem phiếu. Những cái bánh mì khô, rắn và chua mậu dịch bán thay gạo ấy Ngân đổ lổng chổng trong thùng gạo rỗng, vài ba hôm lại chờ lúc nhọ mặt người bê đi bán tống bán tháo được đồng nào hay đồng đó cho mấy bà phe phẩy đầu ngõ. Những giờ học triết, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và lịch sử Đảng trở thành lạ lùng. Cái cần nhất là nhập tâm, không đối chiếu so sánh với đời sống hàng ngày làm gì cho mệt. Chân lý của chủ nghĩa là một cái gì đó không thể và không nên tìm cách chứng minh, bởi vì nó nằm ở thì tương lai, của những thế hệ sau nữa. Không lẽ thế hệ trẻ của dân tộc này lúc nào cũng phải thực hiện kỳ vọng vào tương lai của thế hệ già? Nghĩa là không một thế hệ nào được sống cho đúng nghĩa! Ý nghĩ này Ngân không bao giờ dám chia xẻ với một ai trong đám bạn bè. Học hành trở thành gánh nặng vô nghĩa, càng vô nghĩa khi biết chắc tốt nghiệp rồi sẽ không mấy đứa thi thố nổi. Sẽ có những đứa chễm trệ trong cơ quan một bộ nào ngay giữa Hà Nội nhờ vào thần thế ai đó. Còn những đứa như Ngân, hôm nay no đói thế nào ra phố vẫn tóc ngang vai, guốc cao, quần áo là kỹ lưỡng và vẫn rủ rê nhau cà phê cà pháo khi trong túi có tiền, ngày mai chưa biết bị bắn về phương trời nào của Tổ quốc, để rồi chết dí ở đấy với đồng lương đùa nhả, bao nhiêu điều học được cứ chột dần đi. '...Nơi em về trời xanh không em...?' Không ai có thể hỏi một câu như thế vào lúc ấy, ngay cả để trêu chòng nhau. Cho nên câu hát càng hoang mang, ứa một khát khao. Bao nhiêu lần lang thang trên phố, ngang qua mấy hàng thuốc lá có cô bán hàng xinh xắn, bao nhiêu lần Ngân tự hỏi đấy có phải là một nữ sinh viên đã tốt nghiệp chống lệnh công tác hay không? Đã tự hỏi liệu mình có dám đánh đổi tất cả cho một cuộc sống yên bình nửa vời và thảm đạm như thế ở thành phố thân thương này?

 

            Mà vẫn tự biết '...vai em gầy guộc nhỏ...' Từ buổi chiều gió trở Việt bỏ về trước còn có bao nhiêu lần Ngân như thế một mình. '...Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua... Trên bước chân em âm thầm lá đổ...' 'Những chuyến mưa qua... ' Ôi Trịnh! Phải, Hà Nội mùa thu nhiều mưa lắm, hết mưa ngâu, hết bão rồi lại những cơn mưa dầm, lững thững đến rồi đi. Những cơn mưa buộc người ta ngồi lại, lặng lẽ nơi này, để, đôi khi, chỉ đôi khi thôi mà đau đớn mãi '...nhìn lại mình đời đã xanh rêu...' dù còn rất trẻ, chưa sống được bao nhiêu.

 

            Giống như là mộng mị. Vẫn sống đấy, vẫn lo toan đấy, vẫn nói cười đấy, vẫn yêu đương loạn xạ đấy, nhưng không thiết tha với một cái gì, ngoài khao khát về một cái gì tuyệt diệu lắm tồn tại đâu đó, có thật, nhưng mà mong manh, có lẽ còn vô nghĩa và vô ích giữa cuộc đời toàn những bươn chải không đáng như thế này. Không còn là lý tưởng đã hối thúc mấy thế hệ liền suốt mấy chục năm qua, đã một thời non trẻ hết mình tin tưởng. Những trang sách đẹp chỉ làm cho nỗi thiết tha thêm tuyệt vọng. '...Đôi khi ta lắng nghe ta... nghe sóng âm u dội vào đời...' Những ngày ấy đã tạo ở Ngân thói quen lang thang phố vắng một mình. Bao chiều. Bao đêm. Sương buông mờ phố nhỏ. Mùi lá đốt quyện trong sương buông lúc chiều hôm bình thản. Là cái gì chỉ thành phố này ngày ấy mới có. '...Gió heo may lại về... Chiều tím loang vỉa hè... Rồi mùa thu bay đi... Trong nắng vàng chiều nay...' Đèn đường bật sáng héo hắt dưới ánh chiều còn rớt lại và nhoè dần đi trong sương cuối thu mỗi lúc một phủ dày hơn. Hoa sữa dậy một vùng hương ấm cơn gió lạnh vừa xộc tới. Đã mấy mùa thu sang như thế. '...Đêm khuya nhìn đường phố... thành phố hoang vu...' Không phải một lần Ngân cảm giác được cảm giác của người nhạc sĩ ấy. Cuối phố đằng kia, nơi có hàng cây cao chứa đầy ánh sáng xanh tái của những bóng đèn cao áp mới được lắp, có đôi lần Ngân thấy Việt đạp xe rất chậm, cũng một mình, và Ngân đã rẽ sang lối khác. Đồng điệu ư và ích gì cho nhau? Nói gì với nhau? Rằng từ đấy đã yêu nhiều lần lắm rồi chăng? Rằng dù thế vẫn chưa biết thế nào là mê đắm? Rằng vẫn không thể cùng nhau! Hay không dám! Sợ làm xước những tin yêu. Vì không thể sống khác! Không thể từ bỏ đam mê, đam mê một cái gì rất đẹp, có thực mà vô ích. Như màu nắng hanh kia. Như tiếng vọng trong lá kia của gió. Như một con người vĩnh viễn trượt qua đời mình, vĩnh viễn mang đi mất của mình chút hy vọng, chút ảo giác vào một cõi sống bình yên, trong trẻo, lãng đãng. Và bởi thế, mọi mối tình đều dần tàn lụi, tắt ngấm. '...Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ... Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa...' Không ai có lỗi. Chỉ có điều sống thật khó. Từng ngày rời rã, từng ngày hoang mang. '...Màu nắng hay là màu mắt em... Mùa thu mưa bay cho tay mềm... Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm... Bàn tay xanh xao đón ưu phiền... Ngày xưa sao lá thu không vàng... Em qua công viên bước chân âm thầm...' Là thật đấy, rất thật, mà vẫn như là hoang tưởng giữa những ngày rất nhiều sự kiện, kì quặc và buồn thảm ấy.

 

 *.

           '...Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì...' Thầm thì cùng Khánh Ly, bao giờ Ngân cũng kinh ngạc. Người nhạc sĩ ấy đã sống thế nào trước đó, ở một miền đất với Ngân cho đến bấy giờ vẫn là một miền đất lạ để viết nên bài ca đó. Như là cho cả thế hệ Ngân sau này, ở một miền khí hậu khác, với một nhịp sống khác. Ngân đã không thể nghĩ về Phan như cũ. Buồn? Rất! Nhưng hối tiếc? Không! Có lẽ mọi sự sẽ không thể là như thế nếu giữa hai đứa đã có một chút gì, một ước thề, chẳng hạn. Nhưng đã không hề có một điều gì như thế, cũng như không một lần trìu mến nắm tay, cũng như không một lần nói lời gì từa tựa như thương mến. Sau này, rồi Ngân sẽ gặp lại Phan. Và cũng như với Việt, không bao giờ câu chuyện dài xưa được nối lại. Nhưng cái cảm giác hiểu nhau đến tận cùng, đến độ như thể chẳng hề trôi qua khoảng đời vừa bình thản vừa run rẩy tin yêu ấy thì vẫn còn lại đó, mặc dù Ngân rồi sẽ dần quen chấp nhận cái hữu hạn của con người. Sự lặng im đầy cẩn trọng của Phan, với Ngân, như một lời xin lỗi, xin lỗi khát khao xưa, đã vô tình để cho Ngân hiểu Trịnh Công Sơn, theo một cách nào đó. Người nhạc sĩ ấy đã đến và ở lại trong trí nhớ khắt khe của thành phố này, của Ngân, không phải bằng những bài ca phản chiến, không phải bằng tình ca viết cho một người con gái tuổi tên nào. Rất mỏng và rất nhẹ, mà dai dẳng, đầy ám ảnh là những bài ca Trịnh viết dường như cho chính mình, như về chính mình, kẻ sau này cuối đời sắp về lại nơi cuối trời còn tự dặn 'đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng.' Câu ấy, ở tuổi xuân thì bọn Ngân không tự biết để mà nói. Cũng chưa có để mà hát. Nhưng đã sống nó một cách vô thức, bởi dù sao thì vẫn không thể chết, vẫn muốn biết '...ta là ai mà còn khi dấu lệ... ta là ai mà còn trần gian thế...' Ta là ai? '...Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều...' sao vẫn thiết tha thương nhớ, như vẫn nhớ thương niềm vui hiếm hoi buổi sáng năm học cuối cùng ở ngôi trường ấy, gió đầu hè mát rượi đưa từ phố xa vào lớp học lời ca làm rung lên trong cả lũ con gái con trai mười bảy mười tám tuổi một cái gì mênh mang không thể đặt tên, tuyệt vời, diệu vợi. '...Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... Gọi cho nắng chết trên sông em dài... Gọi tên em mãi suốt cơn mê này... Đời xin có nhau... Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau...' Không có những gian nan của thời hậu chiến, mà trước hết, không có cái hoang mang bắt buộc chứ không phải là bất chợt, chứ không phải là vì rửng mỡ bới chuyện trầm tư của những ngày sống ấy, khi người ta luôn phải cúi nhìn hố thẳm giữa những điều trông thấy nghe thấy, chưa chắc Trịnh Công Sơn ở lại được với thành phố kiêu bạc này, như đã. Cũng như nếu không phải là Khánh Ly ma mị, rã rượi mà không sướt mướt, quạnh quẽ cơ hồ lãnh cảm, cứng cáp mà tan hoang, như đang lục lọi chính tâm hồn mình, đã chắc gì ngay lập tức... Thành phố này từ ấy có thêm một nỗi yêu thương: Trịnh; có thêm một nỗi nhớ: Trịnh Công Sơn. Giá không phải là như thế! Khi những thế hệ sau vẫn cứ luôn phải soi bóng mình, vẫn phải đau đớn vì đời im vắng, vẫn thấy dường như nỗi lòng mình đang được hát ca trong nhạc Trịnh, vẫn tìm tới Trịnh Công Sơn không phải như tìm tới một quý báu còn đọng lại thì điều đấy chỉ có nghĩa là cuộc sống không có dời đổi, như lẽ ra phải thế. Trịnh Công Sơn không nói hộ ai điều gì, không gửi gắm giùm ai điều gì. Trịnh làm thức dậy trong mỗi người cái điều bao lâu rồi bị nén bẹp dí, là ý thức về phía sâu khuất cuả mình và cuộc đời, để có thể níu vào chính mình mà sống tiếp, khi miên man thầm thì rên siết một nỗi hoang mang, khi day dứt mãi nỗi phù du tuyệt kỳ của kiếp. '...Ôi cát bụi tuyệt vời...' Ai biết sỏi đá không đau?

 

*.

 

            ... Mãi mãi về sau này, rất nhiều khi Ngân còn bàng hoàng ngỡ trong lồng ngực mình vẫn đập mãi trái tim mười sáu tuổi. 'Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi... Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt...' Lời ca réo gọi, nhắc mãi, rứt mãi về tuổi thiếu nữ hoang vu ấy. Người đàn bà trẻ con hiểu rằng Trịnh ám ảnh còn hơn một tình chung. Và cay đắng. Sẽ không bao giờ, không có ai đạt tới được nỗi cô đơn ấy của người nghệ sĩ ấy. Trịnh bắt mỗi người phải nhìn cho ra đỉnh cô đơn của chính mình. 'Đâu là  của mình?' Lần đầu tiên hiểu ra rằng Trịnh không phải là tri kỷ của ai ngoài Trịnh, và mình, cũng chỉ mình là tri kỷ của mình thôi, Ngân kinh hoàng.

 

            Ngày Trịnh mất, Ngân đang ở rất xa những buổi chiều nắng thủy tinh nơi quê nhà. Đi rồi... Tưởng rằng được quên thương nhớ... Mà không! '...Lòng thật bình yên mà sao buồn thế...' Nghe nói đám tang Trịnh là một đám tang huyền thoại, với cả biển người đưa. Nghe nói, người ta đồng thanh nhạc Trịnh trước nấm mồ chưa lấp. Nghe nói, có cả đoàn tăng ni đã đến nghiêng mình trước linh cữu Trịnh và xin hát gửi theo linh hồn gió nhẹ ấy 'Một cõi đi về'. Bài hát từ đó được người Sài Gòn coi là 'Chùa ca'. 'Mình sẽ hát thầm bài gì vào lúc ấy?' Chọn lựa này khó biết chừng nào. 'Tại sao mình không thể xúc động như bao người?' Ngân tự hỏi, tự hỏi. 'Liệu mình có đi viếng Trịnh nếu như có thể?' Nhưng ngay lúc tự hỏi mình như thế, Ngân đã biết rằng mình sẽ lại xử sự một cách không bình thường trong mắt bạn bè, quá ư là bình thản, y như năm nào những Nguyễn Tuân những Lưu Quang Vũ những Văn Cao mất. Họ đã sống một cuộc đời không thường, với những đau đớn và vui sướng không thường, với những hi vọng và tuyệt vọng cao vút sâu hút. '...Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi... Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt... Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy... Một bờ cỏ non một bờ mộng mị...' Giờ họ không còn phải than van vì đôi vầng nhật nguyệt trên vai cùng những day dứt của cõi sống hư hao này. Giờ họ được bước thẳng vào cõi chết. Nơi đó chắc có màu bình an sương mù. Sao không để cho họ nhẹ nhàng đi vào cõi ấy. Những lập lòe rực rỡ, những thống thiết trong lễ tưởng niệm bây giờ và và vui vẻ (chắc chắn) trong những lễ kỷ niệm năm năm mười năm hai mươi năm họ mất có phải dành cho người đã khuất? Chắc chi!

 

            Mà đã chắc gì người đã khuất lại mong ước điều đó cho mình khi còn sống. Chứng kiến những phút cuối cùng của những người thân yêu nhất, là bà, là mẹ, là anh, trong và ngay sau thời gian khổ ấy, Ngân tin ai cũng chỉ mong được sống bình an và tiếp tục được bình an trong cõi chết. Nhưng thế nào là bình an với mỗi người? Có lẽ chỉ ai một lần thực sự cảm được cái lạnh lẽo và hờ hững của cái chết, thực sự sắp ra đi mới có thể nói cho người còn sống biết. Nhưng họ có còn muốn nói nữa chăng? Khi mà, chính ở phút giây đó, người sẽ chết và người còn phải sống đột nhiên hiểu ra rằng họ xa cách nhau biết chừng nào, mỗi người đều ở trong cõi lạ với nhau, và những ao ước, những thiết tha, những dồn nén suốt cuộc đời rút cục thành vô nghĩa. Chỉ còn có một cách để giữ nhau trong cõi nhớ: Thương lấy nhau, biết ơn nhau, khoan thứ cho nhau.

            Ngân đã nghĩ thế khi nhớ tới cái ngày mình mấp mé bên bờ sống chết. Đánh thức hồi ức ấy là nỗi xót một con người.

 

 

 
 

         Nửa đêm chợt thức

            Những ánh đèn

         Những ánh đèn Standby

         Standby -

                         Standby-

                                             Standby

         Nhả ánh sáng của bầy đom đóm chết.

 

         ...

         Ngủ đi đôi mắt thức

         Tiếc nhớ gì?

                  trong đêm

 

 

         15.

 

            Khi cháy hết đời mình, nến sẽ lịm dần, và từ đó, một tia khói vươn lên. Thoảng một mùi hương, rất nhẹ, rất lành hiền. Tựa hồ quên lãng.

            Có những cuộc đời như thế.

            Có một cuộc đời như thế.

 

*.

 

            Ngân biết tên ông từ lâu, như một người tham dự, như một người làm chứng, làm chứng cho một thời kì, làm chứng cho một lớp người con Việt, ở một xứ sở đã để lại cho chúng ta hôm nay dấu ấn không thể tàn phai, về máu, về nước mắt, về một cách gào thét, thở than. Bản thân ông và đồng chí của ông, trong một nghĩa nào đó, cũng chính là lịch sử.

 

            Ngân quen ông chưa lâu. Số phận đã chọn ông thành người phù trợ cho Ngân, trong một khoảng đời cay đắng. Điều ông và Ngân mong muốn rút cục không thành. Nhưng Ngân không quên tấm lòng ông, ngây thơ, bao dung và nhẫn nại vô cùng tận trước đời sống này.

            Ngân gặp ông chỉ một lần. Thời gian chỉ đủ cho Ngân nói đôi lời hỏi thăm sức khoẻ của ông và kể về chuyến đi thăm chồng cập rập của mình. Nhưng đủ để Ngân giữ mãi trong lòng nỗi bùi ngùi trong buổi sáng Paris ấy.

            Sự sống dường như chỉ còn là một mạch nước sắp kiệt ở ông. Làn da nhăn nheo, trắng bợt, giọng nói yếu, nụ cười mong manh, đôi bàn tay đầy gân vịn trên thành ghế. Đấy là ông. Ông ngồi đối mặt với bức sơn dầu ngồn ngộn hai khối tròn nóng ấm và tươi sáng mà chính ông đã vẽ. Bức tranh thu toàn bộ sự sống trong nhà. Còn lại: chỉ là ông và bụi nắng.

            Căn hộ của ông ở Paris giống như một cái bến mà đồng hương từ Việt Nam qua hay tấp thuyền vào. Đã bao nhiêu người ngày ngày ngày vào ra nơi đó. Đã bao nhiêu người ngày ngày ngày đi qua ông để tới với cuộc đời hăm hở ngoài kia. Có phút nào, có ai nghĩ đến ông lão đang leo lét sống và đợi. Có ai, một lần ngồi lại, nói với ông về Tổ Quốc ông yêu? Có ai, một lần hỏi ông về cuộc đời ông? Có ai biết vì sao ông lại quyến luyến con người đến thế?

            Đâu phải vì cô đơn.

 

            Đã hơn một lần Ngân tưởng ra rằng ông và đồng chí của ông là người chiến thắng trong cuộc đấu tranh thuở ấy. Nếu thế thì những bài lịch sử mà bọn Ngân đã học phải ra sao? Những bài ca cho tuổi măng non ngày ấy sẽ ra sao? Và cách xưng hô của một thời đã ra sao, nếu không phải là 'chúng ta, đồng chí'? Và liệu có không nỗi ngày Bắc đêm Nam? Liệu có không máu thịt Việt Nam rải khắp những cánh rừng già bên mưa bên nắng?

            Tất cả chỉ là giả định. Có cái gì thật vô vọng trong cuộc chiến đấu mà ông đeo đuổi cho tới lúc tàn hơi. Ngân không nghĩ mình sẽ bị thuyết phục bởi lý tưởng của ông. Lớn lên nơi ấy vào thời buổi ấy, nơi những gam màu nóng sáng chỉ hội trong bóng cờ và khẩu hiệu tưng bừng, Ngân đã tự miễn dịch được rồi trước những lời kêu gọi, sau những tin yêu rồi choáng váng hoài nghi. Nhưng gặp ông, thỉnh thoảng nghe tiếng ông qua điện thoại, Ngân lại ngạc nhiên thấy mình xúc động. Có cái gì vừa bất khuất vừa bi thảm trong toàn bộ cách thế sống của những con người ấy.

 

            Ngân biết mình cũng không mê văn chương của ông. Ngôn ngữ ông dùng trong văn chương giống như là di tích vậy. Nhưng chính điều đó làm Ngân cảm động. Ông đã giữ cho mình bao nhiêu năm ròng tiếng Việt ấy của làng quê nghèo ấy ở thời buổi ấy. Bao nhiêu năm rồi? Ông kể cho Ngân về sáu mươi năm thương nhớ quê nhà. Về nỗi đau không bao giờ gặp lại người ruột thịt. Và ông khóc. Tiếng khóc vọng từ đầu kia đường dây điện thoại, xuyên qua không gian đầy cảm biến tới Ngân chỉ còn là khúc điệu nghẹn ngào của những khoảng ngừng chết chóc. Hình ảnh người trai nhà quê Việt Nam mấy mươi năm về trước lủi thủi lê chổi đi về giữa những tinh sương Paris trắng rợn lòng bỏng rẫy một nỗi quê nhà có khác gì đâu hình ảnh mà bọn Ngân suốt một tuổi học trò đã tưởng là duy nhất.

         Khác chăng: ông phải mượn quê người để kí thác cả cuộc đời đã sống cho quê hương.

 

*.

 

            Nhiều năm ròng sống cho một quê nhà chưa bao giờ được một lần nhìn lại là bi kịch của bao nhiêu con dân Việt đã tự vãi mình ra trên thế giới này? Ngân kinh ngạc vì tưởng tượng của ông về quê hương: một gốc đa đầu làng, (đã hẳn), những người đàn bà xắn váy quai cồng gồng gồng gánh gánh; những hàm răng đen hồn hậu; bầy trẻ nghèo mới tí tuổi đầu đã phải xốc vác nuôi thân, và những con đường làng lầy lội, những mái tranh đã ải, nắng trên sông xa, sương khói buồn buồn. Hình dung của ông vừa cũ kỹ vừa sát thực. Chẳng phải những cảnh đời đau khổ thuở ấy vẫn còn nguyên đó hay sao? Có khác gì đâu một đôi mắt đói, dẫu ở đâu và trong thời nào. Ông không biết những hồi ức của ông làm Ngân đau khổ. Không phải vì cảm thương cho ông. Ông đâu cần điều đó và Ngân đâu dám. Nhưng nỗi đau khổ là có thật. Khủng khiếp xiết bao khi đột nhiên nhận ra rằng tám mươi năm đời ông không phải là sự kết nối những ngày sống và những cùng cực mà người ta vẫn tưởng chép miệng một cái là xong, vì rút cục thì đã đi qua, dù sao cũng phải đi qua. Gần một thế kỉ ấy là trùng trùng đau khổ của mấy thế hệ Việt Nam, trong đó có thế hệ Ngân. Một lần nhìn lại đủ để Ngân kinh sợ, khi tưởng ra rằng đó có thể vẫn là số kiếp của thế hệ con mình.

 

            'Tại sao anh không về?'

            'Đâu có được về hả em. Người ta...!'

            Ông trả lời sau một hồi lâu im lặng.

            Tại sao?

            Tại sao?

            Ngân muốn gào lên chỉ một câu hỏi ấy. Ngân không thể gào lên câu hỏi ấy. Tại sao? Tổ Quốc đã chẳng độc lập hơn nửa thế kỷ rồi đó sao? Tổ quốc đã chẳng thống nhất một phần tư thế kỷ rồi đó sao? Không Tổ Quốc nào cấm cửa con mình. Một người con như ông, Tổ quốc nào không thương quý.

            Tại sao?

            Tại sao?

            'Mấy năm trước họ bảo anh là có thể về. Nhưng già yếu quá rồi, đường xa...' Tiếng ông khẽ khàng qua đường dây điện thoại.

            'Người ta...Họ...'

            Giọng ông bình thản quá. Còn có bao người như ông?

 

  *.

           

 

          - Ông nội của Ngân nằm lại ở môt góc rừng Việt Bắc. Khi toàn quốc kháng chiến, ông dặn bà đưa bốn con dại về quê nương tựa họ hàng. Bố, đang thảnh thơi đi học, phải sáng sáng cắp sách vở cùng thúng xôi lang thang các phố, thay cha giúp mẹ nuôi em. Còn ông, quần nâu túm ống, hì hục khuân vác máy móc đưa lên Việt Bắc. Bố kể buổi gió và nắng lạnh, bố cắp thúng xôi còn lưng lưng qua đó ngóng, gặp ông trong đoàn quân đang tập hợp chuẩn bị ra đi. Niềm tự hào làm cổ cậu bé học trò mười hai tuổi nghẹn lại không gọi người cha thành tiếng được. Ông nhìn thấy bố, rời hàng quân chạy qua phố, đỡ thúng xôi đặt xuống vỉa hè, vét đưa anh em mỗi người một gói, rồi lần túi đưa nốt cho con mấy đồng bạc lẻ, nắn hai bả vai gầy của đứa con còn chưa vỡ giọng, dặn nói với mẹ đưa em về quê ngay. Rồi ông đi. Không bao giờ về lại. Chưa bao giờ Ngân thấu hết những âm vang trong tiếng gọi đã giục ông đi ngày ấy, dẫu vợ yếu và con dại còn vướng lại giữa thành phố sắp bỏ ngỏ. Người vệ quốc trong đoàn quân chân đất quần nâu đó khi còn làm lính thợ đã một lần tưởng phải xuống tàu, qua Pháp. Nếu ông đi? Thì biết đâu ông chẳng đã sống một cuộc đời tranh đấu âm thầm và quyết liệt như người lính thợ năm xưa, người cộng sản không hợp thời vừa gửi vào gió Paris hơi thở chót. Rất nhiều năm sau này, rời nơi sơ tán trở lại trường xưa, bao nhiêu chiều Ngân đã cắp sách đi lại con đường xưa của bố và ông, bao nhiêu chiều Ngân đã dừng lại ở cổng nhà máy ấy, cúi nhìn những tấm đá xanh vạm vỡ bóng lên như nước ở quãng phố ấy, cố gắng tưởng tượng người ông chưa bao giờ biết mặt phong phanh trong bộ áo quần nâu, cố gắng tưởng tượng Hà Nội mùa đông xưa rạo rực bước chân âm thầm quyết liệt của những người dân một niềm quyết tử. Cho Tổ Quốc quyết sinh. Ông mất, không bao giờ tìm thấy mộ. Ngày cải cách ruộng đất, cả nhà dân Hà Nội tản cư không ruộng không vườn nhưng vẫn lao đao vì lời vu dữ, rằng ông đi lính cho Pháp, rằng ông là việt gian bị ám sát ở thành. Bà, gồng tấm thân gầy yếu cho đàn con đang vừa phẫn uất vừa hoang mang hãi hùng nương vào, nhất quyết đòi lại cho chồng một lời chứng đã chết vì Tổ Quốc. Lời chứng ấy, bao nhiêu năm sau mới tới với cả nhà, qua tấm bằng Tổ Quốc ghi công, mà trong đó tên ông bị viết sai. Bà, rằm tháng bảy, thở một hơi dài: 'Không sao cả. Nếu chỉ cầu sống, ông đã không đi kháng chiến. Vậy có sống lại, chắc ông cũng chả đòi gì. Chỉ tội cho ông, chết chả biết ngày nào mà làm giỗ giờ phải về cùng ma đói'. Rồi bà khóc. Rằm tháng bảy năm nào cũng khóc. Suốt nửa thế kỷ. Từ thuở ngoài ba mươi. Cho tới ngày xuôi tay.

 

            Ngân tin lời bà. Nhưng Ngân đã bao lần tự hỏi ông đã nghĩ gì khi ông bị thương nặng rồi nằm lại vĩnh viễn ở góc rừng ấy, ở tuổi bốn mươi, như chồng Ngân bây giờ. Ông có nhớ một thành phố mà ở đó ông đã lớn lên, đã lấy vợ sinh con, đã sống một kiếp âm thầm nhưng bình an cùng với nó và đã đột nhiên hiểu ra rằng nó có thể thuộc về mình? Ông có nhớ chăng buổi lên đường theo tiếng gọi của sông núi? Ông có nghĩ tới một làng quê đang bao bọc và rẫy bỏ vợ con mình? Ông có nghĩ tới một cuộc sống khác ông mong mỏi cho con mình? Và ông có biết...

 

            ...Và ông lão vừa khuất bóng ở Paris? Với ông, cái gì là hình ảnh cuối về cuộc đời đã qua hiện lại trong trí phút tàn hơi? Những năm dài sống âm thầm ở Paris sau những buổi dấn thân? Hay những ngày trẻ trai tranh đấu? Gương mặt đồng chí một đời? Vợ và con? Con đường xưa về làng xưa và mờ nhân ảnh bao người ruột thịt đã chết đói nửa thế kỉ trước mà ông đã từng khóc với Ngân là ông rất khó hình dung lại?

 

            Ngân đã nhắc mình đừng nhớ nữa, đừng nhớ nỗi bùi ngùi ấy nữa. Nhưng không thể. Không thể nào xóa nổi hình ảnh ông lão đồng hương ngồi trong bóng sáng Paris, giữa căn hộ ở tít cao một ngôi nhà lớn. Không thể xóa nổi hình dung dấu bàn tay đứa con hai tuổi của Ngân để lại trên lớp bụi quanh ông lúc lẫm chẫm bước trong phòng. Ông đã ngồi như thế bao lâu rồi, đã cô độc cùng trí nhớ của mình, dẫu có bao người lao xao vào ra nơi đó. Mỗi bình minh. Mỗi ban trưa. Mỗi hoàng hôn. Mỗi đêm dài khó ngủ. Ngôi nhà chon von như một ngọn núi mà ông không thể nào tự lần xuống được nữa để đến với ngoài kia hừng hực vô tư lự Paris. Đêm. Núi. Mưa. Nỗi sầu cố quốc. Bao nhiêu lần ông đã sống cảm giác ấy trong cuộc đời dằng dặc biến cố của mình?

 

            'Vẫn biết chết rồi là hết chuyện - Chín châu chỉ tiếc chửa sum vầy - Ngày nào thu lại miền trung thổ - Cúng bố đừng quên khấn bố hay...'(*)

            ...Có một nỗi sầu như thế rầm rì vọng lại từ xưa, xưa lắm, xa, xa lắm. Vì Tổ Quốc không còn. Hiểu được! Ông, thế kỉ này, cũng một niềm xứ sở. Biết khấn ông như thế nào, nếu có thể thắp cho ông một nén hương? Ngân chạnh lòng. Tàn tro một nắm...

Vẫn biết chết rồi là hết chuyện! Mà sao...

 

Cũng đừng mãi băn khoăn về sứ mệnh đời này

         Trong nắng chiều lãng đãng:

                                         Sông thu trôi

              

         *

 

            Hãy ủ những chiếc lá vàng

            Dấu im trong miền kí ức

            Nếu có một mùa xa vắng

            Nhớ cho: độ ấy, ta yêu

 

            *

 

          Có những ngày chưa bao giờ xa

            Mùa nở thầm theo hoa

 

                  

 

         16.

         

         Vẫn biết chết rồi là hết chuyện. Mà sao...

 

         Mà sao thế nọ, mà sao thế kia. Chao ôi, sao mà Ngân cứ luôn khốn khổ vì những câu hỏi vòng quanh cuộc đời như thế. Sao Ngân lại cứ luôn khổ sở vì băn khoăn thương nhớ những cuộc đời có quen và không quen.

 

            Như buổi chiều nào hồi theo chồng đi công tác xa, đang hối hả nhặt nhạnh đồ trong siêu thị vứt vào xe đẩy cho kịp giờ đóng cửa, chợt bâng khuâng dừng bước bên cái ngăn đầy có ngọn toàn những vải là vải. Những quả vải tròn nhỏ nhỏ, giống hệt vải thiều. Ngân biết, chẳng làm gì ra có vải thiều ở chốn này. Chẳng có vị ngọt chua đầy dụ dỗ ấy đâu, chẳng có hạt điếc đâu. Toàn những hạt to muốn lộn nhào ra khỏi vỏ và vị thì đôi lúc gắt lên như sắp sửa thành men. Nhưng mà những quả vải nhập từ xứ xa nào chẳng biết bán đầy ở đây lại làm lòng Ngân cồn cào cơn đói nhớ. Nhớ người đàn bà trẻ trẻ như Ngân nhưng mặt mũi thì hốc hác và môi nở nụ cười vừa mời mọc vừa ngơ ngác ngồi nép bên đống vải đổ sát chân tường cơ quan nọ buổi trưa nào, giữa những người  đàn bà vừa dựng xe máy sà xuống mồm năm miệng mười nếm và mặc cả. Những người đàn bà ấy, và những người đàn ông trong bộ quân phục cũ đứng bên những cái xe thồ đầy ắp su hào bắp cải mỗi chiều đông Hà Nội bao giờ cũng làm cho lòng dạ Ngân nao nao buồn, khiến Ngân không thể nào thật tình mặc cả. Đằng sau những bộ áo quần tàu tàu ấy, đằng sau những gương mặt toàn những nét vạc xuống làm cho nụ cười vừa chân tình hơn vừa tội nghiệp hơn kia có những gì? Những năm tháng như thế nào đã in dấu lên  gương mặt họ? Ngân biết, chưa chắc họ đã vất vả hơn mình, và cái chính là chưa chắc họ đã thấy rằng họ khổ như mình cứ mải thương vơ cho ra vẻ người chung cảnh. Mà nói chưa chắc làm gì, chính là thế đấy, mình với họ xa lạ biết bao.

 

*.

 

            Thế nhưng Ngân vẫn tiếp tục đi chợ mua rau không mặc cả dù có lúc đồng tiền phân bạc kiếm ra bồng bềnh trên tay được dăm ba hôm đã biến đi đâu tiệt cả, vẫn cứ có cảm giác như giữa mình với họ từ đời thuở nào đã ruột rà một kiếp rạ rơm, vẫn đau đớn những nỗi niềm không thể khóc. Đến bây giờ Ngân vẫn không thể nào nhớ thực ra bài báo về những người lính ấy có đăng tấm ảnh nào không, nhưng mà Ngân cứ có cảm giác mình đã nhìn thấy họ ngồi cóm róm và ngơ ngác giữa sân dinh Độc lập, hai mươi mấy năm sau ngày chiến thắng, vào lúc người hướng dẫn du lịch đang cao giọng cho đám đông nghe về chiến công của chính họ trong ngày chiến thắng cuối cùng. Không ai quan tâm tới mấy người lính cũ mới được vời ra từ lịch sử có thật đã cố tình bị lãng quên, không ai biết mấy ông nhà quê mới được rước từ đáy cái làng nghèo nào ở miền Bắc vào kia là ai và họ đang bồi hồi, đang luống cuống, đang ao ước những gì giữa thành phố Sài Gòn ngày kỉ niệm một phần tư thế kỉ chiến thắng. Chính cái xe tăng họ ngồi trên đã húc sập cả cổng dinh Độc lập, gần như cái cảnh mà mấy chục năm qua người ta đã thấy, năm nào cũng thấy, trên ảnh, trên phim, vào tháng tư tháng năm này. Thế chăng? Lịch sử? Lịch sử không diễn ra mà là được làm ra, có thể nhuộm đi nhuộm lại và cũng có thể tẩy xóa. Chẳng khó gì vào thời buổi mỗi ngày sống của con người là một trang sử mà tựu trung vẫn thiếu vắng người chép sử này. Thế cho nên Ngân không thích tin vào những dòng sử viết. Ngân không quên được nỗi hoang mang tuổi lên mười khi tìm ngược tìm xuôi trong sách giáo khoa lịch sử của mình vẫn không thấy một dòng về những quốc gia đã tiêu vong để làm nên Tổ Quốc bây giờ, những điều mà Ngân đã đọc được từ hồi bé tí năm sáu tuổi, trong một cuốn sách Bình dân học vụ của ông Lẫm bố chị Thục, được ông xếp rất cẩn thận trên bàn thờ ngày nào. Đâu Chiêm Thành? Đâu Phù Nam Chân Lạp? Tâm hồn trẻ thơ cứ như một cánh cửa sẵn lòng để gió xô, cứ buộc Ngân day dứt mãi: Đâu là sự thật? Sự thật có thể có nhiều gương mặt được không?

 

            *.

 

Khoảng thời gian xa đi ấy thật cần thiết và cũng thật nặng nề. Ngân nhớ những người bạn cũ và kinh ngạc khi bạn bè hiện lên trong một tầm vóc mới, dưới một luồng sáng mới. Cũng vẫn là cảm giác ấy, khi Ngân để rung lên trong trí một dòng thơ, một âm giai tha thiết tuổi nào. 'Hỡi Paco ơi dòng sông mênh mông đôi bờ xanh biêng biếc nước chảy xiết sâu thẳm... Qua tháng ngày hỡi sông ơi có biết anh lái đò tên gọi A Sanh... A Sanh ơi ngày đêm anh lái đò trên sông... Đò anh đưa bao người đi đánh Mỹ bao năm ròng chiến công anh thầm lặng...' Phải, ví như câu hát này, ví như câu chuyện về người anh hùng này. Hay là cả câu hát rộn rã suốt tuổi nhỏ của Ngân này nữa: '...Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa...Sóc Bom bo rộn rã tiếng chày khua bồng con ra võng để đò đưa giã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa ... Cách mạng cần...'  Những bà mẹ không tên bồng con ra võng ngày năm ấy Ngân đã nhìn thấy, trên ti vi, mặt mũi nhăn nheo, miệng móm, váy áo xốc xếch quay lưng lại ống kính đi vào túp lều nát. Và người anh hùng A Sanh, tên vang vang trong bao nhiêu chương trình ca nhạc phát đi khắp nước đấy mà cũng thành vô danh suốt một phần tư thế kỉ chiến thắng, đã chẳng được nhớ ra, đã quên gần hết tuổi trẻ của mình, quên cả tiếng phổ thông, chỉ vì nghèo đói quá, cơ cực quá, ngồi cóm róm ngơ ngác trong bức ảnh đăng trên báo. Những hình bóng thiểu não ấy bao giờ cũng làm hiện lại trong trí Ngân những hình bóng khác mà Ngân đã gặp trong tuổi bé bỏng của mình, một chiều bố mẹ gấp rút đưa đi sơ tán. Họ hành quân dọc theo đường quốc lộ, dáng lao về phía trước, chân đạp trên rơm rạ ngày mùa, trẻ, khoẻ, ba lô và quân phục mới toanh. Một chú bộ đội nhấc mũ khỏi đầu vẫy vẫy Ngân lúc con bé quay đầu nhìn lại. Y  hệt một bức ảnh in đi in lại trên Văn nghệ quân đội mà Ngân rất thích nhìn thời ấy. Nhiều năm sau, mỗi lần gặp lại bức ảnh đó, người đàn bà trẻ con lại thấy tim mình chững nhịp. Những người lính ấy còn sống hay đã chết từ hồi ấy? Họ ở đâu bây giờ? Ý nghĩ thực nào đã ngổn ngang lòng họ dọc đường ra trận?

 

            Chắc hẳn nhiều lắm niềm vui mà ngọn gió thời đại đã thổi lộng hồn người ngày ấy, lộng suốt thiếu thời Ngân. Nhưng chắc hẳn còn có những niềm tâm cảm khác. Ngân nhớ chú Trong hàng xóm nhà ở sát bên vườn nhà chị Thục ở cái làng nhỏ Ngân đã theo bà về sơ tán lần thứ hai, năm bảy mốt bảy hai. Chú lành như bóng sung dập dờn bên bến nước, nơi bọn Ngân thích lặn xuống mò trai. Những con trai nứa nhỏ mình mà lắm thịt, những con trai vông xốp xáp thịt ít nước nhiều dai ngoách tụ dưới bóng sung sao mà nhiều thế, ngày nào đi tắm lặn xuống quờ chân cũng nhặt được dăm con, mấy chị em dồn lại là đủ cho bà làm bữa canh chiều. Chú Trong học giỏi nhất làng, nhưng thi ngược thi xuôi chả được vào đại học. Làm sao mà vào được khi chú có một ông bố địa chủ từng sở hữu những năm mẫu đất và cả một cái nhà gỗ năm gian, lại còn dám tự tử khi bị đấu tố. Cái thời đó Ngân chỉ có thể mường tượng qua những câu chuyện của các bà hàng xóm vẫn sang chia cho bà ít lá trầu không, dúm thuốc lào và nhân thể xin mấy mảnh hạt cau khô hay miếng vỏ quạch khi chưa tới phiên chợ. Bà bảo bà chỉ bắt đầu tập ăn trầu vào chính cái đận ấy, khi bố chú Trong tự tử và làng nước bùng lên câu chuyện ông nội làm việt gian bị ta trừng trị. Khẩu trầu đủ cau đủ thuốc đủ giầu không làm bà say chẳng khác đàn ông say rượu, giúp bà nguôi đi chốc lát những nông nỗi bấn loạn trong lòng. Cái mùi trầu nhai đã giập thơm rất ấm lẫn mùi khai khai bốc ra từ các bà hàng xóm có thói quen vén ống quần xả tồ tồ vào nồi nước giải để đầu ngõ hay cạnh chuồng lợn ám ảnh suốt tuổi bé của Ngân, làm cho những câu chuyện xưa đọng bám chặt hơn trong kí ức, dù Ngân chưa từng trải chúng bao giờ.

 

            Chú Trong không được đi đại học là lẽ dĩ nhiên rồi, vì ông bố địa chủ đã đành, mà còn vì Mỹ lại đánh mạnh ra miền Bắc. Nhũng trận bom rơi ở đẩu đâu cũng đủ làm chao đảo cả làng. Ông Thồng nhà cuối ngõ vừa về được mấy năm, đầu lúc nào cũng cạo trọc như cái hồi còn đi cải tạo suốt ngày cúi cúi lệch lệch vì cái bắp cày, cái bừa hay quang gánh lúc thúc theo sau đít trâu lại bị gọi ra ủy ban và lại phải cắp quần cắp áo ra đi. Lúc ông đi, cái đầu trọc tóc đã bạc cả mà chưa kịp húi lại vẫn cúi cúi lệch lệch như thế. Cả ngõ theo ra, chỉ mỗi bà và hai mẹ con chú Trong nhìn thoáng qua vợ con ông rồi quay lưng lầm lũi vào nhà. Sau hôm đó, chú Trong trích ngón tay lấy máu viết đơn xin nhập ngũ. Mẹ chú sang ngồi nhai trầu với bà, mặt lặng như sông mùa nước cạn, mãi mới khẽ khàng: 'Nó bảo em rằng thì là mẹ ở nhà có gì nhờ cậy xóm giềng, rằng thì là con đi một xanh cỏ hai đỏ ngực, con sống hay chết thì mẹ với con Xanh ở nhà rằng thì là đằng nào cũng yên hơn. Bác bảo rằng thì là có mẹ nào em nào yên mà sống nổi khi con chết anh chết.' Chú Trong đi một mạch, lên đến trung úy rồi mới chết ngay sau ngày kí hiệp định Paris. Mà lại chết vì bị sét đánh trên đường lần đầu về thăm mẹ từ lúc đi B, cũng chả được tính là liệt sĩ. Chú sống thì hiền mà chết thì trông dữ quá. Cả người đen sạm như gỗ đem xông khói, riêng cái đầu thì trụi thùi lụi nứt mấy đường như quả dưa hồng. Chú chết, cô Xanh nhất quyết không chịu bỏ mẹ đi lấy chồng, mãi đến lúc tuổi heo héo rồi mới lấy chú thương binh miền Nam ở trại gần làng, chỉ vì có thế mới được ở cùng mẹ. Cô đâu biết rồi sẽ có ngày chiến thắng và cô sẽ chẳng còn lí do gì để trụ lại với mẹ già, sẽ phải bồng bế con cái tay mang tay xách mấy thứ đồ nghèo theo về quê chồng tít tận Tây Ninh. Cô đâu biết rồi sẽ có ngày chẳng thể nào cất giọng bắt vào một điệu làn thảm hay bình bán ở vùng đất xa xôi ấy. Cô đâu biết mối tình Nam Bắc của mình sẽ còn được nhắc nhỏm mãi trong làng, sẽ là thương nhớ tuyệt vọng của mẹ trong tuổi già lủi thủi. Cô đâu biết rồi tuổi già của cô cũng sẽ buồn thảm thế, và cô đơn hơn rất nhiều.

 

*.

 

            Tính năm tính tháng thì thực ra Ngân đâu có sống bao lâu cùng những con người có tuổi có tên mà vẫn hoàn toàn vô danh ấy. Nhưng sao Ngân vẫn cảm giác như nửa con người mình thuộc về nơi đó, thuộc về những con người đó. Và nửa mình kia là của cái ngõ nhỏ rối rắm đủ thứ chuyện đời dường như không đáng gì. Chuyện hai cô gái già có chung một tuổi trẻ thanh niên xung phong, sau ngày chiến thắng lại có chung lòng can đảm để cùng không chồng mà chửa được nhà máy chia một phòng, cáu giận nhau cứ vài ba hôm lại kê kích tủ giường để án ngữ cái bụng nhau mỗi lúc khệ nệ cái rổ cái chậu ra ra vào vào nấu nướng. Chuyện hai người đàn bà đi cùng một cái cầu thang bao năm ngọt nhạt thân tình đột nhiên xích mích. Mà cũng lại sau ngày chiến thắng. Không! Lúc đó lại chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước rồi. Người đàn bà trẻ sau mấy lần đi công tác Sài Gòn đã đổi đời, chí ít cũng là đổi trang phục. Áo quần đồng màu lòng tôm mỏng tang, đi một bước là gợi hình dung một bước về tấm thân còn mỡ màng lắm sau bao năm tháng bồ bịch liên miên chờ chồng. Mà bồ ra bồ chứ. Toàn những vị đã thành danh ở cái nơi mà người đàn bà làm việc và được coi là rất được việc. Bà ta sinh con với một trong những người đàn ông ấy, công khai gọi người chồng chính thức mới trở về trong bộ quân phục tàu tàu là ông và sau khi ông ta trở lại với vùng rừng đã gắn bó bao ngày gian khổ thì bà vợ công khai gọi ông bồ là bố cu Tũn nhà em. Cả khu tập thể đã choáng váng khi bà ta lao cả tấm thân màu mỡ vào bà hàng xóm trước nay vẫn chị chị em em, hét vang vang: 'tao đĩ tao đẻ ra thiên tài, còn mày chính chuyên mày sẽ làm mẹ thằng mất xác'. Tưởng như họ sẽ không bao giờ quên nổi cái đêm ngồi chầu mặt nhau sau trận giáp lá cà, chung sức diệt muỗi ở trụ sở công an phường dưới gốc cây đa già. Thế mà buổi chiều kia, dắt cái xe đi ngang qua nhà hàng xóm, thấy bao nhiêu guốc dép để ngoài, khói hương nghi ngút bay suốt hành lang cùng những tiếng nghẹn ngào, người đàn bà trẻ rùng mình. Một năm sau, vào ngày ấy, bà ta sẽ lễ mễ bê một nải chuối to và thẻ hương áp vào người, rụt rè gõ nhè nhẹ vào cánh cửa mở của nhà hàng xóm, nghẹn giọng: 'Chị cho em được thắp cho cháu một nén hương'. Hai người đàn bà sẽ đứng nhìn nhau, người đàn bà mẹ liệt sĩ kia sẽ lặng lẽ đẩy cánh cửa rộng hơn cho hàng xóm bước vào, và vẫn lặng lẽ như thế đặt đồ lễ của người đàn bà trẻ lên bàn thờ... Ngân biết mình tại sao mê sử mà không chọn học sử. Lịch sử nào chép những nỗi niềm kia?

 

 

 

         Có nhu cầu đứng giữa hào quang

         Và nhu cầu ngồi trong bóng tối

 

         *

 

         Nghĩ những bước chân chệnh choạng của mình

         Cũng làm con đường mòn thêm chút nữa

         Mà thương cho con đường

   

         *

 

         Ông bà di cư

         Bố mẹ di tản

         Con cháu di dân

 

         Bộ lạc người Kinh.

          

      

            17.   

 

            Tính khách quan của các sự kiện cố nhiên phải là thuộc tính của mọi sử liệu. Nhưng, sẽ phải coi thuộc tính giả định ấy là phẩm chất. Liệu có sử gia nào không tự tín? Liệu có sử gia nào thật sự khách quan khi truy tìm sự kiện, và đằng sau chúng là bản chất rất người của thời gian. Mà ngay cả khi thật sự đạt tới yêu cầu khách quan, tác phẩm sử học dường như vẫn hàm chứa một sự tàn nhẫn không thể loại bỏ. Bởi vì người ta luôn chỉ thấy trong đó bóng dáng các cá nhân anh hùng thành hay bại, hoặc kẻ phản bội bại hay thành. Còn đám đông luôn lao đi trước, dựng hồn sông núi dậy bằng cái chết, bằng mất mát của riêng mình, bất quá lắm cũng chỉ được tôn là 'quân ta', 'bên ta', chỉ còn được quy thành những con số tổn thất. Với Ngân, điều ấy bất nhẫn. Mỗi một người là một thế giới, một miền tâm cảm, không ai có thể thay thế cho ai. Hai tiếng 'nhân dân' nếu không làm cho con người xúc động bởi ý thức đời đời về những số phận ẩn tàng trong đó thì hoàn toàn vô nghĩa. 'Dân là nước'. Phải! 'Dân là bể'. Phải quá! Nhưng trước hết, nhân dân là từng người từng người một, sống âm thầm lầm lũi quanh nhau, nếu có xôn xao lên được chăng thì cũng chỉ như là cái xôn xao bụi nắng.

 

*.

 

         Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày bước chân đi lấy chồng và thôi không bận bịu vì nghề nghiệp cũ, người đàn bà vẫn không quên đứa học trò thông minh vô cùng, chịu khó vô cùng, mà nghèo quá. Bố nó đã đến nhà Ngân một ngày ba mươi tết, lúc trời vừa tang tảng. Người đàn ông gầy, sắm vắn trong bộ quân phục cũ, hai ống quần vo lên ngang đầu gối, đầu úp cái mũ cối sờn vành, lúng túng bê vào nhà cô giáo của con mình một rổ rau thơm rau mùi đầy ụ, cởi mở dăm ba câu chuyện xóm làng rồi vội vã xin phép ra chợ. Nhìn theo người khách đang gò lưng đẩy cái xe thồ lèn đầy rau cỏ ra khỏi ngõ, sau nỗi cảm động ban đầu, lòng Ngân bàng hoàng trống trải, thấy mọi lời lên lớp của mình trong những giờ giảng văn về sức mạnh của nhân dân, về ân tình của nhân dân -  những lời mình đã nói với tất cả sự thành tâm - đột nhiên thành rỗng tuếch. Ý nghĩ ấy theo người đàn bà suốt buổi sáng chợ Hoa, suốt bữa cơm chiều ba mươi tết, suốt lúc giao thừa, suốt về sau. Hồi ấy Ngân chưa biết cái ngon của những cọng rau thơm rau mùi xứ sở, món quà của gia đình đứa học trò nghèo đủ để Ngân chia cho mấy nhà hàng xóm, còn những bàng hoàng kia Ngân giữ mãi cho mình. Nó cứ đầy mãi lên cùng năm tháng, không làm người đàn bà từng trải hơn, nhưng đủ để cứ dần dần thiếu tự tin hơn. Những giờ đi dạy thêm, những phong bì tiền dày cả gang tay nhận từng tháng từng giờ, những vé nó vé kia người chồng dăm ba tháng lại đưa cho vợ không làm người đàn bà vui vì đời sống dễ dàng hơn bọn bạn cùng trang lứa đang tám giờ vàng ngọc trong cảnh lo giảm biên về một cục. Bao nhiêu lần Ngân tự hỏi mình có đủ sức dứt ra khỏi guồng sống này không, hay cứ thế, cứ từng ngày lo cười mỏi miệng với khách của chồng, nghe họ bàn toàn những Quota với tín dụng thư, rồi khi khách về nghe tiếp những câu chuyện không ra ngoài đề tài ấy cùng đủ lời triết lí mọn không thể chấp nhận mà cũng không thể nào cãi nổi của chồng. Bao nhiêu lần Ngân kinh hoàng tự hỏi mình, chẳng lẽ cứ thế, cứ để học trò mang đồng tiền mồ hôi nước mắt, có thể là tiền bán cả tấn thóc của nhà, có thể là tiền bán cả sào đất sống của cả nhà, có thể là tiền bù giá vào lương bù da vào xương trong cảnh bố mẹ lúc nào cũng nhớn nhác vì hết việc, cúng vào đủ thứ trung tâm để tiếp tục nghe mình thành tâm nói nhảm. Không phải là duy nhất, nhưng đó thực sự là một lí do để Ngân bỏ nghề.

 

         Nghề bỏ được, nhưng nghiệp, đã tưởng thông minh rứt được từ hồi còn trẻ trung lắm và tự tin vào tuổi trẻ lắm, rút cục lại quàng lấy Ngân, riết lấy Ngân bằng nỗi khổ vì không thể nào quên lãng.

 

  *.

            Bố cũng là người không biết quên lãng. Những lúc cay cực nhất là lúc ông hay bần thần nhắc chuyện những ngày đã qua. Toàn những chuyện chỉ nghe đã thấy đời đáng sống. Nhưng chuyện này thì hình như bố chỉ kể có một lần. Không hiểu vì sao chính câu chuyện chẳng liên quan gì tới mình ấy lại hay trở về trong Ngân, làm lòng Ngân uể oải và buồn bã. Và sau đó bao giờ cũng khiến Ngân bình tĩnh lại.

Ngân chưa bao giờ giáp mặt những người mà bố cũng chưa từng gặp lại kia. Nhưng đôi khi, Ngân lại nghĩ có lẽ nếu gặp bố và họ cũng chẳng thể nào nhận ra nhau. Làm sao có thể nhận ra những người bình thường như thế.

 

 

 

         Đừng tìm ta giữa những nẻo đường ta đang lạc lối

         Giữa quãng đời ta có đợi nữa đâu

         Bao năm rồi ta có đợi nữa đâu.

 

         Cuộc đời không dài

         Sao bao nỗi đau phải chịu đến hai lần?

 

         Đừng tìm ta, đừng đi lạc cùng ta.

 

 

 

*.

 

         Hình như năm ấy là 1947. Bố lúc đó mới mười bốn tuổi, vừa trốn bà bỏ nơi tản cư theo người anh họ ra đi. Cơ quan kháng chiến những ngày đó còn tanh bành lắm. Công việc đơn giản và khó khăn, là lo mua giấy mua mực cho cơ quan in báo. Phải mua số lượng lớn để chuyển lên Việt Bắc. Cả đoàn lặn lội về xuôi nhờ bà con vùng tề. Đá in lito đã có rồi. Mực có rồi. Giấy nữa. Cả người gánh thuê cũng đã tìm được. Buổi chiều còn ngồi phân chia tài sản. Hai người đàn ông một còn búng ra sữa một đã cưng cứng tuổi hì hục lèn đồ vào mấy cái bồ to, vừa làm vừa to nhỏ với nhau bằng cái giọng bèm bẹp hỏi ngã lẫn lộn của người gốc gác vùng đó. Ngày mai lên đường.

 

         Gần sáng thì Tây càn. Cái làng nằm rìa vùng tự do náo loạn. Trong bóng đêm đặc quánh, tiếng trâu bò rống nghe còn khiếp đảm hơn cả tiếng người tru tréo than vãn giục giã. Đồng chí trưởng đoàn lệnh: 'Chạy'. Tản ra mà chạy! Chạy đi đâu? Bố cứ bám theo một thằng cu trạc tuổi và con trâu nó dắt theo. Suốt cả ngày. Đói. Khát. Sợ. Sợ nhất vì cái túi dết công văn vẫn quàng chéo qua vai không dám bỏ. Cái làng đêm còn ngủ đỗ bốc cháy sau lưng. Hai đứa trẻ mặt mũi tái mét đứng giữa đồng không mông quạnh, không đứa nào nhìn nhau. Bố bảo lúc đó không biết vì sao bố nhớ bà nhớ các cô chú trong nhà khôn tả.

 

         Đêm. Sương đã buông dày lắm, đến nỗi không còn thấy những sợi khói mệt lả run rẩy vươn lên từ xóm cháy. Bố run run nhờ thằng bạn mới quen chỉ đường đi về phía bờ sông. Cũng chả có kinh nghiệm gì, cũng chả biết Tây đã rút hết chưa hay đóng ở đâu. Chỉ đinh ninh lời anh trưởng đoàn dặn cố tìm nhau nơi ấy để lại ngược lên Việt Bắc. Đói, mệt, người cứ từng lúc nóng nóng lạnh lạnh như lên cơn sốt, hai đứa nhỏ và con trâu lầm lũi bước trong sương. 

         Thế mà tứ tán vậy rồi cũng đủ mặt anh em. Sáng ra gặp lại, nhìn nhau mới thấy ai cũng rộc rạc đi sau có vài ngày, mới thấy hai cổ chân muốn long ra vì mỏi. Kiểm đồ đoàn, mất hết. Có mỗi bố còn túi công văn thư từ vẫn khư khư đeo chéo qua vai. Bác Tuất lắc đầu: 'May mà mày thoát. Chứ bị lùa thì chắc chúng nó đòm một phát là xong'. Đồng chí trưởng đoàn đờ đẫn: 'Cả hai ông gánh đồ nữa. Nó mà lục ra những đá li tô những giấy những mực thì... Chắc lại phải một lần nữa tìm người nhờ mua lại tất...'

 

         Không thể tin được là hai người nhà quê gánh thuê cho đoàn lúc ngả chiều cũng tìm về được chỗ đó. Không thể tin được là đòn gánh với hai cái bồ to vật vẫn đè trên vai họ. Suốt ngày suốt đêm họ đã chạy giặc với đồ đoàn của người khác mà họ biết rõ là gì, không một lần tính chuyện quẳng quách đâu đó cho nhẹ người. 

 

*.

 

            Có biết bao nhiêu tượng đài hay phù điêu đã được dựng lên từ buổi ấy. Chưa khi nào người đàn bà cảm được chất hoành tráng trong đó.  Hồi nhóm tượng 'Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh' được dựng gần đền Bà Kiệu, người đàn bà đã một mình tới đó, ngắm nghía một mình, cứ tiêng tiếc một điều gì thiếu thiếu. Sau này, khi có dịp ra đi, một lần đứng trong vườn Treptow (*) ở Berlin, giữa mênh mông cỏ xanh và im, nơi chỉ có những bầy chim tìm đến, đối diện với những bức tượng nao nao nỗi niềm của đá của người, người đàn bà bất chợt thấy lòng cồn lên những thương nhớ lạ lùng. Thương người ông chưa một lần biết mặt đã nằm xuống đâu đó giữa núi rừng Việt Bắc. Thương những người lính cũ không bao giờ có thể sống như cũ khi trở về với cuộc đời thầm lặng bình thường. Thương hai người dân không tuổi không tên trong câu chuyện xưa của bố. Thương thắt cả lòng cả dạ. Mà vẫn biết mình chẳng có quyền gì để sống tâm trạng này.

 

            Mình sẽ làm gì lúc đó với đôi bồ đè vai? Ngân tự hỏi và tự hỏi. Đấy có phải là bằng chứng của sự giác ngộ, của tình yêu Tổ Quốc ở mỗi người dân trong những thời buổi tao loạn? Và sự giác ngộ hay tình yêu Tổ Quốc như thế thật dễ dàng diễn dịch tiếp thành những phẩm chất tuyệt vời. Như, Ngân rất tin, nếu hai người đàn ông nhà quê kia trở thành nguyên mẫu của một nhân vật tích cực trong một tác phẩm văn chương nào đó viết về thời buổi đó. Nhưng, viết về nhân dân như vậy, dù chân thành bao nhiêu chăng nữa, liệu có phải là dễ dãi quá không?

 

            Bao nhiêu lần nhìn bố bồn chồn đánh đắm mình trong hồi ức, Ngân lại nghĩ có thể đâu đó ở một làng nghèo nào đó cũng có hai ông lão đang ngồi nhắc nhớ một ngày xa xôi chạy giặc với đôi quang gánh toàn giấy mực và đá li tô của chính phủ kháng chiến trên vai. Có lẽ họ sẽ kể rằng lúc ấy họ sợ, 'sợ vãi đái'. Một ông lão nhà quê thì hiển nhiên phải có cái giọng dùi đục ấy. Có lẽ họ sẽ chẳng tự hào và cũng không mất công đặt câu hỏi 'vì sao', như Ngân cứ không ngừng bận rộn với câu hỏi ấy. Đấy là bằng chứng của tình yêu Tổ Quốc, hẳn rồi, một tình yêu giản dị, không bắt đầu từ khẩu hiệu, là phần hồn được di truyền từ đời nọ qua đời kia ở xứ sở mình. Và đằng sau đó, là sự lương thiện của con người, thuần chất, tội nghiệp, đáng trọng. Cái lõi để trường tồn được của người mình phải là sự lương thiện nguyên sơ ấy. Và nếu có thể tự khắc cho mình một bức phù điêu, hay dựng một bức tượng về nhân dân, mà thôi, nếu Ngân có thể tặng không một ý tưởng, thì thế, chỉ cần khắc, đục hình ảnh hai người dân quê mặt lành như ngói cũ lầm lì mải mốt bước vào gió ngược với đôi quang gánh trĩu nặng, đôi quang gánh, chứ không phải là gươm hay súng. Thế là đủ để dân mình đi qua tao loạn, đi qua lịch sử chung chiêng giữa hạnh phúc và đau khổ. Thế là đủ để nhân dân thành bất tử. Phải! Bất tử!

            Nhưng, để được ngợi ca là bất tử, không lẽ nhân dân cứ mãi mãi phải vô danh?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

         Hải âu biết biển mênh mông thế

         Bay không?

                          Vẫn bay

 

         Trái đất biết mình đau buồn thế

         Quay không?

                           Vẫn quay

 

         Dũng cảm và cuồng điên

         Trong những tháng ngày

         Có tên là cuộc sống.

 

 

 

         18.

 

         - Vậy thì Ngân muốn gì. Cứ cho là hai ông toái ơ dại dột của Ngân thiệt đi vì anh hùng dũng cảm đến thế mà cái tên cũng chả được nhớ. Nhưng không thế thì ai gọi các cụ ấy là nhân dân nữa? Và có thể gọi họ là gì? Mà giả dụ các cụ ấy được nhắc tên nhắc tuổi vì chiến tích giữ được đôi bồ cho kháng chiến, rồi nhờ thế mà hôm nay thoát được cái làng nghèo đó, hoặc bệ vệ nghênh ngang hoặc lếch thếch lủi thủi đi giữa phố phường thì hỏi liệu ra sao? Hay bất quá lại thêm một kiểu Xuân tóc đỏ?

 

*.

 

         Không phải là Việt nói câu đấy. Không phải là Vĩnh. Không phải là chồng Ngân. Là Phan. Chỉ với Phan Ngân mới hay nói những chuyện tầm phơ như thế. Có lẽ vì hai đứa thường cùng đọc mọi cuốn sách rơi vào tay. Phan có một ông bác khác thường. Thời sôi nổi của ông đã qua rồi, lâu lắm rồi. Những nông nỗi đoạn trường hình như cũng trượt qua ông rồi. Giờ ông ngồi bên trong cái quầy bán sách báo cũ nhờ nhờ sáng, ngày ngày ngóng ra hè phố và chỉ quay lại với mình khi khuôn cửa bất chợt tối lại vì bóng một người khách rất biết tìm của tìm người ở đâu. Bố cũng đã có lần lục được ở quầy sách âm thầm đó 'Hà Nội ba mươi sáu phố phường', bản in từ năm 41, bằng giấy dó hẳn hoi, rẻ giật mình. Phan hay tha từ đó đủ thứ khó kiếm cho Ngân cùng đọc. Rồi cùng cãi vã...

 

         Hồi ấy dường như là hạnh phúc. Hồi ấy cả lũ vừa thi xong đại học, đang tấp tểnh làm người lớn bằng cách thay vì rủ nhau đi ăn chè đỗ đen Hàng Thùng hay chè thập cẩm Hàng Điếu thì lại mời nhau vào quán cà phê húp cái thứ nước đen sì đắng nghét hay pha chè đặc chát sít cổ rót cho nhau.

            Buổi chiều Ngân kể cho Phan nghe câu chuyện của bố sao mà nóng. Như sắp có áp thấp. Nắng ơi ơi. Đứng gió. Hầm hập. Bên kia đê, treo trên hàng tre là một dải mây trắng mong manh, im lìm, không thể nào bay đi nổi. Phan ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ra khung cửa sổ, lặng lẽ. Ngân cũng lặng lẽ. Có cảm giác chỉ cần cựa nhẹ một cái thôi, chỉ cần thốt một lời rất nhỏ thôi là chút gì riêng tư lắm đang hồi hộp thành hình sẽ tiêu tan. Họ sẽ ngồi như thế ...

 

         ...Trời bất chợt gầm một cơn sấm cạn. Thinh không gió nổi tơi bời. Mây đen cuồn cuộn trôi về. Ngọn tre lúc nãy im lìm giờ lồng lộn, bị gió đánh rạp xuống vẫn còn cố quất lên mây. Dải mây trắng tướp ra, bị những vòm mây đen nuốt chửng. Mặt trời tuột xuống đâu đó sau những vầng mây ấy, sáng hắt lên viền lấy những quầng mây đen một đường trắng lóa, sắc lẻm. Một sắc vàng âm u nửa như phả từ trời xuống, nửa dâng từ mặt đất lên, dập dềnh. Cát thốc từ bờ đê vào phòng qua khung cửa. Phan đứng dậy, hỏi trống không:

         - Đóng lại nhé? Ngân này, Ngân biết không, từ bé Phan cứ hay mơ mãi một cơn mơ, chả ra lành chả ra dữ, và thực ra thì chả có gì. Vậy mà nó làm Phan sợ  khủng khiếp. Trong mơ Phan thấy trời đất như thế này đây, còn mình ngồi trên một cái xe đạp cao lềnh khềnh, không với được chân xuống đất. Cái xe cứ 1ao vùn vụt vùn vụt. Không ai giúp Phan dừng cái xe điên rồ đó lại bởi vì... Ngân biết không? Không có một ai. Không một ai trên con đường Phan qua. Không ai có thể nghe thấy Phan. Không một ai. Gió cứ réo bên tai, quạt thốc vào mặt đủ thứ. Lần nào Phan cũng phải sặc sụa mãi mới vùng ra khỏi được giấc mơ ngu ngốc ấy...

         Phan quay nhìn, bắt gặp trong bóng tối âm u vàng của căn phòng vừa khép cửa một nét long lanh dò hỏi:

         - Không hiểu sao, từ hôm thi đại học đến giờ giấc mơ ấy không thấy quay lại nữa. Chứ hồi ôn thi thì...

 

*.

 

         Giả dụ không có buổi chiều ấy, không biết tới giấc mơ kì cục đó của Phan, chắc sau này Ngân cũng khó bình tâm khi nhớ về người bạn cũ, hay khi gặp lại. Giọng Phan lúc đó làm cho Ngân cứ mãi tin rằng chỉ một mình mình biết điều ấy, chỉ một mình Ngân biết nỗi đau đớn vì bất lực của Phan, chỉ một mình Ngân hiểu đằng sau những thành đạt hanh thông của Phan có một nỗi niềm còn lại mãi. Khi Phan đi học xa, rồi ngưng viết thư cho Ngân, Ngân đã bao nhiêu lần tự hỏi. Buồn? Rất! Nhưng hối tiếc? Không! Cũng bởi vì Ngân biết Phan đã phải gồng mình lên như thế nào để thoát ra khỏi giấc mơ ngớ ngẩn mà hãi hùng kia. Cũng bởi vì Ngân biết mãi mãi mình yêu thương người bạn ấy, mãi mãi mình cần cho riêng mình một thương nhớ âm thầm.

 

Người đàn bà trẻ con cũng hay mơ. Mơ bay. Rất dễ dàng. Giang hai tay ra, và tự dưng như không còn chân nữa. Cứ thế trong mơ Ngân bay qua những dòng sông xanh, những bờ đê mượt cỏ, những vườn cây không bao giờ thấy ngoài đời, bay qua những mái phố nâu đen mấp mênh sóng gợn. Và đâu đó bên dưới là những tiếng gọi vói lên kinh ngạc và vui sướng của bạn bè. Giấc mơ bay kì diệu đi kèm với chứng mộng du kì quặc. Biết bao lần trong đêm con bé con đã ngồi dậy, mở cửa, ra đường. Lần đầu tiên con bé biết mình đã đi đâu trong khuya khoắt cũng sẽ là lần cuối cùng giấc mơ bay đến với nó. Người cha tìm thấy con gái đứng huyên thuyên với anh công an gác cổng sứ quán Thụy Điển cũ ở góc đường Lê Phụng Hiểu Lý Thái Tổ, đã đánh thức con bé dậy trước sự kinh ngạc của chú công an trẻ. Sẽ không bao giờ đứa bé quên cảm giác của mình khi đó, khi ngước nhìn nhà Ngân hàng rực sáng bởi ánh đèn pha chiếu ngược lên ảnh Bác, khi nhìn hồ Gươm rạn thành bao nhiêu miếng óng ánh tít sau cây, khi đi ngang cái cửa quay của khách sạn Metropol huyền ảo ánh đèn màu xanh lá. Giấc mơ bay mãi mãi thành một đeo đẳng, cũng như ấn tượng về một Hà Nội nửa đêm nồng nàn hương mùa kia. Ngày đang sống dường như không có thật. Có thật: là nửa đêm Hà Nội hoang tưởng, là hương sen mẹ cho tiền mua bao mùa hạ cũ dù bông sen bằng nửa giá mớ rau bữa cơm chiều và hoàn toàn xa xỉ trong những ngày tháng đó. Là mùi than đá khen khét thơm thơm tỏa ra từ những tổ phục vụ nước sôi năm xu một phích ở bao nhiêu đầu đường góc phố. Còn gì nữa? Vị kem cốc toàn đá cục mua từ mấy ông đẩy cái xe bằng gỗ, ăn trong tiếng hát ngập tràn tin tưởng. '...Ta đi trên đường Hà Nội rực rỡ chiến công... đường mênh mang Ba Đình lịch sử đường tấp nập Hoàn Kiếm Đồng Xuân ... Nghe náo nức trong lòng...' Chao ôi, những giọng nữ cao thiết tha phơi phới đã làm cho thời buổi ấy sao mà nhẹ nhõm.

 

*.

 

         Mà cũng nhẹ nhõm thật. Sáng ra nhà nhà người lớn đi làm, trẻ con chơi quanh trong sân khu tập thể, chán thì kéo nhau ra ngõ, túm tụm dưới gốc đa già, rồi lại rồng rắn tha nhau vào mấy cái cửa hàng bách hóa dí mũi vào tủ kính bày toàn những xô chậu làm từ nhựa tái sinh, búp bê nhựa trần truồng toe toét một nụ cười vô cảm, dép lê đàn bà có hình cây dừa to thù lù trên hai cái quai ngang không màu xanh lá cây thì y như rằng màu tím huế nằm kề xà phòng thơm hương lí hương chanh. Nhòm chán chê thì ngóng ra phố, thấy đông đông xe đạp là ù té chạy về vác cặp lồng ra nhà ăn tập thể xếp hàng, chờ bố mẹ. Sau này thỉnh thoảng Ngân bỗng dưng thèm ăn lại một bữa cơm như thế, trong cái mùi gây gây của bàn ăn bằng đá dù mấy bác cấp dưỡng hôm nào cũng cọ rửa kĩ càng, với canh bí đỏ xào tỏi, đĩa lòng lợn, hay bát sốt vang, hay miếng thịt kho tàu. Cái mùi nhà ăn tập thể đặc trưng đến nỗi bữa cơm ở nhà nấu kiểu gì cũng không bao giờ có được. Và lại còn cái vị. Hay là Ngân tưởng tượng? Nhưng quả là ngon thật. Trẻ con vác bát chạy quanh bàn nhà nhau. Hết bữa thì lại len lách qua chân người lớn ngồi râm ran nói chuyện hóng gió trên cầu thang thênh thang dẫn lên hội trường ngay trên tầng hai, hay tụ bạ chơi trốn tìm trong những căn hầm chưa lấp. Mọi sự sẽ chỉ khác đi khi ngoài suất cơm thông thường nhà ăn tập thể bắt đầu bán thêm những món ăn ngon lành khác và không phải nhà nào cũng mua được. Bầy trẻ bê bát nhìn qua bàn nhau dò xét một cách đầy ý tứ. Từ bao giờ, trong chúng thức dậy tinh thần tự trọng tràn đầy bản sắc dân tộc trước sự quyến rũ của miếng ăn. Đấy chính là lúc nhà ăn tập thể tự khai tử, sẽ bị đem chia thành nhiều căn phòng và căn lớn nhất được bưng bít kĩ lưỡng thành nhà trẻ, nơi bọn nhóc con sáng sáng mếu máo bước vào. Sau này, mỗi khi đi qua liếc ngang mấy cô mẫu giáo trấn ngoài cửa lúc nào cũng thấy hăm hở xiên ngang xiên dọc những cái kim đan, và đằng sau các cô, trong bóng tối mờ mờ luẩn quẩn mấy bóng trẻ con lủi thủi, người đàn bà trẻ con lại bất chợt thấy ngực cồn lên một làn hơi nóng. Ngỡ như chưa bao giờ có những ngày tháng vừa buồn bã vừa vô tự lự đó. Và gương mặt bè bạn tuổi thơ mấy chục năm rồi không gặp lại vẫn dễ dàng hình dung đến mức đáng ngờ.

 

*.

 

         Chiều giông có Phan, nghe Phan nói bao nhiêu chuyện, lúc buồn bã, lúc hằn học, lúc lại đầy vẻ giễu cợt cay đắng hết sức kì cục, sao mà Ngân muốn khóc. Hoài nhớ tuổi thơ ậm ực mãi làm đau cả ngực. 

            - Ngân cứ để ý mà xem, những chuyện thê thảm ấy đâu chỉ có ở trong sách. Cái phố nhà Phan bé bằng lỗ mũi mà cũng đủ thứ chuyện tầm phào. Mới hôm kia thôi, cả phố Phan cười một trận vỡ bụng vì ông già hàng xóm sát vách nhà Phan bị cô bồ trẻ vác chổi đuổi đánh. Lã Bố hí Điêu Thuyền. Lã Bố ngày trai trẻ cũng vào sinh ra tử khiếp lắm. Bị bà vợ ở nhà lung tung lang tang, về ở với nhau được đâu vài năm rồi bà ấy phải đi vì ông chồng ăn chơi bù những ngày gian khổ. Lũ con nó cũng chả buồn về thăm bố già. Ngân sẽ bảo đấy là gì? Đấy, ông bà nhân dân của Ngân đấy. Ông già ấy và cô bồ ấy rất có thể sẽ lại sống đẹp ở một hoàn cảnh khác, như trong chuyện của bố Ngân hay của Ngân vậy. Băn khoăn làm gì?

 

         Bởi không biết Phan nói vậy chính vì Phan đã băn khoăn rất nhiều hay thực ra Phan thật tâm muốn vợi đi tất cả những nỗi niềm đó ra khỏi lòng mình mà Ngân không thể nào quên buổi chiều đó và người bạn đó. Tầm phào thật ư? Bao nhiêu chuyện đời diễn ra quanh Ngân, chẳng đâu xa mà rất đỗi hàng xóm láng giềng, rất đỗi nhà mình. Có điều vào độ ấy, thì cũng giống như hồi đi xem cô Tam điên, Ngân và chúng bạn chỉ thấy đó là một cơ hội để cười, hoặc để hào hứng trong phút chốc. Thiếu đủ thứ, trong chiến tranh và sau chiến tranh, thiếu tất cả những gì khả dĩ làm nên một đời sống tinh thần đủ để cho bọn nhóc bây giờ hiểu nổi, nhưng các thứ gia vị tinh thần hồi đó có lúc sao mà nhiều. Và người ta tiêu hóa được tất, với một sự say mê khùng khùng điên điên.

 

*.

 

         Cái món gia vị kích thích răng lưỡi trong những bữa ăn đạm bạc được ưa chuộng nhất bao giờ cũng là những chuyện nhà này chỉ bằng lòng mặt với nhà kia; chú nọ cô kia hình như phải lòng nhau mà chưa thấy động tĩnh báo cáo báo chồn gì với công đoàn và cấp ủy; nhà máy xét lên lương; căng tin sắp phân phối xe đạp; công đoàn liên hệ được ở đâu đó vải ngoài tiêu chuẩn và săm lốp, họp bình bầu lao động tiên tiến cuối năm và tóm lại là những chuyện đại loại thế, vừa tầm phào vừa thiết thân. Nhưng có những chuyện chả thấy ai bàn bỗng đột ngột phòi ra, làm tất cả ngơ ngác, rồi sau đó là sượng sùng. Sau này, lớn lên, chạm mặt hàng ngày những người từng có mặt trong những câu chuyện ấy, nhìn họ sống bình thản bên cạnh nhau, nghe họ cùng góp lời trong bao chuyện chung của khu tập thể, Ngân cứ phân vân tự hỏi mọi người đã quên hết rồi chăng hay vẫn đang đóng tiếp vở hài kịch cũ.

 

*.

 

          Con bé Hằng An có lần khoe khoang với Ngân rằng cũng biết bay. Dĩ nhiên là bay trong mê. Có điều nó ngủ mê hết sức kì cục. Loay hoay cong hai bàn tay để vo cho viên bánh trôi thật tròn, con bé mắt tròn mắt dẹt:

         - Em cứ bay vòng vòng trên sân thượng nhé. Càng lên cao càng mát. Mát cứ lạnh đi. Trời cứ như mâm thạch đen ấy, phẳng lì. Em lên cao bao nhiêu thì trời lại lùi xa tít bấy nhiêu. Còn sao thì lại như gần lại, cũng bay. Giống như đóm đóm bên bờ đê ấy, nhưng mà không lập lòe lập lòe. Cứ lóng la lóng lánh. Chị Ngân vớt đi. Vớt đi chị. Mẹ em bảo bánh trôi ba chìm bảy nổi là chín đấy. Em kể cho mẹ em nghe em bay, mẹ em cứ mắng dở người. Chị Ngân biết không, từ trên cao em nhìn thấy bao nhiêu người chui vào chăn của nhau, hay lắm. Cô Thủy chui vào chăn chú Toán này. Chú Bình chui vào chăn cô Vượng này. Ai cũng ngủ say. Chỉ có mỗi chị Phương Linh đạp cho người chui vào chăn chị ấy một cái đau điếng. Thế là em tỉnh. Hoá ra chính em bị chị ấy đạp. Chị Ngân ở đây ăn với em hay là bê một đĩa về?

          - Con bé này! Em mê với mẩn cái gì mà kinh hồn thế. Sao lại có chuyện chui vào chăn nhau. Mày cứ huyên thuyên bát sát thế mẹ mắng cho là phải.

         Trấn áp bé Hằng An, song cô gái không trấn áp nổi những ý nghĩ bất chợt tới vì câu chuyện kì khôi của nó. Cô gái biết đó là sự thật và những sự thật kiểu như thế luôn làm cô hoang mang...

 

 

 

Michelangelo

Đức chúa trời vung tay giữa đám người trần trụi

Nghìn linh hồn

Triệu nỗi đau

 

Có ai của một ngày sau

Giang tay giữa lòng người quả đất

 

 

 

 19.

 

         Cái sân thượng thênh thang của khu nhà tập thể ba tầng mà Ngân sống có thời là nơi trẻ con bọn Ngân tụ bạ. Vui lắm. Những ngày còn chưa sơ tán... Con gái con trai cả lũ chạy rầm rập trên cầu thang dẫn lên đó, nói cười í ới. Từ trên sân thượng, phóng tầm mắt về phía thành phố, sẽ thấy chóp Nhà hát lớn và lô nhô bao mái biệt thự cũ. Còn nếu ngoảnh về phía ô, đầu tiên là nhìn thấy vòm cây đa già, rồi bờ đê thoải xuống những làng nghèo xích lô ba gác, mùa hè đến có thể hít đầy lồng ngực mùi ổi chín từ những làng phía đó. Bên kia, sát chân đê, làng Thanh Nhàn vừa gần gũi vừa bí hiểm, nhìn từ trên xuống chỉ thấy những vòm cây ôm ấp lấy nhau, ủ kín tất cả trong bầu xanh rưng rưng nắng. Gió từ bờ tre bên ấy rào rạt thổi về. Ngân rất thích thỉnh thoảng trốn bố mẹ theo lũ trẻ cùng tầng chui rào tập thể sang đê. Bên đó có một người đàn bà, không thể nói là bà lão, song cũng không còn trẻ, thường ngồi dưới một cái mái gá tạm bợ vào chân tre, bán đủ thứ lặt vặt quyến rũ tì vị của cả lũ. Ốc vặn luộc vừa chín, hôi hổi thơm mùi lá bưởi, nhể bằng gai bưởi, chấm nước mắm gừng. Ốc đá thì bẻ bằng những đồng hai xu có cái lỗ tròn bé tí. Bà Bé luộc ốc trên cả tuyệt vời, nóng rẫy cả tay mà không con nào bị đứt ruột. Rồi lại còn lạc luộc, bánh tro, táo bột, chè lam, bỏng ngô, sấu chín. Những cuối xuân ngày ấy. Những vào thu ngày ấy. Ngân nhớ bà Bé là bởi bên mình bà lúc nào cũng có một cuốn truyện Kiều. Cứ ngơi tay đơm đơm bốc bốc cho bọn trẻ là bà lại cầm lấy cuốn sách cũ kĩ, kéo cái kính trễ xuống một chút và đọc. Ngày đi sơ tán trở về, lúc đã tụ họp lại được gần đủ mặt, bọn Ngân rủ nhau lên sân thượng. Cũng một chiều. Cả lũ ngơ ngác nhìn. Cái làng xưa chỉ thấy một màu xanh ấp iu là thế mà giờ quang hẳn vì bom. Đường ngõ tơ hơ, nhà cửa mới dựng lại khấp kha khấp khểnh. Sông Kim Ngưu chảy qua làng hẹp như một cái rãnh  nước đen đặc sịt trông chả khác gì con đỉa trâu đã chết.

         - Chả thấy bà Bé đâu chúng mày nhỉ? Bây giờ thì bà ấy cũng phải về mở lại quán rồi chứ nhỉ?

         Chả đứa nào buồn trả lời câu hỏi tầm phơ của con bé đang úp bụng lên lan can sân thượng sát bên Ngân. Ngân không biết chúng nó lúc ấy nghĩ gì. Cũng chả biết lúc ấy mình nghĩ gì. Chỉ có cảm giác rõ ràng rằng tất cả đang chia tay với một cái gì đó, vĩnh viễn. Mà sẽ là thế thật. Bởi vì cái làng bên đê sẽ không bao giờ xanh lại như cũ vì người ở đâu cứ dồn về, thành cả xóm liều bên bờ đê sát cái xó mẹ con bé Hằng An ở, đổ rác ra đấy, ỉa bậy ra đấy; rồi thành phố sẽ cho xây trên đất làng một khu nhà lắp ghép năm tầng rất lớn và một bệnh viện cấp quận khá là nổi tiếng vì đủ thứ chuyện tiêu cực. Lùm tre bên đê thẳng từ cửa sổ nhà Ngân nhìn ra vẫn còn, song quán bà Bé thì không bao giờ dựng lại. Không bao giờ Ngân thấy lại người đàn bà ấy nữa. Không biết bà có chồng con, có một mái nhà không? Không biết bà sống ra sao? Bà đi sơ tán rồi về tìm đường làm ăn sinh sống khác hay là đã chết trong trận bom đánh thẳng vào làng độ ấy? Thật lạ lùng là có những người có thể ở mãi trong trí nhớ đã thành một phần đời của mình mà mình tuyệt nhiên không biết gì về họ.

 

*.

 

         Thật ra thì hồi đó cũng không đứa nào bận tâm tự đặt ra những câu hỏi như thế. Chỉ nhớ là sau đó gần như chả mấy đứa còn rủ nhau lên sân thượng. Thỉnh thoảng lắm Ngân mới nghe lời mẹ sai mang mâm lạc mâm vừng hay ít tôm khô bò lên đó phơi. Vác theo cái chiếu và cuốn sách nằm trong chòi, nghe tiếng bọn nhóc con léo nhéo góc đằng kia sân thượng giữa cái nắng trưa nóng như rang, sao cứ thấy lòng vừa trống trải vừa xao xuyến.

 

          Đấy chính là hồi chị em Ngân thôi không theo bọn trẻ cắp chiếu cắp chăn lên sân thượng ngủ những khi mất điện. Ngủ gì đâu. Chạy rình rịch gần hết đêm hò hét trốn tìm. Cứ xông vào những chỗ người lớn ngồi uống chè là kín nhất. Mặt sân thượng lát đá vuông, giữ hơi nóng rất lâu, song gió thì không bị quẩn, cứ lồng lộng thổi như quạt hầu. Thật thú vị khi mặt và lưng mát rượi trong khi bàn chân trần và mông đít nóng cứ ran lên như ngồi trước đống rấm những mùa đông sơ tán. Người lớn thì cứ vừa nói chuyện với nhau vừa quay ra mắng trẻ con, rồi ấp tay vào cái chén quả hồng rất đặc trưng ngày đó mà hít hà cái vị nóng chát ngái của thứ chè ba hào mậu dịch bán không thèm phân phối.

 

         Đấy là lúc đầu đêm, người lớn có mắng thì rồi lại cười. Các anh chị trẻ trẻ vẫn phụ trách sinh hoạt hè có bị quấy rầy thì cũng còn biết giữ lưỡi trong mồm không áp dụng ngay chuyên chính với bọn nhóc, phòng lúc đi với nhau chúng nó biết được trả thù réo ê ê thì thẹn mặt. Nhưng khi đã vào khuya thì cả bọn cũng biết liệu thần hồn, đi nhẹ nói khẽ cho ngưòi lớn ngủ để sáng mai ra còn đi làm. Song cũng có những lúc vẫn mải chơi mà quên khuấy sự đời. Như ngày cuối tuần chẳng hạn. Chính trong một đêm như thế Ngân đã xô vào tốc cái vỏ chăn của chị Hoa hàng xóm tìm chỗ nấp. Rõ ràng vừa thấy chị sửa soạn chỗ nằm, vừa thấy chị tung cái vỏ chăn phủ lên mình tránh hơi sương. Mà sao lúc đó... Chị Hoa chồm dậy tát bốp vào mặt Ngân. Trong bóng sao mờ, con bé hốt hoảng thấy mắt chị rừng rực sáng, và rúm lại sau mông chị là một thân hình đàn ông trần truồng.

 

Dĩ nhiên là Ngân lủi một mạch, im thin thít. Dĩ nhiên là không có chuyện tổ an ninh dân phố đến lập biên bản. Hồi đó vừa ngừng bắn và chỉ thế đã đủ khác lắm những ngày trước đó. Chứ còn thời đánh phá thì quên đi. Chắc những chuyện như thế vẫn diễn ra hàng ngày đấy thôi, nhưng vô phúc mà bị phát hiện thì... Như là chuyện nhà mấy đứa bạn chơi với Ngân, thân thiết mà lạnh lẽo đến nỗi chả đứa nào bị chế với đứa nào. Chưa có lệnh triệt để sơ tán, nhưng trẻ con thì đã được lệnh của bố mẹ chơi gì cũng phải loanh quanh gần mấy cái hầm. Bố thằng Vũ thằng Thắng là bác Nhật, kĩ sư trên bộ hẳn hoi, tập kết ra bắc với cái chân tươi chân héo nên sau đó xung phong bao nhiêu lần mà vẫn không được đi B. Bác Nhật có vợ là bác Nguyệt. Bố bảo bác Nguyệt là con nhà thế giá lắm, dù chỉ là con vợ lẽ. Chả biết thế giá là như thế nào, song mẹ bác còn thấy mặc áo bông gấm dù đã mòn cũ, già rồi mà vẫn guốc cao và bước rất nhanh, tóc bao giờ cũng búi độn và khăn nhung choàng ơ hờ quanh vai, lại còn hút thuốc lá tự quấn dài ngoằng, và thoa son nữa. Bác Nguyệt không lạnh lẽo và khinh khỉnh như bà cụ, song quả bác không giống nhiều bà nhiều cô trong khu. Ra máy nước bác không bao giờ giành giật, thấy đông là lặng lẽ cắp chậu về chờ tới tận khuya vãn hẳn người mới ra giặt giũ. Người bác mỏng mà thẳng, ăn mặc thì giản dị y như mọi người, mà cũng vẫn không hẳn vậy. Vạt áo phin kia nhìn kĩ thế nào cũng lấp ló một nét thêu, cứ như là hoa tàn bay rồi đậu lại đó vậy. Quần lụa bất kể người ta mốt gấu to hay gấu nhỏ, bác Nguyệt mặc bao giờ cũng kín gót chân và là kĩ không để nhăn ở khuỷu. Bác khác tất cả mọi người, nói nhẹ cười cũng nhẹ. Mẹ hay nhờ bác cắt quần áo cho để tự khâu tay, có lần bảo bố: 'Em thân với chị Nguyệt thế mà trước chị ấy vẫn cứ phải giữ lời là làm sao nhỉ? Làm sao mà vui thế nào cũng không thấy chị ấy ăn nói tào lao, mình cũng đâm ra e dè'.

Lại có lần Ngân nghe mẹ hỏi bố:

- Anh có nghe ông Nhật mê một cô văn thư trên bộ không?  Lạ nhỉ, đàn ông sao mà dại. Chả biết cái cô kia thế naò. Nhưng mà em nghĩ khó qua mặt chị Nguyệt được. Chị ấy thật là người hiếm. Em mà như chị ấy chắc ba máu sáu cơn từ lâu rồi.

Bố cười:

- Khéo chỉ vì bà chị không biết ba máu sáu cơn như em, lúc nào cũng như trăng suông thế mà ông ấy đâm ra thế.

- 'Anh thì chỉ...' - Mẹ buông lửng rồi lại chúi đầu vào đống tem phiếu. Không biết mẹ nghĩ gì. Chỉ nhớ lúc chuyện nhà bọn thằng Vũ thằng Thắng bùng ra thì câu chuyện về bác Nguyệt lại trở về trong bữa cơm chiều nhà Ngân:

            - Nghe nói chị Nguyệt uất lắm, chị ấy báo cho công an với tự vệ đấy chứ. Có người bảo lúc đó chị ấy đòi đưa cả đôi ấy ra trụ sở khối phố để giải quyết.

            - Không phải đâu mẹ. Bác Nguyệt mãi mới gọi được về. Lúc công an đạp cửa vào con cũng có đó mà. Lúc báo động bọn con thấy công an tự vệ vác súng vây cửa sổ nhà thằng Thắng thằng Vũ. Con theo hai anh em nó lủi vào nhà đứng mãi đến tận lúc bác Nguyệt về. Thằng Thắng thằng Vũ sợ mẹ cứ kéo con ra. Mà con nghe thấy hết.

            - Giời ơi là giời. Báo động chúng mày không ở trong hầm còn vác xác đi đâu? Ai bảo con vào đó làm gì? Việc của người lớn trẻ con biết gì mà hóng hớt. Thế bác ấy bảo gì?

            - Bác Nguyệt bảo chú Phạm công an khối là sao lại phá cửa nhà bác ấy. Chồng bác ấy nghỉ ốm, đóng cửa nằm nhà cũng là thường, khách đến thăm cũng là thường. Bác ấy bảo chú Phạm kiểm tra xong giấy tờ khách rồi thì xin để bác ấy nói chuyện với khách của nhà bác ấy.

            - ?

            - Bác ấy bảo với cái cô gì ấy đẹp lắm là bác Nhật sẽ giải quyết ổn thoả mọi chuyện. Thế rồi bác ấy uống nước xong lại xách túi đi. Thế thôi.

 

            Bố mẹ nhìn nhau. Không ai biết câu chuyện sẽ tiếp diễn ra sao. Chẳng lẽ người ta có thể bình tâm như thế?

 

*.

 

            Không ai biết chiều ấy bác Nguyệt cơm nước đàng hoàng hơn bình thường. Người đàn bà đã

nhắn cậu em trai sống với bà mẹ đến đón hai thằng cháu, chuẩn bị cho chúng đi sơ tán với bà ngoại. Người đàn ông tập tễnh đi đi lại trong nhà, như một con thú bị dồn đuổi.

         - Cô bỏ ngay cái mặt bao dung đểu kia đi. Tôi có tội, phải, tôi là thằng có tội. Cô cứ nói cho hai thằng bé biết, cô cứ ra trước bàn dân thiên hạ chửi thằng Nhật này như thế còn tốt hơn là cô vác cái mặt chịu đựng tha thứ kia.

         - Mình bình tĩnh lại. Mình muốn em phải có vẻ mặt đâm lê hay sao? Mình biết rồi, em không làm được thế. Em sẽ không bao giờ nói thế, bây giờ, sau này. Em sẽ nói với các con rằng ba các con không có lỗi gì với bất kể ai.

         Người đàn ông hổn hển:

         - Em nói gì vậy. Đúng là anh có tội. Nếu họ ập vào muộn hơn một chút thôi thì em cũng sẽ không thể bênh vực anh đâu.

         - Ngay cả như thế mình cũng không có tội. Em không biết mình nghĩ thế nào, còn em, chỉ nghĩ đến chuyện căn nhà mình ở có thể bị lục soát vì những lí do không dính gì đến ai em đã đủ muốn chết ngạt. Bây giờ, cái làm em nghĩ ngợi là mọi sự phải tiếp diễn ra sao. Nếu mình không ở đây thì mình có thể thu xếp được chỗ nào không?

            Một khoảng ngừng đông cứng. Người đàn ông cúi gục đầu. Cái cẳng chân teo đầy lông lá rũ

rượi dưới gầm bàn. Người đàn bà thở dài:

         - Nếu không thì để em thưa chuyện với bà, em đưa bọn nhỏ về trên đó ở chung với bà và với cậu Việt. Đằng nào bà với chúng nó cũng phải đi sơ tán đến nơi rồi. Để rồi xem sao... Có điều mình sẽ khổ ở cơ quan mình đấy. Mà ở trong cái khu tập thể này sau chuyện này thì cũng chả sung sướng gì. Nhưng mà thôi, thời nào muốn làm gì mà chả phải trả giá. Cô ấy cũng phải trả giá nếu như cô ấy tính chuyện yêu thương mình.

            Có một khoảng ngừng ngột ngạt. Người đàn bà thở dốc:

- Cô ấy được cái là mạnh khoẻ hơn em, và lại yêu mình. Mình ạ, có thể là ngày mai nhà mình sẽ không ở chung với nhau, trước khi em đưa con đi hay mình đi, em muốn nói với mình... Em xin lỗi mình. Em đã không yêu mình ngay từ ngày đó, ngày ta quen nhau... Em cũng không biết nữa. Có lẽ là như thế. Sau khi ông ngoại bọn nhỏ mất, nhà xảy đàn tan nghé hết, em đã phải làm từ đứa ở làm đi trước khi có lại cơ hội bước chân vào trường học. Hồi đó em sợ những ngày đã sống qua, sợ lắm... Và em lấy mình... Trong khi mợ lại bảo em rằng bọn mình không thể nào hợp nhau... Mợ bảo đã sống qua cảnh ấy rồi thì không còn gì đáng sợ nữa. Em không vững vàng như mẹ. Mợ thì lúc nào cũng vậy... hồi bố còn sống, còn chưa bị tù, còn cảnh cả lẽ trong nhà... mà đến lúc bố bị thế, mợ vẫn cứ như không. Thôi thì vợ chồng không ở được với nhau, mình coi hai đứa con và lời xin lỗi của em làm  vốn...

 

*.

 

         Người đàn ông hực lên. Giọt nước mắt bất lực và đắng cay không thể nào lăn ra nổi, lúc ấy, và cả sau này, khi ông đã mất hết, mất đảng, mất quyền, mất luôn biên chế nhà nước, để rồi khi giải phóng thì lọ mọ bò về quê như một thằng dân gì cũng sợ mà gì cũng không sợ nữa, vì chả còn gì để mất. Ông sẽ chỉ khóc khi hai mươi mấy năm sau ra lại Hà Nội, ngồi đúng chỗ đó, nhìn người vợ cũ đã bị thời cuộc là phẳng mà vẫn bình thản và dịu dàng đến độ tưởng chừng bà có một thế giới khác để mà sống. Nhưng giây phút đó người đàn bà trẻ con không biết, cũng không biết sau buổi gặp lại người chồng không li dị mà xa cách suốt bao năm, bà Nguyệt đã qua đường, nước mắt chan hòa núp sau lưng cây đa già khấn cho lòng người đàn ông bình thản lại. Ngân cũng không biết ông Nhật chia tay lần ấy với vợ con cũng đứng dưới gốc đa, nhìn theo sợi khói ẻo lả tan đi truớc khi vươn được tới cái cành gần nhất. Ông cứ nhìn lên, lên mãi, nơi màu xanh trời đan dệt trong vòm lá lục, lòng thầm khấn nguyện cho người vợ già được bình an bên những đứa con thành đạt mà ông không có công nuôi dạy bao năm ròng. Cây đa với dân khu tập thể của Ngân là một chứng nhân mà họ lúc quên lúc nhớ tùy thời buổi, song bao giờ cũng tìm về.

 

 

 

            Mấy phương án cho một lưỡi dao

   

            Nó hình như đã nổi tiếng từ khi thi sĩ TD dùng để tự cứa cổ

1. Người ta đã vứt nó như bất kì một vật trở nên vô dụng hoặc nguy hại nào

2. Người ta đưa nó vào viện bảo tàng, chỗ dính máu là chỗ rỉ trước nhất

3. Người ta giữ nó sáng loáng

 

 

 

         20.  

 

         Người cha có lẽ là người cuối cùng của khối cư dân lâu năm trong khu tập thể đã tìm tới bóng đa già. Cứ như là phản ứng tự vệ, ông gần như chả bao giờ để mắt tới mùa đi qua vòm đa. Có những ngày cây đa trút lá, khoảng phố đột nhiên quang hẳn, sáng bừng, mới mẻ. Có những ngày vòm đa lướt mướt tối sẫm lại vì mưa dầm. Có những ngày công an phường làm cho mấy bà bị coi là mê tín đứng tim vì kế hoạch giải tỏa khói hương theo những quyết nghị nọ kia chả ai biết tới. Và lại có những ngày sâm sẩm tối ông băng qua đường tới ngồi vào một trong những cái ghế con của hàng chè chén dựng dưới gốc đa, gọi một chén chè, thêm cái kẹo dồi chó cho con gái út, và ngẫm nghĩ. Không có gì liên quan tới cây đa chạm được vào ý nghĩ của người cha, dường như là thế, nếu không có những lúc nổi cáu bất ngờ khi vợ con đùa rằng ông chạy một mạch từ cây đa Tân Trào về tới cây đa Nhà Bò này thì dừng. Sẽ đến ngày những đứa con của ông đi xa và chĩ mãi tới khi ấy người cha mới trở về nơi đó lia camera lưu giữ cho con vòm cây nhớ thương.

 

*.

 

         Giữa mấy mươi năm, có một lần ông đưa chân ông phó giám đốc cũ từ miền Nam ra thăm lại nhà máy và bà con khu tập thể tới tận gốc đa già, đứng đó bùi ngùi. Ông Thản trông khắc khổ, nước da sạm lại khác hồi còn ở nơi này. Ông đi quanh quẩn khắp khu tập thể, dừng chân trước những bãi đất trước kia chỉ là cái kho tạm chứa nguyên liệu làm giấy than, mực, nến tráng giấy dầu hay những ngách nhỏ nơi đặt cái chuồng gà cải thiện của mấy gia đình đông con, lắc lắc đầu. Khu tập thể bây giờ chật ních người là người. Trẻ con lớn lên, đi làm đi ăn rồi, chồng vợ cả rồi mà không đủ sức rút cẳng ra khỏi nơi này. Những công nhân nhà máy năm xưa nhà bị bom được thu xếp về ở tạm nay đóng đô chặt lại ở đây. Và những cư dân mới không biết gì về những năm tháng xa xôi ấy. Ông Thản đi loanh quanh, ngần ngừ, chỉ tạt vào nhà ai là người thân quen cũ.

 

            Bố giục Ngân pha nước, ngùi ngùi:

         - Anh ra bao giờ? Tôi có nghe anh em nói anh về thăm nhà máy mà tiếc hôm đó không gặp được anh.

         - Cũng được gần một tuần rồi anh ạ. Chắc cũng là lần cuối cùng. Già rồi, nghĩ chuyện đi là ngại. Nhưng không đi thì lòng dạ cứ nôn nao.

            - Bao giờ anh lại vào trong đó?

            - Cũng định ở chơi lâu lâu, mà bà nhà tôi dạo này hay mệt, lại còn mấy nọc tiêu...

            - ?

            - Tôi không ở Sài Gòn anh à. Hồi bảy lăm chuyển công tác vào trỏng, hai đứa nhỏ nhà tôi cùng vào nhưng ở lại Sài Gòn, còn tôi thì về Tây Ninh tìm bả.

            - Thế ạ...

         - Hồi trước tôi có đọc lí lịch anh. Ngày đó không phải lúc nào tôi cũng tin vào những điều đã đọc đâu. Còn giờ thì tôi nghĩ tất cả là số phận anh à. Tôi nghiệm ra cứ muốn sống lành là chẳng thể nào sướng nổi. Được cái là sau đó suy đi tính lại vẫn tự bằng lòng được ít nhiều với mình.

         - Tôi biết là ngày đó anh biết cả về tôi và thông cảm lắm với tôi anh Thản ạ. Giờ anh đã nghỉ rồi, tôi cũng chỉ làm việc đôi ba ngày nữa, có lẽ anh em mình chả còn dịp nào gặp lại nhau, anh cho tôi nói lời cảm ơn anh. Anh không biết đâu, hồi đó, những lúc nhìn quanh so tính, tiếc cho mình, tủi cho vợ con, tôi lại nghĩ tới anh, tới cách anh cư xử với mọi người và lại hồi tâm được.

            - Thôi mà anh...

         - Thế hai cháu nhà anh độ ấy?

         - Con đầu trước là y tá miền, hồi ra bắc mang theo đứa con anh biết rồi. Chồng nó hi sinh trước giải phóng, nó về được cho đi học tiếp, giờ là bác sĩ, đậu gạo nấu cơm chung với một thằng trước là bạn chồng nó. Mà cơm không lành canh không ngọt anh à. Thằng rể tôi quyền chức, quên hết rồi, đến hồi rồi phát hiện ra bị gan thì mới biết nhớ ngày gian khổ. Vợ chồng hòa lại được với nhau, nhưng mà trong cảnh ấy... Còn con út, cái con bị thương vào mắt ấy anh, cái con ngày ở ngoài này cứ làm ầm ĩ chuyện cô Tam, hồi về nhất quyết không cho tôi gặp mặt má nó. Khổ, con mỗi đứa mỗi tánh anh à, cái con út nhà tôi thì hiểu ba nó hay không hiểu cũng cứ làm tôi rối ruột.

         - Tiện anh kể chuyện, anh cho tôi tò mò... Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh phải không anh?

         - Có gì đâu mà anh phải rào đón. Bà nhà tôi hồi tôi biệt tích có hai đứa con với ông sau này anh à. Cũng anh em đồng chí cũ với mình mà chiêu hồi. Nói theo kiểu bên mình thì ổng tội to nhưng phải nói là không hành hạ gì hai đứa con tôi. Mà con út nhà tôi thì cứng đầu lắm, bỏ học, hoạt động thành. Sau này con chị nó nói lại hồi đó nó thoát cũng là nhờ ông ta. Chứ... Ông ấy quả thực có lòng với má nó anh à. Mấy ba con ông ấy di tản từ hồi đó. Bà nhà tôi thì nhất quyết ở lại.

            -...

            - Mà bả cũng không có chịu gặp tôi. Con út về tìm má nói gì đó, bả bỏ về Tây Ninh, lên chùa, xuống tóc đàng hoàng. Tôi xin chuyển công tác từ Sài Gòn lên đó, mấy năm ròng, đả thông hết má đến con. Bây giờ bả về với tôi rồi, nói thực với anh sống cũng ngậm ngùi, có cười được chăng là lúc con cháu ngoại từ Sài Gòn về chơi. Chẳng qua cũng vì hoàn cảnh. Dù gì thì bả cũng có công nuôi nấng các cháu không có tôi phải không anh. Mà cái tình cái nghĩa nó là gì không biết mà dứt cũng không phải dễ.

            Ông Thản cười, đôi mắt đã đục nhìn bình thản:

         - Ông chồng sau của vợ tôi với hai đứa con vừa rồi gởi thư về. Bà nhà tôi cứ như mất hồn. Tôi mới bảo bả lo việc nhà cho tôi đi thăm anh em cũ. Cứ sốt ruột, e bả nghĩ tôi bực dọc điều gì.

 

*.

 

         Khi đó người đàn bà trẻ con làm gì nhỉ? Pha xong nước mời khách, Ngân bê rổ rau bí ra lan can ngồi tước. Hơi mưa từ cái mái tôn cơi nới của nhà tầng dưới hắt ngược, ẩm ẩm tanh tanh. Cái giọng lù rù gần như mất hết dấu vết ngôn từ Bắc của ông Thản vọng từ sau lưng lại chen với tiếng nói loé xoé của mấy bà hàng xóm vừa đi chợ về làm lòng Ngân nặng trĩu. Bao nhiêu mùa đã đổ xuống trên những bước chân đi qua cuộc đời như thế này.

 

         Lại vẫn là buổi chiều. Cuối hè. Hừng hực nóng. Bọn trẻ mang nhau ra đầu hồi nhà cao tầng, chính phía có căn phòng của ông Thản. Chỗ đó xưa là sân chơi, bể nước ngầm và vườn hoa rực rỡ. Nay, điện nước phập phù không bơm lên các tầng được, một ông thợ đục ống bắc ngay cái máy nước cho cả xóm dùng tạm rồi thành vĩnh viễn. Khu tập thể cũng không còn vườn hoa nữa. Vườn hoa đã bị phá để lấy mặt bằng xây thêm mấy dãy nhà cấp bốn cho công nhân nhà máy nhà cửa sạch bách vì bom. Đội quy tắc thành phố vẫn hoạt động song không còn riết róng phạt những nhà chăn nuôi trái phép. Các nhà con đàn nhất loạt bung ra trấn tất cả những ngóc ngách nào nhà máy không sờ tới để tăng gia sản xuất. Con gái thì vừa xếp hàng máy nước vừa tranh thủ đan móc hàng gia công đỡ gia đình. Con trai lăm lăm cái vợt sục sạo mấy cái cống để vớt bọ gậy về nuôi cá. Cái Hải con chú Triều chiều nào cũng phải ngồi ôm cái chậu tôn cũ xin vo gạo cho bà con cả dãy lấy nước về nuôi lợn chợt ngước lên:

            - Com măng ca vào nhà ai chúng mày ơi! Những hai cái kìa!

         - Đâu đâu? Đi về dãy mình đây này. Chị kia trông như giao liên quân giải phóng ấy chúng mày ạ. Vào nhà ai nhỉ?

            Hai cô gái, cô đầu dắt theo một đứa con gái chừng ba bốn tuổi, quần đen và áo bà ba xanh, cắt bằng thứ vải gì trông cưng cứng và nhóng nhánh như nilon, cô thứ hai trông chỉ như vừa qua tuổi lớn, cũng bà ba nhưng một màu đen. Cả hai cô đều đội mũ tai bèo. Xúm xít xung quanh toàn là đàn ông có tuổi. Ông người gầy gầy xăm xăm đi trước dẫn đường. Lũ trẻ vội vàng dẹp bớt xô chậu rổ rá lấy chỗ cho đoàn người.

 

            Tiếng khóc dậy lên từ cánh cửa ngay sau lưng làm lũ trẻ kinh ngạc. Bọn con trai lập tức quăng vợt tiếp cận mục tiêu mới. Thỉnh thoảng lại ngoái cổ thông tin cho cả lũ con gái ra chiều ý tứ vẫn tụ bên đống xô chậu song bao nhiêu tâm trí đã để hết vào những tiếng xôn xao ở sau lưng.

            - Con bác Thản chúng mày ạ.

            Đứa đứng gần lũ con trai nhất nhanh nhảu truyền tin. Cả lũ hóng cổ lên nghe.

            - Nhưng sao khóc như đưa đám thế? Bố mẹ tớ kể bác ấy biết tin con ra mấy hôm nay rồi cơ mà.

         - Từ từ đã nào. Hôm nay ủy ban Thống nhất mới đón được các chị ấy đưa đến đây. Bác Thản cũng khóc chúng mày ạ. Nhìn kìa... nhìn kìa... Hai chị ấy cũng khóc... Nghe nào... Chị đầu chồng quân giải phóng hi sinh rồi. Con bé kia là con chị ấy đấy... Đẻ ở rừng. Chị kia... chị kia chột mắt chúng mày ạ. Dũng sĩ diệt Mỹ. Thế là diệt được mấy thằng nhỉ?

 

         Thằng Tuân đầu gấu nhất bọn tuột từ trên gờ tường sát cửa sổ nhà bác Thản xuống bần thần vì câu hỏi mới tự đặt ra cho mình. Cả lũ cũng bần thần. Không phải vì cảm động xót thương mà là vì ý nghĩ bên kia bức tường có một dũng sĩ diệt Mỹ đang ngồi, đang nói những chuyện hết sức bình thường. Dũng sĩ diệt Mỹ! Là cái gì chỉ giống như là một khái niệm, một nhân vật trong sách mà cả lũ vẫn chuyền tay nhau, gần gũi hơn thì cũng vẫn chỉ là những cái tên trong truyện thiếu nhi hay trong các bản tin đài báo thường đưa. Đoàn anh hùng dũng sĩ miền Nam ra thăm miền Bắc, đến thăm Bác Hồ. Hồ Văn Mên, Nơ Trang Lơn, Hồ Thị Thu, A Vai, Kan Lịch... Một con người như thế, từng đặt chông, ném lựu đạn, bắn súng, vừa đến đây, mang trên mình dấu tích của cuộc chiến tranh còn chưa đi qua hẳn, nhưng với cả lũ thì vẫn rất xa xôi, dù tất cả đều đã từng nếm mùi sơ tán. Một con người như thế đang ngồi khóc thút thít trước người cha lần đầu gặp mặt, và cái chính là chị dũng sĩ ấy thật ra chỉ hơn cả bọn có vài tuổi bọ.

 

         Kể từ hôm đó nhà bác Thản tuần nào cũng thấy đông người. Hai chị con gái bác đã làm cả khu tập thể quen dần với những bộ bà ba may từ thứ vải gì chất như nilon nhóng nha nhóng nhánh, với chiếc mũ tai bèo đội hờ trên đầu và đôi dép Thái Lan lệt xệt dưới chân. Rồi các chị ấy cũng dần dần mặc y như mọi người, nón lá thay vì mũ tai bèo, quần lụa áo hồng kông thay bộ bà ba lạ mắt. Mỗi lần về thăm bố, các chị lại ríu rít dắt nhau đi chợ và từ cửa sổ sát máy nước nhà bác Thản mùi mắm thơm lựng tỏa ra. Nhưng bác Thản sau những ngày con về trông lại thêm âm thầm.

 

*.

 

         Con bé Hằng An biết rõ nó không phải là con bác Thản và chính vì thế mà nó gọi bác là ba một cách hết sức tự nhiên một hôm bảo với Ngân:

         - Em không gọi ba Thản là ba nữa đâu.

         - Tại sao? Bác Thản vẫn gọi em là con cơ mà.

         - Tại chị Hằng Tâm ấy. Chị ấy chủ nhật vừa rồi tự dưng mò vào nhà em mắng mẹ em xơi xơi. Chị ấy tưởng cái dũng sĩ diệt Mỹ của chị ấy là to, mà giờ mới học lớp bảy ở trường văn hóa dành cho con em miền Nam, hơn em có hai lớp. Mẹ con em làm gì chị ấy nào. Mà mẹ em cứ ngồi yên nghe. Tức quá.

- ...

         - Em bảo mẹ em đổi tên cho em mà mẹ bảo không được. Khi nào lớn em sẽ tự đổi tên đổi họ để ba Thản đỡ khổ. Chị Hằng Tâm cứ một mực bảo mẹ em có gì với ba Thản thì tên em mới là Võ Hằng An, lại còn bảo mẹ em nếu còn để ba Thản qua lại thì sẽ báo cáo với nhà máy rằng nhà em lợi dụng. Đi mà báo cáo.

         - Kệ chị ấy. Ai chả biết là...

         - Có mỗi chị Hai nhà ba Thản tốt. Chị ấy ngay sau hôm ầm ĩ cũng vào nhà em. Chị ấy nói gì mà sau đó cả mẹ em và chị ấy cùng ngồi khóc chị Ngân ạ. Chồng chị ấy mới hi sinh đấy chị Ngân biết không?

            - ... Thôi, có bài nào hỏi thì đưa ra đây. Chị sắp phải về rồi. Mà em cũng đừng có chõ mũi vào việc của người lớn làm gì rồi khéo mẹ lại mắng cho đấy.

- Em chả sợ - Con Hằng An cười khì khì - à mà chị ra đây em cho nghe. Bên kia tường nhà em có hàng xóm mới đấy. Có điều chả quen được nhau. Nhà máy xây nhà kín thế này giờ chả chạy qua bờ đê xem mặt người ta được nữa. Có đến mấy nhà ấy chị ạ. Chả biết ở đâu về. Cứ về lại rì rầm rì rầm cãi nhau, mẹ em đập vách bảo hạ giọng thì lại vâng ạ vâng ạ lia lịa.

  

         Cô Tam ở cùng bé Hằng An trong cái ngách nhỏ sát bờ đê, nơi có chuồng lợn nuôi vụng của mấy nhà đông con, vẫn ra vào một ngõ chính với cư dân khu tập thể, song gần như biệt lập với cả khu. Nay nhà cô có hàng xóm chung lưng, dẫu ồn ào song con Hằng An thích là cũng phải. Nó chỉ không biết rằng mấy mái giấy dầu ấy sẽ là những số nhà đầu tiên của một xóm liều kéo suốt một triền đê, nơi những chàng Tây ba lô sau này cứ chạng vạng là lần tới và từ đó sẽ vọng qua khu tập thể những tiếng thì thầm âu yếm, mặc cả và cãi chửi tưng bừng ai nghe cũng đoán được hết nội dung dù chỉ hiểu đúng một phần tiếng Việt. Nó, và cả Ngân nữa không bao giờ ngờ rằng đấy sẽ trở thành một phần đời con Hằng An nhiều năm sau này trước khi con bé quắp một thằng Phần Lan bắt phải mang nó bay đi. Và trước khi bay đi, một đêm khuya lắm con Hằng An đã ra gốc đa già trong cái nhìn vừa nghi ngờ vừa khinh bỉ vừa đầy vẻ trêu ghẹo của mấy chàng công an phường trực ở đồn công an bên cạnh, đứng đó chìm đắm mãi trong bao nhiêu ý nghĩ.

     

            Này là tiếng tom

            Nỉ non tiếng đàn

            Này là tiếng chát

            Mấy người ngồi bên

            Này là khói hương

            Hồn tôi nhập đồng

           

            Những dải lụa màu phấp phới bay

            Nghiêng đời đổi lấy cơn say

    

         Vô thần III

 

            ???

 

                        21.

 

            Hồi còn con gái người đàn bà thường tiễn bạn ra tận ngoài phố, đứng bên này đường đối diện cây đa chuyện vãn tiếp. Bạn gái có khi còn tạt sang đường sà vào hàng quà rong, cắn ngập răng vào quả táo Thiện Phiến xanh ưng ửng chấm với muối ớt, chua chua mặn mặn cay cay, cười phá lên vì một câu chuyện không đầu không cuối. Còn với đám con trai... Đôi khi, chỉ đứng vậy, tay đặt hờ trên ghi đông xe đạp của bạn, ngước nhìn cây đa già và nhìn vào mắt nhau, lặng yên. Phố xao xác người xe, vỉa hè chưa có nhiều người bán hàng rong đỗ gánh như về sau này. Mùa đông, mây xám giăng theo chiều gió bấc, co ro trong cơn gió mùa mới tràn về hào phóng thổi, mà sao lòng cứ phơi phới và ấm áp khi soi vào đáy mắt nhau. Còn những mùa hè, gió nồm nam thốc từ ngõ ra lùa trong áo mỏng, khiến rùng mình bất chợt khi chợt nghĩ rồi có thể sẽ là như thế, những ngón tay nhau. Những ngày âu yếm quá. Những điều không cần nói. Những khát khao không lời vẫn cưu mang dẫu khó nghèo cùng cực. Những gương mặt gầy và mắt sáng. Bao nhiêu băn khoăn cơm áo gia đình tưởng chừng quên được cả. Tưởng chừng quên được cả những chuyện đời rối tinh xoè vẫn ngày ngày nghe thấy nhìn thấy. Quên được cả cái ngày mai phải ra trường chưa biết sẽ về đâu.

 

            Sau này nhiều khi Ngân kinh ngạc. Hồi ức về ngày tháng cũ giống như bếp lửa đã vạc rồi, tàn tro phủ kín rồi mà thỉnh thoảng lại hực lên một màu than đỏ. Sao nhiều reo vui thế, sao nhiều nỗi im lặng xôn xao. Chiếc áo vá suốt chiều đem mặc tối thứ bảy ngày ấy chưa bao giờ làm Ngân mặc cảm, nếu không nói là còn ngấm ngầm kiêu hãnh trước mấy đứa bạn gái ăn chơi rất đỗi nhiệt tình. Cả mái tóc dầy và bóng chưa bao giờ được âu yếm cuốn trong mấy cái lô. Cả cặp lông mày rậm rất không hợp giống số và cách như bọn bạn thường đùa. Tất cả. Trong khi trầy trượt chuồi theo đời sống, trong khi khó nhọc gạt khỏi lòng bao nỗi lo sợ và khắc khoải trước tương lai nhìn chung là vô vọng như cả lũ một năm sau khi ra trường đã có lần ngồi phân tích tổng kết, một cách hoàn toàn bản năng, người đàn bà trẻ con vẫn cố giữ lại cho mình một chút gì, có lẽ là dớ dẩn, nhưng nhờ thế mà còn giữ được cảm giác mình chưa bị xã hội hóa hoàn toàn.

 

            Chỉ có điều chính cái cảm giác mình vẫn còn là mình đó lại làm Ngân phiền muộn, sau những lúc phải đối mặt cùng quá khứ, cùng một người bạn cũ đã đi qua đời mình. Như lần gặp lại Vĩnh hay Phan. Lần nào cũng như lần nào, ngẫu nhiên, mà họ không bao giờ có được cái giọng của những người ngẫu nhiên gặp lại. Bao giờ cũng vẫn là cảm giác đó, cảm giác vừa chia tay nhau mới hôm qua, đột hiện và biến mất, nhường chỗ cho ý nghĩ về thực tại, nên trong mừng rỡ bao giờ cũng như chứa chở một chút gì buồn bã lắm.

 

            Vì thời gian trôi không chờ, không chờ ai. Người đàn bà nay đã mỡ màng ra. Vẻ mỡ màng đã mang cái nẫu nẫu của tuổi, trong ánh mắt bình thản và mệt mỏi, trong làn tóc bớt dần độ bóng buông uể oải trên vai, và cái chính là trong những ý nghĩ không hẳn là hài lòng với đời mình, nhưng cũng không còn những xót xa điên cuồng vì khao khát vẫn cưu mang. Khao khát, thì vẫn là khao khát. Nhưng người đàn bà trẻ con đã nhiều lần hiểu ra rằng vẻ đẹp của khao khát chính là ở chỗ nó chẳng bao giờ thành, và nếu như mình đã trải đời thì cũng chỉ là đủ để hiểu ra rằng không bao giờ còn có thể tự tin như từng thế, những mùa thu cũ.

     

            Chính là vào lúc đó, lúc yên tâm với đoạn đời sắp sống. Ngân đã gặp lại Phan. Lần đầu tiên hai   người trò chuyện lại với nhau kể từ buổi chiều giông gió ấy. Nhưng lần này: bắt buộc.

         - Xin giới thiệu với các anh chị: nhà tôi. Em! Anh.. bên... Chị bên... Các anh chị đây bên... Đây anh Phan - Giám đốc bên đối tác với bọn anh.

            Tại sao hai người phải chờ chồng Ngân giới thiệu mà không ồ à mừng rỡ ngay nhỉ. Phan nắm bàn tay Ngân:

            - Cảm ơn anh đã có lời mời cho tôi gặp lại bạn tôi. Chúng tôi là bạn học phổ thông ngày xưa đấy các anh chị ạ. Anh Hoàng không biết nhỉ: hồi bọn bạn cùng lớp viết thư kể chuyện Ngân đi lấy chồng, tôi đang làm chuyển tiếp sinh ở Nga, mất ăn mất ngủ mấy tháng đấy. Xây bao nhiêu mộng thế mà đến nay phải gọi người là cố nhân.

            Phan cười cởi mở. Nét cởi mở chuyên nghiệp quá làm Ngân lạ lùng. Nhưng mà câu thơ xưa vừa lẩy, và bàn tay Phan đang bóp nhẹ tay Ngân đây là thật. Thật Phan chăng?

            Chồng Ngân cười hồ hởi, lại cũng nét hồ hởi đã được giới ăn cơm văn phòng chuyên môn hóa.

            - Vậy là người nhà của bọn tôi rồi. Em này, em nói chuyện với Phan nhé. Anh bạn trẻ của em thế là có cơ hội để khỏi phải trăm phần trăm với bọn anh rồi.

 

*.

 

         - Bao nhiêu lần bạn bè cưới hỏi đúng dịp Phan về thế nào mà bọn mình toàn trượt gặp nhau nhỉ - Phan mở lời - Hồi cưới Việt lần hai, Phan còn cắt phép bay về làm phù rể, không ngờ không được gặp Ngân.

            - Ngân sinh con đầu hồi đó mà Phan. Có được xem ảnh Phan hộ tống Việt hôm đó. Nhà dâu nhà rể đón nhau long trọng cứ y như nguyên thủ quốc gia gặp nhau ấy nhỉ. Thiếu mỗi màn ôm hôn. Chẳng ai ngờ...

         - Biết sao được Ngân. Có gặng hỏi nhau, Việt bao giờ cũng nhận hết mọi lỗi lầm về mình trong mọi cuộc hôn nhân của nó, mà lỗi lớn nhất với tất cả các bà các cô đi qua đời gã là gã không yêu, không thể nào yêu.

            Ngân cười nhẹ, nhưng giọng nói đột nhiên thẳng thừng:

            - Phan làm như... Chẳng lẽ thiên hạ ở được với nhau lâu bền là bởi yêu nhau lắm lắm sao?

            - Phan không biết. Nhưng rất có thể vì không yêu nhau hoặc không yêu nhau nữa mà người ta lại sống được với nhau. Chẳng hẳn là ý thức trách nhiệm gì đâu. Cái chính là biết mình muốn gì ở người kia. Việt ta đi tìm tình êu. Chắc gã tưởng vẫn còn có thể tìm nó ở đâu đó sau khi đã mất.

            - Thế thì quý quá chứ sao. Là nói cái ý nghĩ đó của Việt ấy - Ngân dịu dàng, nét cười thành xa vắng. Làm sao có thể kể cho Phan hay rằng Việt vẫn rủ Ngân đi uống cà phê, vẫn kể cho Ngân những ý định bỏ vợ và cưới vợ, nhưng chưa bao giờ Ngân hỏi, và chưa bao giờ Việt nói vì sao? Như là chuyện của ai ai, như là chuyện dĩ nhiên phải thế. Mà biết đâu, Phan cũng biết tất cả về những lần gặp gỡ ấy. Và tại sao Ngân và Phan chưa bao giờ gặp nhau như Ngân thường gặp Việt? Có phải vì không dễ dàng gì nói chuyện với nhau sau tất cả những tin yêu đã thầm lặng cho nhau, và bởi thầm lặng nên không thể trách cứ nhau một điều gì, dù Ngân đã buồn đến thế. Những đêm một mình lang thang, bóng Việt đằng xa, góc phố, nỗi buồn nhớ những dòng thư từ Phan không bao giờ nhận hay gửi nữa, mùi hoa sữa bồn chồn sương mưa đầu thu. Người đàn bà nghe sống mũi cay cay và phải cố lắm để luồng hơi rất nóng đang cuộn dần lên trong ngực không dồn lên cổ, không phụt ra nghẹn ngào.

            - Phan giờ về làm việc hẳn trong nước à? Có tính đưa cả gia đình về luôn không?

            - Còn gia đình đâu mà đưa về. Cô ấy nuôi hai đứa nhỏ. E chừng rồi không còn nhớ được tiếng Việt nào nữa. Hồi trước cô ấy và ông bà bên cô ấy bực Phan lắm vì nói với con bằng tiếng Việt. Họ nghĩ chả cần. Đằng nào chúng nó cũng mang nửa dòng máu tây, lại quốc tịch tây và sẽ lớn lên, sẽ học hành nơi đó. Kể thì mọi người cũng có lí. Nhưng mà Phan không thể nào chịu nổi cảm giác tiếng của mình chỉ vì đất nước mình không là gì trên thế giới này mà nó mất ý nghĩa là tiếng của cha của mẹ và cũng cần phải học.

            Ngân cười tinh quái:

            - Thì lại lấy vợ, sinh con, và lại dạy con tiếng Việt. Giờ là ông chủ Việt kiều yêu nước dùng rồi, hoa hậu còn khó chứ á hậu hay người đẹp người mẫu các kiểu thì khó gì. Chỉ không biết Phan có đi tìm tình êu như Việt không thôi.

            - Lại cái kiểu đó rồi. Ngân vẫn không thể dịu dàng với bọn Phan được à? Phan không phải là Việt. Vả chăng, tình yêu chưa bao giờ mất đi trong lòng Phan. Hoặc giả là người ta có thể yêu nhiều người khác nhau, nhưng bằng những tình yêu khác.

 

Phan nói và nhìn thẳng vào mắt bạn. Ngân im bặt. Nghe gió từ những mùa lặng im xa lắm thốc dần lên trong lòng. Những tần ngần thắc thỏm nào trong một mùa nắng hạ. Khoảng trời nào quang quẻ vì cơn bão sớm vặt trụi cành. Cơn giông nào đã nổi trên hàng tre bên xóm vắng. Ngọn gió nào thì thào trong vòm đa đầu ngõ lúc tiễn chân nhau. Và góc phố Bà Triệu Trần Hưng Đạo, vào khuya, xe nước mía lọc cọc dọn về. Lá sấu rơi đầy trên lối, xao xác dưới chân Ngân, như tiếng vọng những xao xác trong lòng Ngân về người đàn ông giờ đây đang ngồi trước mặt - người con trai đã cùng Ngân lùa chân vào đống lá sấu khô, đêm trước ngày đi năm ấy, không một lời thề ước, chỉ gửi thư rất đều, rồi bỗng dưng thôi. Chỉ có thể đoán vì sao, một điều gì không cụ thể mà ám ảnh bạn như là mong mỏi về ngày sống bình ổn, thôi những toan lo vụn mọn, và thôi luôn những day dứt về hạnh phúc. Ngân nhìn bàn tay mình, đốt khô khô tố tuổi, rồi ngẩng nhìn Phan. Từng đã có một ngày mênh mang đến thế sao? Từng có một ngày hiểu nhau tận cùng đến thế? Để bây giờ như thể chẳng hề xa?

 

*.

 

 

 

Chiều vào đêm, có bao giờ không thế

         Khoảnh khắc bất kì - anh đã bên em

         Lại mơ ước thanh xuân, lại cầm tay, lại sẽ...

         Lại sẽ nhìn nhau, lại sẽ nhìn.

 

Chiều đã mòn dần: bóng tối

         Bây giờ em ở đâu?

         Dĩ vãng trong anh không phải là dĩ vãng

         Anh vẫn còn mong em.

 

         *

 

        

            Họ vẫn có thể lại ngồi lặng im như thể thời quá khứ đang tiếp diễn nếu góc phòng đằng kia không rộ lên những tiếng cười đã bắt đầu sền sệt trong men rượu. Chồng Ngân trịnh trọng bê lại mấy chiếc li, màu rượu vàng sóng sánh quanh đáy thủy tinh trong vắt:

            - Nào em. Nào ông Phan. Mừng tình bạn hội ngộ. Mừng mối quen biết giữa tôi và ông có nền tảng gia đình vững chắc thế này. Ít thôi. Một chút men làm phép ấy mà, em đừng sợ. Em cứ yên tâm ngồi lại, anh vừa gọi điện về Osin bảo cho các con đi ngủ trước rồi.

            Con! Thoắt cái người đàn bà lại là mình, chỉn chu phép tắc, cựu giáo học, đương kim công chức kiêm vợ quan chức, chủ một ngôi nhà mà ở đó hai đứa trẻ dẫu có Osin lo liệu vẫn đang ngóng mẹ về. Trừ những khi phải đi công tác, Ngân bao giờ cũng ở bên giường con, lắng nghe những câu chuyện  về lớp chính lớp phụ của chúng, về những cuộc thi đua ở trường ở lớp, cười cùng chúng và xót xa bởi con phải quay hết sức mình trong cái guồng học và dạy từng ngày. Đứa con gái đầu lòng của Ngân nay đã mười ba tuổi. Chỉ một năm nữa thôi là nó sẽ bằng Ngân ngày vào cấp ba, ngày thân với Vĩnh, Việt, Phan. Một cách bản năng, Ngân vừa khao khát cho con sau này có được nỗi nhớ về những tình bạn đẹp, như là Ngân đã có, vừa sợ hãi, bởi biết rồi ra như thế sẽ đau đớn lắm. Dĩ vãng buồn và đẹp có thực ai cũng cần không? Và liệu con mình có biết rứt ra khỏi dĩ vãng mà sống cho nhẹ nhõm?

 

*.

 

            - Thế cái lô đất ấy ông đã lo được sổ đỏ chưa? - Chồng Ngân - Xây nhà ở đó giờ là lí tưởng. Tôi tính còn hay hơn khu nhà tôi bây giờ. Cứ bảo có nhà ở hồ Tây, nhưng hồ thì cứ mỗi ngày một hẹp vì đủ thứ nhà nổi nhà chìm, muốn nhìn xa hơn thì đủ thứ chóp tròn chóp nhọn chọc tức cả mắt. Mạn Phú Thượng xa hơn một chút, nhưng rộng rãi hơn, nhìn sông có triển vọng hơn nhìn hồ ông ạ.

            - Chưa xong anh ạ. Khu đất tôi mua thuộc mấy chủ, đâm phiền. Chủ đất đi lo sổ đỏ về kể vừa ra tới xã là người ta đã hỏi bán đất phải không? Tôi phải ứng tiền thêm cho họ nộp lệ phí công với tư. Mấy ông cán bộ xã nhà mình làm tiền kiểu này kinh thật.

            - Bạo phát bạo tàn ấy mà. Cả đời không có, đến lúc có thì ngập lụt, mấy ai tỉnh được hồn. Ngày xưa ông xây bố đắp con bồi, giờ nhiều vị bố xây con phá. Cũng mệt.

 

            Câu chuyện vừa ròn rã vừa chủng chẳng. Ngân im lặng, giữ một nụ cười vô cảm như mỗi lần tham gia vào chuyện làm ăn của chồng, bàn tay xoay xoay cái cốc. Giọt rượu còn đọng lại lăn lăn. Như là hổ phách trong cái vòng chú Thái cho hồi nào. Cái vòng đó hồi sắp thi đại học thiếu tiền học thêm Ngân đã tiếc rẻ đưa chú Thái gia công lại và bán hộ. Giờ nó ở đâu? Trên cổ tay ai hay đã tung toé dưới đất cùng sỏi đá. Còn chú Thái thì nghe nói vẫn ở chỗ cũ. Con cái làm ăn nay đã mua lại cả dãy nhà ngang phá ra xây biệt thự to vật vưỡng chẳng kém gì ngôi biệt thự cũ sát mặt phố, nhưng không cửa cuốn mà là ốp kính mặt tiền gần như toàn phần, dành hẳn một phòng tầng trên cùng, cửa số sắt dẹt bao chặt bảo đảm an ninh cho bà mẹ dở người. Vậy là những người chủ cũ đã không còn muốn nhớ. Cũng phải thế thì mới có thể đi qua từng ngày chứ. Chưa bao giờ Ngân hiểu ra ý nghĩa của thời gian một cách cụ thể và đáng sợ đến như lần nghe bố kể về sự đổi đời lần này của gia đình chú Thái. Chẳng phải là con người mà chính thời gian tạo nên trật tự, trước hết là trật tự trong lòng người. Vậy là cả hai biệt thự đều rất to, rất đẹp, nhưng không có vườn. Phố không vườn. Còn đâu những mùi huơng khuya khoắt, nồng nàn như những đam mê? Người ta nay không còn thích là người ở phố. Cứ bốc lên là xoay ngang ra tìm đất ven đô. Nhưng mấy người trên tiền để dám có ý thích như thế. Đời nọ đời kia sinh sôi và tiếp tục đùm túm lấy nhau trong những căn phòng xuống cấp. Như là trong cái khu tập thể cũ của Ngân nằm đối diện với cây đa mà nay chỉ có bố thỉnh thoảng đảo về thăm.

 

*.

 

         - Thế nào mà một ông chủ đất Phan mua lại là hàng xóm của nhà Ngân ngày trước đấy. Ngân còn nhớ ông vác súng đòi bắn tay hàng xóm trèo tường vượt giường vợ ông ấy không?

            - Tay nào bất khuất gớm? Ai dám đánh đồn kiểu đó khi không có tay trong nhỉ?

            Ngân nhíu mày. Chẳng có gì để có thể bình luận vô cảm thế, dù thật là đúng. Phan nhìn Ngân, không trả lời câu hỏi bâng quơ giữ chuyện của chồng Ngân, tiếp tục, như cố tình gọi ngày cũ trở về:

         - Ngân nhớ buổi trưa ấy không? Khiếp! Không thể nào quên cái mùi nhà vệ sinh thiếu nước hôm ấy. Chưa cần vợ lung tung hay tay nào vờn quyến vợ mình, chỉ cần ngửi cái mùi ấy đã đủ có súng dùng súng có dao dùng dao rồi.

 

         Mặt Ngân đỏ dần, lan xuống cổ. Có chút gì bẽ bàng lắm khuất lấp bấy lâu nay lì lợm thức dậy. Cái bẽ bàng lẽ ra không phải có ở tuổi mới lớn nhiều ao ước. Nắng hanh hao dịu hẳn khi rướn tới mặt bàn nhỏ giữa hai đứa, nhảy nhót trên trang sách. Những bông thạch thảo tim tím Phan mang tới trông càng thêm dịu dàng. Nhưng gió ngoài kia dừng ở đầu hành lang vắng không đủ thổi bạt đi cái mùi khủng khiếp đày đọa cư dân cả dãy nhà tập thể suốt mấy ngày giời. Mất điện. Nước không bơm lên được. Phuy nước dùng cho nhà vệ sinh cạn rốc, ai đó buồn tình quăng luôn cái gầu cao su thủng xuống đáy. Phòng vệ sinh nào cũng ngập báo. Nhân Dân. Hà Nội Mới. Quân Đội. Lao Động. Từng tờ từng tờ rải chồng lên nhau, che kín cái phần khai thối không tống đi đâu được của người vừa ra cho khuất mắt mà bước vào đó, ngồi xuống, nín hơi mà rặn, mà tống tháo cho nhanh rồi rút. Không ai dám chửi ai dù hầu như ai bước ra khỏi cửa phòng nhà mình cũng cất lời chửi đổng. Sau này Ngân đã buồn buồn nghĩ rằng nghèo quả khó đi cùng sạch, và đến một mức nào đó thì người ta đâm phá phách, bất cần tất cả, bất cần chính cái ngày mai của mình. Mọi sự lãng mạn của mọi câu chuyện hay ho đến đâu cũng biến khi hoặc chủ nhà hoặc khách vừa lúng túng vừa ý nhị xin phép ra ngoài đôi ba phút. Ngân có cảm giác cái mùi khai thối nồng nặc kia, được gia tăng độ đậm đặc nhờ nắng gió hanh hao đầu thu thấm sâu vào tường hành lang khu tập thể, làm nó sần sùi thêm ra. Ngân có cảm giác tóc tai mình, quần áo mình cũng bị ám cái mùi đó, không thứ chấp hay chanh nào xua đi nổi, đến nỗi mỗi lần mất điện mất nước, mà điều đó thì thường lắm, đi đâu Ngân cũng tìm cách đứng xa xa bạn bè. Nhưng không phải cứ vào lúc đó là ai có súng dùng súng ai có dao dùng dao như Phan vừa đùa. Chỉ một lần duy nhất.

 

*.

 

         - Chuyện gì vậy Ngân - Phan thì thầm khi nghiêng người qua vai Ngân trên cái bao lơn nhỏ lủng củng những dây phơi, rổ rá và xô chậu.

            - Không biết - Cô gái tiếp tục nhòm xuống đám người đang tụ tập bên bể nước công cộng. Cô đã nhận ra, không phải là cuộc tụ họp bình thường vì mấy con vịt chưa hết lông măng hay cá bể ươn rất cần nước mà mậu dịch vừa bán khắp thành phố. Người đàn ông mặt mũi tím ngắt đứng giữa vòng người là chú Phúc bố thằng Phi con Hạnh mới phục viên về. Có một sự im lặng nặng nề từ đám đông dâng lên, khiến cô gái nhãng hẳn cái mùi nặng nề bao phủ không gian

            - Không biết - Ông kia kìa, trước là công nhân nguội, đi B trong đoàn cán bộ công nhân nhập ngũ đầu tiên ở nhà máy đấy. Cả đoàn còn có bốn người. Chú ấy bặt tin suốt từ 72, sau 75 cả năm trời mới thấy ra. Chính trị viên đại đội tiểu đoàn gì đấy. Chạy vào lấy cho người ta kính trên bàn với. Còn những ai nữa kìa.

         - Ông ấy cầm súng. Một bà đang quỳ dưới chân. Bố Ngân cũng vừa tới kìa. Ai da. Có vẻ kịch tính đấy.

       

            Không giống những lần cãi nhau điển hình của khu tập thể. Chỉ thấy người từ các phòng túa ra. Và im lặng.

            - Im nào. Không cần Phan bình loạn. Thôi đưa luôn kính Phan đây. Ôi kìa ... cô Thi ...

         Thoắt cái Ngân đã hiểu ra sự thể. Chỉ không hiểu làm sao đến giờ chuyện ấy lại bùng ra, sau khi chú Phúc đã trở về đến cả năm trời và cả năm trời, sau bao nhiêu những chầu chực phỏng chừng của hàng xóm láng giềng, hai nhà ấy vẫn thản nhiên sống, những người đàn bà vẫn ra đụng vào chạm ở bể nước, những người đàn ông vẫn đứng bàn chuyện thời sự với những người đàn ông khác. Họ không nói với nhau, hờ hững, dĩ nhiên rồi.

            Nhưng họ vẫn là cái bếp lò không lụn lửa.

     

            Người đàn bà đang quỳ dưới chân người đàn ông nói gì nhỉ? Trách móc vợ anh ta đã đầu mày cuối mắt và hơn thế nữa với chồng mình ư? Xin tha tội cho chồng mình ư? Hay phân trần kể khổ. Chị ta vừa đứng dậy, ôm vai ba đứa bé kéo lại gần mình, mặt mũi ba mẹ con nhợt nhạt.

            - Anh Phúc! Tôi lạy anh chẳng phải vì tôi có lỗi. Nhà tôi không dám có mặt ở đây và tôi xin lạy giùm anh ấy để tạ tội với anh. Tôi đã nghĩ... suốt bao năm qua tôi đã tưởng anh chết rồi. Tôi không xin anh cái điều không ai làm nổi. Tôi không xin anh không căm hận. Nhưng bây giờ... Căm hận ai? Tôi và anh? Căm hận ai? Anh đã trở về và anh còn các cháu. Tôi cũng còn các cháu.

         Bao giờ cũng thế, hễ khu tập thể có chuyện gì là người ta lại thấy cái bóng gầy gầy lặng lẽ của ông Thản. Ông nhẹ nhàng xin lỗi xin lỗi  những người đang háo hức chờ xem vở bi kịch tiếp diễn, tiến sát tới gần người đàn ông.

            - Anh Phúc à, cất súng đi anh. Sung sướng chi cái chuyện phải mang súng về nhà. Cái chính là anh còn sống, còn các cháu phải chăm lo. Anh để cho chị Thi phải năn nỉ anh thế được sao? Chị ấy đâu phải người làm nên tội. Chị ấy nhà anh cũng không phải là người có tội. Không ai!

Không ai biết vì sao người đàn ông điềm đạm đó đột nhiên nói to đến thế. Giọng Nam bộ hiền hậu vỡ ra trong vòm họng của ông, làm im bặt những tiếng can ngăn đầy khích động và cả những tiếng cười vô tâm đang nổi nổi chìm chìm xung quanh. Có một người đàn bà suốt từ lúc ồn ào vẫn đứng sau lưng người đàn ông cầm súng, mặt mũi cứng lại trong dáng vẻ của người bị xúc phạm. Chị ta thoắt rùng mình. Có cái gì vẫn giữ cho chị ta vẻ kiêu hãnh bấy lâu nay đột nhiên nhão ra, tan chảy. Chị ta, và tất cả những người đứng đây đều biết tấn bi kịch này đã bắt đầu một cách hài hước như thế nào.

 

         Một ngày là quen với thành công

         Một đời là quen với thất bại.

 

         *

 

         Bốn mốt tuổi không còn cơ hội thành công sớm

         Nhưng vẫn còn cơ hội thành công muộn.

         Dĩ nhiên

 

         *

 

         Không phải bao nhiêu nước chảy

         Mà là bao nhiêu cầu

                             bắc ngang dòng nước cuộc đời

 

         Đời sang bước ngoặt

         Sau mỗi chiếc cầu

         Đi ngược thời gian

         Gặp niềm hối tiếc

         Đi xuôi dòng nước

         Gặp nỗi hoài nghi

 

         Ta tìm một bàn tay cảm thông vẫy gọi

 

 

            22.

 

        Nửa đêm, khu tập thể đã đầy người trở lại sau hiệp định Paris lịm đi trong giấc ngủ. Tiếng hét bắt trộm đột ngột và chói lói, giật mọi người ra khỏi giường. Người lớn trẻ con nháo nhào chạy về phía căn phòng sáng rực cuối hành lang tầng một. Nhà cô Thủy cô Thi. Đấy chính là cái câu lạc bộ đã được nhà máy cho thợ tới ngăn ra bằng gỗ dán. Bức tường giả chỉ cao quá đầu người là con đường phiêu lưu đầy thú vị cho trẻ cả hai nhà những lúc người lớn đi vắng. Ngân nhớ những ngày tháng vừa qua bom đạn ấy bình an lắm. Nhà nhà đi đâu gửi khóa cho nhau. Có ra chợ xuống sân cũng chỉ móc hờ cái chốt. Ngày nóng nực quá còn rải chiếu nằm sàn, cửa phòng mở thông thống, cánh đàn ông tụ bên cái bàn mọt làm chén nước chè mậu dịch, nói những chuyện vợ con vẫn kêu là trời ơi đất hỡi, còn đàn bà con trẻ nằm ngồi ngổn ngang nói chuyện với qua nhà nhau cho đến khi mỏi mắt mỏi mồm ngủ lịm đi. Ai dám vào ăn trộm. Mà có gì để trộm trong cái thời buổi gieo neo này.

 

            Không ai dám tin vào mắt mình. Cô Thủy, áo hở nách cắt lại từ cái quần lụa nát xốc xa xốc xếch, cầm trong tay một cái quần đùi đàn ông vải phin Nam Định nhàu nhĩ trông chẳng ra màu gì. Lập cập đứng bên cái giường rẻ quạt của mấy mẹ con là chú Vinh bố thằng Quyết thằng Chiến, là ông hàng xóm sát vách nhà cô Thủy. Cái áo may ô trễ trên đôi vai so rụt, đôi chân vốn đã hơi cong trong tư thế này càng cong khoẻ, và trên hai cái cẳng chân, cao, cao hơn nữa, một túm thịt, đen đen xám xám trông chẳng ra hình thù gì, lủng lẳng. Cơ bụng người đàn ông giật giật.

            - Bà con nhìn xem có khốn nạn không cơ chứ. Vợ nó còn nằm ôm con dại bên kia. Thế mà nó dám mò sang đây lúc đêm hôm. Này thằng đểu kia! Chồng tao đi chiến trường sống chết bao năm không phải là để cho cái thứ  như mày ở nhà làm loạn nhé! Để tao gọi cả vợ con mày sang xem cái mặt mày luôn thể nhé!

         Thằng Phi con đầu lòng của cô Thủy gườm gườm nhìn mẹ. Bà ngoại nó ngồi, im lặng, như không nghe không thấy, tay vịn thành giường run lật bật. Lũ trẻ con hàng xóm mới thức dậy đã tỉnh như sáo sậu, rú lên cười từng chập, chỉ chỉ trỏ trỏ. Hàng xóm chuyển từ trạng thái kích động này sang trạng thái kích động khác. Thật chẳng mấy khi được xem kịch không yêu cầu như thế này:

         - Ôi anh Thản. Vâng vâng mời anh vào giải quyết ạ. Vụ này là phải có Bao Công đấy anh ạ. Chị Thi đâu vẫn chưa ra nhận người nhỉ? Ai lại để người ta bắt chồng cởi truồng thế kia. May mà hôm nay trời mát...

            Tiếng đỏng đảnh. Tiếng ồ ề. Bố quay lại mấy mẹ con Ngân:

         - Em bảo mấy đứa về đi ngủ tiếp đi. Anh ở lại vài ba phút với ông Vinh rồi cũng về ngay thôi. Thật cái cô Thủy làm chuyện này chẳng ra làm sao cả.

 

*.

 

         Khuya lắm bố mới về. Ngân vẫn chưa ngủ lại. Con bé nằm im lặng nhìn ra ngoài khung cửa. Đêm trong và mịn quá. Ngàn ngàn sao run rất nhẹ trên nền trời đen thẫm. Ngôi sao nào của riêng nó, đêm nay con bé không muốn tìm. Câu chuyện vừa xảy ra, dáng bà ngoại anh em thằng Phi im lìm hóa đá, mắt thằng Phi gườm gườm, vẻ nanh nọc của cô Thủy, cái bụng lép phập phà phập phù và túm thịt xấu xí lòng thòng giữa hai bẹn của chồng cô Thi làm con bé vừa tò mò vừa kinh kinh. Nó sẽ sống lại ấn tượng ấy giữa thời con gái, sẽ bực tức vì điều ấy ám ảnh một đời con gái của mình, làm hao hụt ở mình khả năng mù quáng trước những tiếng gọi giống loài. Chính vì thế mà Ngân đã tự dưng nổi cáu khi Phan tò mò muốn biết nguồn cơn bi hài kịch đang diễn ra dưới sân. Có thể giải thích được chăng, rằng người đàn ông vừa ở đâu lọt tọt chui vào giữa vòng người, quỳ sụp xuống vái như tế sao ông hàng xóm súng lục cầm tay đằng đằng sát khí, phải, chính người đàn ông còm cõi đó đã một thời là dũng sĩ của cả vợ mình lẫn bà hàng xóm, và của những bà những cô nào nữa có ma biết... những đêm thời chiến tranh. Có thể vừa cười vừa kể cho Phan nghe cái bà mặt mũi sưng sỉa đứng sau lưng ông chồng cựu chiến binh, đúng vẻ quả phụ quyết tâm bảo vệ gương trinh liệt kia đã sản xuất bằng chứng tiết hạnh của mình cho ông chồng vừa có tin trở lại bằng cách hi sinh người tình đêm đêm của mình, là cái người đàn ông đang so vai rụt cổ lạy sống vợ chồng bà. Ông ta làm sao có thể ngờ cái đêm lẽ ra phải rất nồng nàn với người đàn bà hàng xóm, với xen vượt tường, chui màn, ghì siết nhau đến tưởng phải rú phải gào mà vẫn phải cố kìm những tiếng hổn hển bên tai bà mẹ, người vợ và thằng bé con người tình đang thức, đang rình, đang im lặng... cuối cùng lại thành ra thế.  Tiếng thét có trộm bất ngờ từ người tình của ông ta, vòng tay độc địa ghì cứng trong khi ông ta chỉ còn độc cái may ô ba lỗ rách trên người giữa tiếng chân rầm rập chạy tới sẽ là căn nguyên bệnh liệt dương từ bấy đến giờ của ông, là căn nguyên nỗi đau không có ngày ngưng nghỉ của vợ ông. Ông chỉ không biết rằng người đàn bà, đạo diễn, diễn viên màn bi hài kịch cũng mắc bệnh lãnh cảm trước chồng từ đó. Dù thế nào thì bà ta cũng không thể đánh thức nổi mình để bù đắp cho người chồng bấy lâu đã mỏi mòn vì gian khổ, vì cách xa và thương nhớ. Dù thế nào bà ta cũng không quên những đêm nhàu nhĩ, bừng bừng, mê muội trong sự vụng trộm công khai. Và, dẫu thế, trong hai căn phòng tập thể sát nhau, chỉ có điều bức tường bằng gỗ dán năm xưa nay đã được xây con kiến tử tế, bốn người đàn ông đàn bà vẫn sống lặng lẽ suốt cả năm trời, cho tới ngày hôm ấy, ngày mà ấn tượng về nó với Ngân bao giờ cũng sắc nét hơn bởi cái mùi nhà xí thiếu nước không biết bay đâu.

 

*.

 

         - Anh đưa súng tôi cầm. Thế... Thế. Bà con mình ai việc nấy đi. Có chuyện gì còn phải nói thì mình ngồi lại với nhau. Hay là mời các anh các chị lên nhà máy. Hay là qua nhà tôi. Anh Vinh đứng dậy đi anh. Chuyện người lớn anh Phúc anh Vinh à. Chẳng nên để bầy trẻ chịu khổ nhục theo mình mãi. Để làm gì.

            Tiếng ông Thản. Dứt khoát và mệt mỏi. Vòng người giãn dần. Rồi bất chợt sững lại. Từ cánh cửa sau lưng cô Thủy chú Phúc, bà mẹ cô Thủy bước ra, tay xách cái đãy mây lồng phồng quần áo, trên chặn cơi trầu. Bà cụ chậm chạp đến bên người con rể:

            - Tôi xin anh, anh Phúc. Mẹ xin con, con ơi. Bỏ quá cho mẹ không giữ gìn được gia đình con cho tới lúc con về. Con sống về được đến đây, gìờ phải sống tiếp con ơi. Thằng Phi bỏ nhà đi từ bấy đến giờ, con đi tìm nó về cho mẹ. Nó vẫn vật vờ ở Cửa Nam với ở ngoài ga đấy. Mang nó về kiếm việc làm cho nó, cho hết cái cảnh bố mẹ con cái còn sống mà như chết, mà không dám nhìn mặt nhau... Mẹ xin anh, anh Phúc... Thủy! Mày còn định giở quẻ đến bao giờ. Mày có qùy xuống mà lạy chồng mày hay không? Hay để nó biền biệt bao năm chiến trường giờ lại vì mày mà lại phải biền biệt vì tù tội. Ối con ơi là con ơi. Đồ voi giày. Tao đâu có ngờ đẻ ra mày cán răng nuôi mày mà rồi có ngày phải chờ người băm vằm mày ra như thế này.

            Bà cụ sụm xuống. Người con rể ôm lấy vai bà mẹ vợ, ứa nước mắt. Cái đãy mây rơi khỏi tay bà cụ, cơi trầu tung toé. Chú Vinh, cô Thi, cô Thủy đứng như trời trồng. Cô Thi ngẩng mặt nhìn trời, chan hòa nước mắt. Giữa cô và bầu trời xanh rất xanh kia vẫn là bầu không khí ô nhiễm khai thối ù đầu. Bên Ngân là Phan: 'Cái gì thế Ngân. Cái gì mà có vẻ đầy kịch tính thế? Giờ thì ...nhìn kìa, nhìn bà cụ với ông kia kìa, giống không, bức ảnh chụp ở bên bờ Thạch Hãn hồi bảy hai ấy, tù binh và hòa bình. Giống không?...'

 

          Người con gái vùng vằng. Mắt thiếu kính nhìn gì cũng thấy như gần lại làm cô bướt hụt, suýt ngã khi từ ban công quay vào phòng. Cău con trai theo vào, cười cười.

            - Không muốn kể thì thôi chứ. May mà không ngã. Phan có biết cũng không dỗ đâu.

            - Làm như chúa lắm đấy. Nghe thì biết chứ còn hỏi cái gì.

            - Ừ, nghe thì biết.

         Phan trở lại nghiêm chỉnh bất ngờ. Cái nhìn của Phan, Ngân muốn đọc ra ở đó một nét buồn buồn, và màu hoa thạch thảo tím như là sắp phai bạc cả, và cả cái mùi khai thối kinh người cứ lẩn quất khắp nơi mãi mãi còn lẩn quất trong ý nghĩ. Thế nên dù có vẻ dửng dưng, người đàn bà chợt nhận ra mình muốn biết về số phận gia đình hàng xóm cũ:

         - Nhà ông bà bán đất cho Phan ấy, sau khi Phan sang Nga học ít ngày thì cũng đi. Ngân cũng không biết đi đâu. Giờ có đất mà bán thì chắc cũng khá lên rồi.

            - Khá cực ấy chứ. Nếu vụ kinh doanh nhà thổ này thành. Nhưng nhìn qua cũng biết là trước đến nay sống chật vật. Ông chủ nhà ngày xưa trông oai thế mà nay lọm cọm rồi. Bà vợ thì... chả ai ngờ một bà lão lẩn thẩn thế mà có thời cũng tung hoành đến khiếp - Người đàn ông mỉm cười - Phan hiểu đúng không Ngân.

            - Đúng! Thì sao?

            - Chẳng có gì. Nhưng mà đôi khi Phan cứ ngạc nhiên vì hiện tại của một người nào đó, ngay của Phan chẳng hạn. Rồi Phan lại nghĩ thế cũng đúng. Trời cho mỗi người một cuộc đời để sống. Tiêu trước thì khỏi tiêu sau. Cứ ai sống gấp quá, sống hết những cảm giác lẽ ra phải để dành cho cả đời mình thì y như rằng bão nổi lên rồi là chết đuối, là lẩm cẩm, là đủ thứ. Nếu mình xét bằng con mắt bị xã hội hóa của mình.

            Chồng Ngân hỏi, giọng bất chợt trầm khác thường:

            - Của mình? Anh Phan tự nghĩ vậy ư?

- Tôi đã từng mong như thế anh ạ.

 

            Vẻ chăm chú, âm trầm buồn bã khác lạ trong giọng nói của chồng làm Ngân bất ngờ. Cũng bất ngờ là lời đáp thẳng thừng của Phan, dù lâu lắm rồi Ngân vẫn tự biết là hình như thế.

            - Còn bây giờ?

            - Ngân!

Phan bật ra, riết róng. Câu trả lời của Phan, như một tiếng gọi đầy trách móc. Phan gọi gì? Chồng Ngân nhìn hai người, giấu một vẻ băn khoăn kín đáo, cầm chiếc li của mình bước tới bàn mấy ông bạn đang bàn cãi gì đó om sòm.

 

 

            Ilmenau

  

            Bây giờ đã đến lúc viết về những bờ lau bên hồ thời xa vắng

            Sao quá bơ vơ trước ước hẹn đầu đời

 

            Bây giờ đã đến lúc viết rằng khi ấy

                             máu trong người chậm lại lúc đôi nọ hôn nhau

                                            chiều, tuyết, mưa.

 

            Bờ lau mọc vào xuân

            Đứa bạn cùng đường nay đã chết

            Vẫn biết còn sống còn cơ hội bất tử

            Vẫn muốn dang tay vẫy lối bạn về

 

            Thời xa vắng không giữ được em

            Khao khát quá nhiều đời người quá hẹp

 

        Trở lại

        Hai mươi năm sau

        Hồ

        Những bờ lau

        Dập dờ

        Xanh

        Lửa

 

  

         23.

 

         Tiếng gọi trách móc của người bạn cũ, vẻ im lặng của chồng đột nhiên cho người đàn bà hiểu ra mình cô độc biết chừng nào, ích kỉ biết chừng nào. Ích kỉ, trong sự cẩn trọng trước mọi số phận khác. Ích kỉ, trong thái độ tự tin và đầy trách nhiệm, như một công chức, một người vợ, một người mẹ. Từng ngày qua đi là từng ngày người đàn bà trẻ con đánh đắm mình vào một thế giới riêng, tự xây đắp cho mình, tự hào một cách tuyệt vọng về nó. Tại sao, Ngân tự hỏi, tại sao mình không một lần nhìn thẳng vào mắt mọi người, nói với họ rằng mình nghĩ gì về họ, mình yêu họ biết bao và mình khao khát điều gì. Tại sao Ngân không bao giờ hỏi họ nghĩ gì về mình, chờ mong điều gì ở mình. Hỏi, như một cách thế yêu thương cảm thông với nhau và với chính mình. Tại sao không? Không! Với chồng. Không! Với bạn. Như ít nhất là Vĩnh, Việt, Phan. Tại sao Ngân có thể nói với mọi người về những ý nghĩ quái dị nhất nảy ra trong đầu mình, hay những cảm giác không dễ gì thông cảm, mà một điều giản dị như thế thì không. Không bao giờ.

 

         Tự trong sâu xa, người đàn bà biết tất cả chỉ vì mình nhút nhát. Sự giản dị và khó hiểu của ngày tháng đã qua đè nặng lên tuổi nhỏ đau ốm, những bất thường câm lặng trong đời sống gia đình, những thiệt thòi, mất mát quá lớn và quá sớm, và cả những trang sách không đúng tuổi đã không cho con bé sống hết tuổi thiếu thời, trọn vẹn cùng tuổi con gái được quyền cả tin và dại dột. Người đàn bà buồn rầu nhận ra trái tim mình dường như mãi mãi mười sáu tuổi, cái tuổi lắm ao ước bao nhiêu và thiếu tự tin biết bao nhiêu, cái tuổi đã cay đắng nhận ra rằng rất có thể trong tay mình chỉ toàn là gió, rằng mọi mối quan hệ đều có thể trượt qua mình. Cũng bởi thế mà người đàn bà có cái lối vừa kín đáo vừa thẳng thừng khi nói về mình. Không ai hiểu đó là biểu lộ một ao ước tuyệt vọng của Ngân: được hiểu, được chấp nhận, được âu yếm.

 

*.

 

         Mười sáu tuổi con bé Hằng An bắt đầu làm đĩ. Đấy là lúc Ngân quay cuồng kiếm việc làm, nhận và chống quyết định phân công công tác. Đấy là lúc lòng Ngân ứ tràn hoang mang và thất vọng. Đấy là lúc Ngân chìm trong nỗi đau đớn không thể nói với ai rằng mình ngóng đợi ai, không thể nói với ai rằng mình yêu quý và căm ghét biết bao nhiêu cuộc đời này. Nói, một cách thật giản dị, về điều đó, rằng mảng tường tróc lở của một ngôi biệt thự trên phố vắng cứ giờ ấy lại rực lên một vạt nắng sao đẹp và bi thảm, rằng tiếng mưa lùng bùng trên tấm nilon quàng làm phép nghe rộn rã như một niềm vui bất ngờ và khó nói; Vòm cây cơm nguội lá trở màu đỏ sơ sinh trông non dại biết chừng nào; Dễ thương biết bao nhiêu bước chân sẻ nhỏ lẫm chẫm đi giữa tinh sương trên mặt phố, nhặt hoa sấu giấu bao nhiêu là nắng sáng bên trong. Nói, thẳng thừng, rằng cuốn sách mọi người dù đọc rồi hay chưa cũng tấm tắc thật ra là nhạt thếch; rằng những trò chạy chọt cầu cạnh xin xỏ này đang giết dần dần giết từ từ tuổi hai mươi. Nói, thẳng thừng, rằng những lời khuyên bảo nghe từ trong nhà ra ngoài phố sao mà thô thiển và trắng trợn, và những tấm gương lao động và chiến đấu ta hay tây báo đăng đài nói không chỉ không đáng tin mà còn quái gở và ngu ngốc. Mỗi ngày với Ngân bởi thế đều quen đều lạ, và cái chính là không hiểu sao chỉ làm Ngân buồn nản. Chiều nào cũng như chiều nào, hai chị em lo đánh ấm chén sạch sẽ, đun nước để nguội đổ đầy bình lớn bình nhỏ cho các ông bạn cứ tối đến là lục tục trình diện. Những người con trai đã đến với Ngân trong nỗi xúc động nào không bao giờ Ngân biết, chỉ biết rằng rất có thể họ bực bội khi đứng dậy ra về. Họ, trong một đêm giao thừa đã kinh ngạc nhìn nhau giữa nhà Ngân, khi đúng lúc tiếng pháo đầu tiên vang lên, cô chủ nhà đứng vụt dậy, lao ra ngoài ban công, đóng sập cửa lại sau lưng và khóc. Không ai biết Ngân đã lần đầu tiên yên tâm khóc to như thế nào giữa tiếng pháo chát chúa. Hơi mưa lạnh thơm nồng mùi thuốc pháo làm Ngân sặc sụa ho và nhờ vậy mà nín được. Rồi bước vào, tỉnh queo nhìn các ông bạn vàng đang ra vẻ vô tâm lắng nghe câu chuyện giữa Vĩnh và bố. Chỉ có Việt, Việt nhìn Ngân thương xót, cái nhìn thân thiết, bạn bè. Chỉ có Việt, sau buổi chiều nơi quán vắng vẫn đến tìm Ngân mỗi cuối tuần, không bao giờ tìm cách nhắc nhớ một điều gì, thủy chung và giản dị.

 

*.

 

         Chính thời gian đó con bé Hằng An bắt đầu thay đổi. Không còn nết na như hồi còn nhỏ, ru rú ở nhà, ngoài giờ học là loay hoay cơm nước đỡ cô Tam, chăm hai con gà nhốt trong cái chuồng bé như cái thùng gánh nước, rảnh ra giờ nào thì lại quấy hồ dán túi đựng mực hay đan găng tay bảo hộ - việc công đoàn nhà máy ưu tiên cho những gia đình khó khăn. Không bao giờ Ngân biết bằng cách nào mà con bé lại gia nhập vào mấy cái động sát vách nhà nó. Lúc đó cô Tam ốm. Khó khăn ư? Hay chỉ bởi vì con bé ao ước rất nhiều nhưng không bao giờ có kiểu tuyệt vọng như Ngân, bất cần ai hiểu, thông cảm và âu yếm? Một lúc nào đó, khi Ngân đã vào đại học và con bé Hằng An hình như dậy thì, ngực đầy lên, nước da rám nắng dường như tỏa sáng, Ngân bắt đầu thấy nó đổi khác. Không mừng rỡ vồn vã khi chị em gặp nhau ở bể nước hay trên đường ra chợ. Bắt đầu văng tục kinh hồn. Một chiều muộn, lúc đứng lơ ngơ bên cái chậu đầy ự quần áo trong khi chờ nước, Ngân thấy nó ngồi túm tụm với mấy con bé đáo để nhất ở ngõ. Nó nhìn Ngân, tỉnh như nhìn người lạ, tiếp tục câu chuyện dang dở. Bất chợt tiếng nó cao lên:

            - Mẹ tao lại vừa bắt tao đi nhận về một đống len với túi. Suốt ngày bà già kêu đau lưng, suốt ngày ngồi ôm cái đống ấy khâu với dán. Ngấy lắm rồi. Nhưng cứ chờ đấy, rồi sẽ có ngày tao đặt bốn cái tủ lạnh ở bốn góc nhà, không thèm bán đá, chúng mày đến tha hồ uống.

 

            Tiếng mấy con bé cười ré lên khiêu khích. Một bà, đúng là bà vẫn kéo trộm điện cho chạy tủ lạnh làm nước đá bán quanh cho hàng xóm chìa bàn tay xuống dưới dòng nước vàng màu rỉ sắt vừa ồng ộc tuôn ra, kéo vội cái chậu giặt ra khỏi vòi, làu bàu khe khẽ:

            - Rồi lại mẹ nào con nấy.

            - Phí cái công ông Thản chăm bẵm nó từ lúc chưa ráo máu đầu - Bà khác - Kìa chị, rũ ngay quần áo đi, nước vàng thế này là lại rửa ống ở đâu rồi, hỏng hết đồ trắng bây giờ - Chẳng biết mẹ nó dạy nó thế nào mà ít lâu nay có hôm mất điện ngồi hóng gió dưới sân em còn thấy nó nghiêng ngả với mấy thằng oắt con, vừa đi vừa bóp vừa sờ vừa cười rinh rích.

            - Bé bé cái mồm cô ạ. Động vào mấy con bà cô ấy chả bõ nó lôi cả cao tằng tổ tỉ nhà mình ra nó tế. Mấy con nhãi ấy cô nhìn mà xem, thật chưa kịp lớn hết đã già choắt lại. Tôi ở đầu hồi gần nhà nó, nghe mấy con đàn bà động đực bên đê gào rú mà lo cho con mình cô ạ. Con mẹ Tam không cẩn thận thì con ranh con nhà ấy chỉ cần đạp vách là dạt vòm được ngay. Cũng khổ. Một mẹ một con nuôi nhau từ bấy đến giờ, giờ nó lớn chưa chắc nhờ được con, khéo lại còn mang nhục. Nhà là cứ phải có đàn ông. Có vô tích sự đi chăng nữa như ông nhà tôi thì vẫn cứ làm mình vững dạ khi bảo ban con cái cô nhỉ.

 

        Ngân chưa thấy con bé Hằng An già choắt, chỉ thấy nó xinh. Đến là xinh. Vẻ trải đời sớm chưa in dấu trên đôi mắt to thỉnh thoảng hơi ngơ ngác của nó. Đôi môi có hai khoé nhếch lên như dỗi, như nũng nịu, lại như sắp cười. Cặp chân thì dài và có vẻ còn dài nữa ló ra hai ống quần luôn cộc. Vú chũm cau. Mông quả nhót. Nước da nâu hồng dậy lên, không còn mốc mốc như hồi nó còn bé. Ngân cũng chưa bao giờ thấy nó ngả nghiêng với thằng cu nào trong khu tập thể. Nên Ngân sững sờ khi nhận ra vẻ nanh nọc đầy khiêu khích trong đôi mắt nó vừa liếc về mình. Hay nó chỉ định lườm nguýt mấy người đàn bà hàng xóm đang tưng bừng bình phẩm.

 

Rồi sẽ chẳng bao lâu nữa con Hằng An thôi không tụ bạ ngoài sân khu tập thể cùng chúng bạn. Chế độ giá lương tiền làm mấy nhà cán bộ trong khu đột nhiên giàu bốc lên. Nhà máy chia đất chia nhà. Dân các phòng ban ở ngóc ngách nào trên phố nay về nhận đất xây nhà đùng đùng, vòm chóp kính nhôm, rồi từ những căn nhà mới ấy bắt đầu tuôn ra tiếng chó sủa, có khi cả đàn, ông ổng, nhóc nhách, mỗi khi cánh cửa sắt rít lên hay mỗi khi trong nhà có tiếng thử loa hát karaoke. Nhưng phần lớn dân cư cũ trong khu tập thể thì rơi vào tình trạng thiếu việc, và thế là cái ngõ vắng ngày một ngày hai biến ngay thành chợ, đông đúc từ lúc thành phố vừa tắt đèn đường. Đầu tiên là mấy hàng quà rong của mấy bà mấy cô công nhân về mất sức hay nghỉ thiếu việc. Cái ngõ nhỏ thơm nức mùi bánh cuốn, bún riêu, phở, bánh chưng rán. Mùi thơm béo bổ xộc qua đường, không át được mùi hương khói dưới gốc đa. Bên cạnh nhà hộ sinh, dưới gốc đa già giờ là trụ sở công an phường, nơi trước kia là xưởng chế biến mì sợi và sau đó là hàng phở của tổ phục vụ. Những anh cảnh sát phóng xe máy ào tới đó, dựng xe không cần khóa và sà xuống cái ghế băng không hiểu sao luôn thấy đặt trước cửa, hoặc dạt vào hàng nước ngay sát chỗ bà cụ bán hương, trầu cau và các thứ lá lẩu cạnh đó, trò chuyện vô cùng vui vẻ. Giữa họ và những người đặt niềm tin nơi gốc đa già có một khế ước ngầm: không phải kì thành phố ban hành các nghị quyết giữ gìn trật tự vệ sinh thì ai cúng ai khấn gì cứ việc. Từ bên đó, những người cảnh sát khu vực có thể thấy hết các đối tượng của mình ra vào ngõ nhỏ trong nhịp đời bình thường:Thằng bé hay ăn cắp vặt; Ông trung niên nguyên chuyên viên bộ vướng mấy vụ qũy tín dụng vừa ra tù sau bản án về tội chiếm dụng tài sản xã hội chủ nghĩa; Bà trí thức nỏ mồm thỉnh thoảng lại gây chiến với hàng xóm ít học xung quanh; Cô ca sĩ bỏ chồng mới về hỏa hồng một căn phòng trong khu tập thể, được xì xào phản ánh là khách đàn ông thường ở lại qua đêm. Hay con bé Hằng An.

 

 *.

 

           Không được như thế hệ Ngân, thế hệ mang toàn những tên Quyết Chiến Thắng Hùng Trường Sơn Hoài Nam Thủy Chung hừng hực tinh thần đại, đủ lớn để xin vào làm lớp kế cận trong nhà máy của bố mẹ lúc nhà máy còn được bao cấp, còn tiếp tục sản xuất không cần băn khoăn lắm về giá thành sản phẩm, lứa con Hằng An hết tuổi học phổ thông vào đúng lúc bố mẹ ngắc ngoải theo nhà máy nay thiếu việc làm mãn tính. Đứa lấy chồng đẻ con, người như cái dây rau muống ế của mậu dịch, già sọm ở tuổi chưa tới hai mươi. Đứa đi xuất khẩu lao động ở Nga, gửi một đống nồi nhôm phích nóng lạnh, bàn là hoa dâu kèm niken tùy khả năng liều lĩnh về cho nhà, rồi mấy năm sau trở về, quần bò váy ngắn, chiều chiều ngồi lê kể cho đám bạn ở khu tập thể về một xứ lạnh teo cả chim cả bướm, về những nhà máy mịt mù bụi bông sợi, không giấu niềm tự hào đã xuất ngoại, trong khi các ông bố bà mẹ than thở nỗi con đi lao động mấy năm trời, giờ xin việc ở đâu cũng khó bởi thợ may mà lại chỉ biết vào mỗi cái nách áo, thợ cơ khí lại hóa ra ngày ngày đẩy xe dọn dẹp trong xưởng máy. Những đứa còn lại như con Hằng An, bằng cách nào đó cũng xin được vào một trong những xí nghiệp đủ cỡ đầy ra ở thành phố, làm việc cầm chừng rồi cuối cùng nản lòng mà bỏ việc, ở nhà ăn bám vào nồi cháo thúng xôi của mẹ hay liều lĩnh chạy chợ, hi vọng vào cuộc đổi đời.

 

            Con bé Hằng An không chịu ăn bám mẹ. Mà cũng chả thể nào như thế được, bởi cô Tam ở cảnh thất nghiệp, cũng muốn bươn chải, sáng sáng làm thúng xôi ra ngõ. Nhưng sức khoẻ suy sụp làm cô cứ năm ngày ba tật, chả thể nào thức khuya dậy sớm được để cầm chân khách ăn quen hàng. Đấy là lúc ông Thản từ Nam ra thăm lại nhà máy và bà con khu tập thể lần cuối cùng, không bao giờ gặp lại đứa con đỡ đầu năm nào xa xôi lắm

 

*.

 

            Con Hằng An bắt đầu chạy chợ. Chạy về tận quê ngoại buôn rượu, rồi buôn vải vóc. Tuần hai lần nó đạp cái xe nữ xích long sòng sọc của mẹ về Bắc Ninh. Không biết nó chạy phòng thuế thế nào mà có vẻ làm ăn được như cô Tam thỉnh thoảng ra bể nước khoe. Rồi bỗng một thời gian mặt nó nhợt như người mất máu và không thấy nó chở mấy cái can nhựa đựng rượu, những bọc nọ túi kia căng phình phình trên chiếc xe đạp cà tàng nữa. Cứ sáng sáng là nó tã tượi trong bộ đồ mỏng dính và nhàu nhĩ, vắt vẻo đi từ cuối ngõ qua cái sân rộng còn chưa bị lấn chiếm xây cất ra mấy hàng ăn đầu ngõ, lê từ hàng này qua hàng khác không cần tính đếm. Có vẻ nó biết thừa mấy bà hàng vừa đon đả mời mọc phục dịch đã bỉ báng nó thế nào khi nó rời chân đi. Nhưng nó vẫn ngọt nhạt vui vẻ. Vui vẻ với cả anh công an tuần trước vừa vào nhà bảo mẹ nó nhắn nó ra đồn. Lại càng vui vẻ những lúc chỉ huy xích lô chở đồ đạc vào nhà qua cái ngõ chật ních người, giữa những cái nhìn tò mò, căng thẳng, và cả khinh bỉ của người ăn người bán quanh đó.

       

            Thời gian ấy cô Tam bắt đầu ra đường là cúi mặt và ít bắt chuyện với dân cùng cảnh thất nghiệp như mình. Và người đàn bà trẻ con cũng thôi không nói chuyện với cô hàng xóm mình từng bồng bế bao năm về trước. Ngân không thể nào hiểu nổi cuộc sống mới đó của con Hằng An, cũng như nó chắc vĩnh viễn không bao giờ hiểu những ao ước tuyệt vọng mà Ngân cưu mang lúc đó. Một chỗ làm đúng với nghề đã chọn và đã dùi mài. Một đồng lương để sống dù còm cõi thế nào giữa thành phố buồn thảm này. Một dịu dàng khác lạ. Khi đạp xe vào trường chờ nhận giấy phân công công tác. Khi lang thang một mình trong đêm sau giờ học ở trung tâm ngoại ngữ, học, không biết để làm gì. Khi chợt nhận ra phía trước trong ánh trăng suông phủ trên thành phố mất điện bóng bạn mình mà không muốn gọi, không thể gọi. Khi, giữa ngày tháng thảm hại đó, Ngân biết mình thực sự muốn gì và sống được chỉ vì cảm giác tuyệt diệu và cay đắng: Biết ơn tất cả: Ngày tháng cũ. Gia đình. Bè bạn. Vệt nắng vạch một sắc vàng nồng ấm trên những thân cây sao thẳng tắp đầu phố. Hay những ban mai nắng sớm nhảy nhót trên  những vòm lá chưa tan hết sương đêm. Hay những buổi trưa lòng nôn nao không biết vì sao, không nón mũ đạp xe một mình phố vắng. Hương hoàng lan nồng nàn tiếng dương cầm đêm nào khuya lắm. Mùi hoa sữa sau mưa. Mùi lá đốt quyện trong sương buông kín chiều trên phố... Cả mùi nước cống và rác hoà lẫn mùi hàng hương, hàng lá, hàng hoa đầu ngõ chợ mỗi sáng mưa phùn. Cả căn bệnh khốn khổ đã cho Ngân hiểu nỗi buồn khi mất và khi có một người bạn, một người yêu.

 

            Chiều cuối đông con bé Hằng An tìm đến vì thế với Ngân hoàn toàn bất ngờ. Lâu lắm rồi nó mới lại qua nhà Ngân. Hai chị em ngồi trên cái giường ngổn ngang chăn gối. Con Hằng An nghiêng cái túi. Những quả táo Thiện Phiến lăn lông lốc, xanh ửng trắng, căng tròn, bóng mỡ.

            - Muối ớt đây chị. Mà có khi chị đừng chấm. Nhỡ sặc ho thì khổ.

            Ngân cố mỉm cười. Mỗi một hơi thở đều làm lồng ngực đau thắt lại.

            - Em có việc muốn nhờ chị - Con Hằng An cắn rau ráu hết quả táo này đến quả táo khác - Chị xem này. Em có một lá thư.

         Một lá thư. Một lô tem be bé xinh xinh dán cả mặt sau mặt trước cái phong bì xanh nhạt. Bức ảnh một người đàn ông trẻ, tóc nhạt, đường nét xốp xộp như củ cải, đặc trưng cho vẻ hồn hậu Bắc Âu. Lời tỏ tình cùng đề nghị rành mạch về một cuộc sống chung. Đấy! Mơ ước không dám thốt thành lời của mấy cô bạn dã đeo đuổi cùng nhau mấy năm đại học. Chỉ có một đứa dám nói ra quyết tâm thực hiện mơ ước đó. Đứa thông minh nhất, ghê gớm nhất, xấu nhất mà lại lắm chàng mê nhất và đã bị đuổi khỏi trường vì tội được tuyên bố chính thức: lười. Ngân bất giác mỉm cười, một nụ cười méo mó vì mệt mỏi.

         Con Hằng An lắng nghe Ngân hổn hển dịch, mặt mũi hoàn toàn vô cảm. Táo đã hết và nó thò ngón tay chấm muối ớt, mút ngon lành. Vẻ thỏa mãn của nó làm Ngân giật mình. Chợt nhớ bao nhiêu trang tiểu thuyết. Chợt nhớ lời bàn vụng đã nghe nơi bể nước của mấy cô mấy chị về những lúc long thể bất an: Mắt rừng rực, lông mày dựng ngược, bạc phếch, dáng cứng lúc đi đứng nằm ngồi, thèm chua thèm ngọt loạn xị, lại hay gắt gỏng...

            Cô bé hàng xóm tỉnh queo, không cần biết đến vẻ hốt hoảng của Ngân:

            - Em có bầu mà chị. Chỉ thèm ăn thế này thôi. Chị muốn biết ai không? Hàng xóm nhà mình đấy. Năm ngoái còn lọt tọt theo em. Vừa rồi biết có con nó rúm tứ túc lại đến thảm.

            - Thế em định...?

            - Em định lấy chồng. Thằng Tây này chị bảo trông có tin được không? Bình thường em cũng chẳng nhớ thằng nào ra thằng nào. Lúc mất điện. Lúc hết dầu. Có nhìn ra được thì không tóc đen mũi tẹt răng vẩu chân vòng kiềng lại mũi gồ mắt rỗng y như  nước lã ấy mà. Nhưng mà thằng Tây này thì em nhớ. Đến tìm em suốt hồi nó còn ở Việt Nam mình, hiền lắm, buồn cười lắm. Thằng cu hàng xóm nhà mình cũng buồn cười. Dành dụm tiền từ khi nào chả biết, gõ cửa nhà em, lại còn lịch sự đi vòng qua đê, run như cầy sấy bảo yêu em. Bao nhiêu năm chả nói, lại nói đúng vào cái lúc em có còn là em nữa đâu. Kì khôi nhất đã mê gái còn hãi mẹ.

 

         Có cái gì đầy thất vọng vang lên trong giọng thẳng thừng bất cần của con Hằng An. Vậy là Ngân biết rồi. Thằng cu ở nhà đầu hồi phía nhà cô Tam, bố ở phòng tổ chức mẹ ở phòng tài vụ, lại vừa xin được đất đầu ngõ đang chuẩn bị xây nhà. Bố mẹ nó thì ghê, coi mẹ con cô Tam như muỗi. Thằng bé lại hiền lành, da nhợt và tính còn hơi ái ái nữa. Tính thế mê con Hằng An là phải. Mà có khi con Hằng An tính nết thế cũng mê nó không chừng. Thảo nào thằng bé học được, trượt Bách Khoa với điểm số xuýt xoát mà bố mẹ nó không để nó ở nhà thi lại đại học, cuống cuồng tống lên máy bay cho sang Đức xuất khẩu lao động vừa tháng trước. Ngân e dè:

            - Mẹ em nói gì không hả Hằng An?

            - Mẹ em thì có thể nói gì chị. Chỉ khóc là khóc- Con Hằng An cười - Mắng em đâu có được chị.

            Ừ phải. Cô Tam làm sao có thể mắng nhiếc đay nghiến gì con bé khi nó chỉ bước lại đúng dấu chân mẹ ngày xưa. Mà ít nhiều gì thì cũng có thể nói rằng nó làm vậy cũng vì cô. Người mẹ ấy dù đau khổ đến thế nào chăng nữa cũng sẽ chỉ có thể sống và yên lặng.

            - Nhưng mà... nó đi mất rồi. Em tính sao đây.

            Con Hằng An đứng dậy, lặng lẽ thu dọn đĩa muối và hạt táo, lo ngại nhìn Ngân:

            - Chị khó thở lắm à. Đừng nói nữa. Giá mà tự đọc được em sẽ không cho chị biết làm gì. Sống như chị sẽ chẳng thể khuyên gì em được đâu. Thôi chị nằm xuống đọc sách đi. Mà chị có nằm được không? Em cuộn cái chăn lại cho chị ngồi tựa nhé. Bọn em ban ngày ngủ chán cũng đọc đấy chị ạ. Nhiều khách để lại những cuốn hay phết. Nhưng mà sách nơi ấy em không thể nào đưa cho chị được. Cũng chả thể mượn sách chị mang vào nơi ấy được. Chị Ngân nhớ không, ngày xưa...

         Xoay tấm thân vẫn rất thon, con bé nhìn qua vai Ngân ra ngoài khung cửa sổ:

            - Khổ thân chị. Thời tiết này... Mưa phùn liên miên thế này... Người ta bắt đầu bán đào rồi đấy chị. Hoa chân chim thì đầy đường. Chị gắng khoẻ mà còn ăn tết. Chị bảo em cứ lên chỗ Hai Bà Trưng à? Chỗ giáp Triệu Quốc Đạt chứ gì? Đúng rồi! Dạo này em thấy gần nơi bán đồ thùng có mấy ông già đeo kính ngồi gõ máy chữ trên vỉa hè. Chị bảo họ cũng nhận dịch và viết những thư kiểu này à?

           Trước lúc khép cánh cửa lại sau lưng, con Hằng An đứng cúi đầu, sau đó ngẩng lên, rất buồn:

Lúc nãy chị hỏi em... Đứa bé... Chắc là em sẽ... Chị Ngân biết rồi mà. Ngày xưa mẹ em có bỏ em đâu chị.

 

 

 

Buổi chiều chạy đến cuối trời

                 bằng những dấu chân trần trên tuyết

 

            Trăng non

 

            Nhớ ơi những ngày gió bấc

 

            Em đã đến và đi

            Ta đã quên và xa

    

         Từng không biết sẽ bay cao tới đâu

         Giờ không biết sẽ rơi sâu tới đâu

         Mười năm hơn đời nào không lối rẽ

         Nhưng chiều nay trăng non soi những dấu chân trần trên tuyết

 

         Tuyết đầy những dấu chân

 

 

 

24.

 

        Trong căn phòng nhỏ ở nhà hộ sinh ngay sát gốc đa già, nơi mười chín năm xưa mẹ cô sinh cô, người con gái đã khóc ròng khi đứa bé của mình tuột vào đời. Bà y tá già nắm hai cái gót bé xíu của đứa bé, nhấc lên  phát đét đét vào hai bả vai bé bỏng của nó, rồi quay sang người mẹ.

         - Thôi khóc khóc mếu mếu nỗi gì. Nó tuột ra rồi là nhẹ bụng. Sướng thì phải biết có lúc khổ lúc nhục chứ. Nghe này, nghe thằng cu nó cười này. Bác bảo này, mai này ra viện, ôm con về xin bố mẹ. Còn cái giống nhà thằng bé, nếu là nhân đức thì họ sẽ nhận cháu nhận con, mà nếu bạc ác thì có van có cầu cũng chẳng được. Mặc mẹ chúng nó. Gốc gác con người bao giờ chẳng từ cái lỗ tè của mình mà ra hả con. Đẻ thì nuôi. Rồi thì biết phận mà bóp bụng nuôi con. Thời bây giờ, các mẹ trẻ mặc váy ư, mặc quần kéo phéc mơ tuya ư, rẹt một cái là váy lên quần xuống, hoá chẳng bằng thời các bà đây mặc quần dải rút, muốn gì cũng phải giữ cái dải rút vài ba phút để nghĩ tới chuyện sẽ bị chửi bị nhiếc thế nào.

            Con Hằng An khóc không dừng nổi. Bà y tá già mắng xa xả:

          - Đã bảo im đi. Gái đẻ máu non, khóc lóc cho lắm vào rồi sản hậu thì đời ra tóp. Đã làm cái kiếp đàn bà rơi vào cảnh này thì càng phải biết giữ lấy thân con ạ. Mày có tiền không đưa bác chạy ù sang đường mua cho bát xôi dằn bụng. Đẻ xong là bụng trống lắm. Khổ. Giá ngay tình thì có phải giờ này kẻ hầu người hạ rồi không. Thằng bé đẹp như thế này. Tao đang giờ làm, làm sao giúp mày được bát nước rau ngót trục cho hết rau bây giờ, lại còn bảy quả trứng luộc nữa, lấy đéo đâu ra tiền lo cho mẹ trẻ. Ngu chửa. Có nằm ngửa ra thì cũng phải biết bộ lòng thằng ấy nó nặng nhẹ ra sao. Bây giờ nó biệt tích. Mà nhà nó kiểu này cũng chả cần đếch gì đến thằng bé đâu. Cứ ngẫm lời tao. Mẹ mày có giận con sợ chồng thì giờ này cũng phải vào mà nhòm nhỏ con cháu xem sống chết thế nào rồi chứ.

 

*.

 

            Con Hằng An  nằm ngửa, hai bàn chân bắt chéo theo đúng lời chỉ dạy của bà cụ tốt bụng đến thăm cô cháu dâu vừa sinh con đầu lòng nằm giường bên cạnh, từng lúc lại nghiêng mặt cho nước mắt thấm vào vai áo. Nó không để ý tới mùi máu, mùi mồ hôi xông lên từ chính mình, từ giường chiếu xung quanh. Nó không nghĩ tới thằng bé. Trong trí người con gái lúc này là hình ảnh của chính cô, mười chín năm về trước, bé xíu, đỏ hỏn, mi mắt nhắm tịt, húp lên, đôi môi mỏng cong lên vì khát sữa. Không hiểu sao cô lại hình dung rõ ràng như thế, và những câu chuyện người lớn nửa kín nửa hở kể trước mặt về cái hồi mẹ cô điên điên khùng khùng trèo lên cây đa trước cửa nhà hộ sinh hát suốt một đêm, về người đàn ông đã chăm chút cô khi người mẹ tưởng sẽ chết sau khi đẻ vì sót rau, đã cho cô một cái tên như một nguyện cầu công khai về hạnh phúc, một cái tên không như cuộc đời của cô... tất cả, trở về, sáng rõ, thực và xa vời. Người con gái khóc, không thể nào dừng được, không phải vì thương mình, mà là thương đứa bé ấy, đứa bé đã được sinh ra như thế, đã sống qua bao nông nỗi vượt quá tuổi mình mà vẫn ngỡ là bình thường. Bà y tá già tốt bụng hỏi đi hỏi lại:

            - Mày định đặt cho thằng bé tên gì? Chọn cho nó cái tên đèm đẹp vào mày ạ, biết đâu đời nó mai sau sáng láng. Đừng có vì hận thằng bố nó mà thành ra suốt đời gọi con lại là réo hận trong lòng mình lên.

            - Cháu gọi nó là Thường An. Bố nó là Bình, cháu là An. Bố Bình con Thường chắc rồi yên bác nhỉ.

        Bà y tá già bỏ đi, thở dài. Thằng bé Thường An và mẹ nó không biết rằng bên kia gốc đa già trong khu tập thể chiều qua có một cuộc gây lộn lớn. Bà nội và bà ngoại nó, những người đàn bà hàng xóm gia cảnh khác nhau, vốn đã không ưa nhau, vào buổi chiều thằng bé ra đời đã suýt đánh nhau.

 

         Chính vì cuộc chửi mắng nhau dậy trời ấy mà Ngân vốn vẫn được hai người đàn bà quý hoá mang ra làm tấm gương sáng cho con cái trong nhà đã không dám bước qua phố sang nhà hộ sinh thăm con Hằng An. Từ buổi chiều con Hằng An tìm tới nhờ dịch hộ bức thư tình của thằng cu Tây tăm tia nó, Ngân rất ngạc nhiên vì mình không hề áy náy gì khi nghĩ tới chuyện của nó, không cảm thấy ghê ghê vì cuộc sống lấy lỗ làm lãi của nó, không thấy khinh bỉ vì những tính toán trắng trợn của nó. Thật lòng Ngân còn mong cho nó túm chặt được thằng Tây mũi củ cải si tình và hiền hậu đó để ra đi, để khỏi phải sống lại tất cả những nông nỗi khổ ải của cô Tam bao nhiêu năm về trước khi không chồng mà chửa. Con Hằng An đáo để và cứng rắn hơn mẹ, nhưng đứa bé sẽ ra sao nếu mẹ nó nuôi nó bằng cái nghiệp lấy đêm làm ngày. Chỉ nghĩ đến thế đã thấy rùng mình, quặn cả lòng vì cảm giác bất lực, khinh ghét mình vì bất lực.

 

         Sẽ không bao giờ Ngân nói được một lời ân hận với Hằng An. Buổi sáng rời nhà hộ sinh, ôm con qua phố giữa tiếng gào thét chửi rủa của bà nội bà ngoại đứa bé, giữa những con mắt đầy vẻ tò mò độc địa, cô gái đã không tìm ánh mắt Ngân lúc đó đứng ngay đầu ngõ. Giá người đến đón Hằng An không phải là một cô điếm đồng nghiệp của nó, liệu Ngân có đủ can đảm giơ tay đỡ lấy đứa bé giữa thanh thiên bạch nhật, giữa tiếng xì xào không thèm giấu giếm của đám người bán người ăn quen biết? Không bao giờ Ngân dám trả lời câu hỏi này. Có những điều người ta sẽ phải ân hận một đời vì không bao giờ làm được.

 

         Con Hằng An mặt vàng như nghệ, trao đứa bé cho bạn, đi vào ngõ. Khuôn mặt nó, quen thuộc với Ngân biết bao nhiêu qua cái lối hơi hơi cúi, đuôi mắt dài nhìn nghiêng nghiêng, cặp môi cong cong như nũng nịu như giận dỗi, từ bé trông đã rất đỗi đàn bà và là nỗi sợ hãi không lời của vô số bà trong khu tập thể... giờ ngẩng cao. Đuôi mắt ướt lúc nào cũng như đang bị hút đi trong một cái nhìn nghiêng vì thẹn thùng kia giờ rướn lên, căng thẳng, kiêu hãnh và thê thảm. Cô Tam vừa chửi con gái, vừa giằng lấy cái bọc đùm thằng cháu, vừa cười: 'Cha con mẹ mày. Bà lại cứ tưởng tòi ra thị mẹt thì bà cháu mẹ con khổ không biết đến bao giờ.'  Đám người ăn người bán vừa nãy còn tò mò nhìn ngó, xì xào bình phẩm đột nhiên cười râm ran:

         - Mẹ Tam lên chức sướng nhé. Bà ngoại muôn năm.

         - Rậm người rồi ra rậm của chị Tam ơi. Về giúp con nuôi cháu, mai sau nó cúng vái cho.

         - Nhà Hải Phương không ra nhìn mặt cháu đích tôn à. Giờ chửi bà nó, oán mẹ nó, ruồng bỏ nó, biết đâu sau này thằng bố nó không tòi ra thêm được con củ nào cho ông bà nội thì lại ngồi đó tiếc mà chả làm gì được.

 

         Ba người đàn bà và đứa bé tiếp tục đi sâu vào cái phần đuôi chuột của ngõ, thản nhiên. Bà nội đứa bé mới ra đời đưa tay thít chặt lại cái khăn mỏng choàng trên đầu, cúi mặt bước. Ngân đứng đối diện nhà hộ sinh dưới gốc đa, xe cộ nườm nượp qua lại, mấy chiếc lá vàng tần ngần rơi, gió vô ưu trên cao lắm. Bất chợt nhớ. Gốc đa này, những ngày sau chiến tranh, một xác trẻ không tên. Gốc đa này, cũng những ngày tháng đó, cô Tam hết bình thảo lại sa mạc chênh, rồi cò lả. Gốc đa này, con Hằng An đã theo bọn Ngân đi dính ve và tè trộm. Và bây giờ, ở đó, nó sinh ra một cuộc đời, một cuộc đời không biết rồi ra thế nào. Ngân nghĩ lan man về đám bạn vừa mới cùng một giảng đường với nhau nay tứ tán, về mình, về những quyết định phân công công tác không thể nào thực hiện được, về cái sổ gạo trong đó hai chữ sinh viên cùng dòng với tên mình đã bị gạch bỏ, và con số 15 kg đã bị sửa thành 13, 5 kg. Không biết rồi ra thế nào!

 

         Đâu rồi những cuồng điên, đam mê, gào thét

         Đâu rồi những vật vã, chia li, hoảng hốt, lo âu

         Đâu rồi tất cả đâu rồi

         Những ngày cháy khát bên nhau?

 

         *

 

         Tuổi đã ngoài bốn mươi

          Thấy đời toàn chắp vá

Như mối tình đang say đắm này đây

Có thể nàng sẽ bỏ hắn để theo

Ngưòi đàn ông khác

Có thể hắn sẽ bỏ nàng để theo

Người đàn bà khác

 

Có thể chỉ chán mà buông nhau

 

*

 

Những mẩu vụn thơ

Như những mẩu vụn bánh mì

Không đủ nuôi ta sống

Nhưng dù sao...

 

 

 

Một năm sau, con Hằng An để con lại cho cô Tam, đi Tây. Cả khu tập thể ú ớ trước đám cưới của nó, có một không hai. Cậu rể Tây, râu quai nón cạo nhẵn, mắt nhạt tóc nhạt lông mày nhạt và mặc dù tuổi còn trẻ đã lâm vào tình trạng rửa mặt thì lâu gội đầu thì chóng khom người chui ra từ cái xích lô gọng vàng rèm đỏ, hùng dũng đi vào nhà cô Tam, thân hình cao to ngó chật cả ngõ. Con Hằng An bé nhỏ đứng bên cạnh nhắc vở và người đàn ông Bắc Âu khó nhọc nói những câu tiếng Việt rời rạc không dấu. Cô Tam cuống quýt khi ông rể Tây khom người, chắp tay:

- Con chao me. Con xin lam con re me. Con yeu em Hang An cua me. Con xin cuoi em Hang An. Hom nay con dua bo me con den tham me.

 

         Sau này Ngân nghe cô Tam kể lại rằng một trong những điều kiện mà con Hằng An đưa ra với cậu chàng Tây là phải làm đám cưới đàng hoàng, có mặt bố mẹ chồng. Ông bà cụ người Thụy Điển mặt mũi phúc hậu bước vào ngõ nhỏ đầy rác và ruồi mà không hề nhăn mặt. Ông con rể tương lai, không biết đã thụ giáo tiếng Việt từ bao giờ lần này không khom lưng mà cúi cổ về phía bà mẹ vợ:

         - Bo me con noi nhan dan Viet Nam song kho qua. Kho nhu the nay ma chien thang America. That anh hung. Bo me con noi ong ba rat kham phuc.

         - Thế cô nói gì với họ? - Mẹ.

            - Thì bác bảo em biết nói gì? Nhà cửa con Hằng An đã gọi thợ tới sửa, đã mua sắm đồ đạc lỉnh kỉnh. Nhưng mua về bày đấy nó lại bảo em là thằng chồng nó bảo ở bên xứ chúng nó tủ lạnh để trong bếp chứ không bày ra như mình. Nhìn ảnh nhà cửa bố mẹ nó em nghĩ ông bà ấy phục mình thì phải quá. Chị tính bao nhiêu năm em ở trong cái xó đấy, ngửi đủ thứ cứt người cứt lợn cứt gà, ngửi nhiều đến nỗi bây giờ mà đi vào ngõ không thấy cái mùi ấy khéo lại đâm sợ có chuyện gì mà vẫn sống thì đúng là giỏi còn gì. Giờ đã đến nước này, thôi thì cũng chỉ còn biết mong con bé sang xứ người yên ổn với thằng ấy rồi rước nốt con nó đi. Em cứ nghĩ thương thằng bé con chị ạ. Giá mà đằng nhà thằng bố nó biết quý người, em sẽ khuyên con Hằng An để con lại cho bên nội... Thì em còn có chỗ đi về thăm nom máu mủ mình.

 

*.

 

         Cô Tam khóc. Bao nhiêu lần nước mắt đã chảy trên gò má giờ có da có thịt nhưng đã đến tuổi nhão kia? Thời gian ấy là thời gian Ngân nhận phân công công tác về Hà Sơn Bình, về đúng Hà Tây cửa ngõ Thủ đô. Chạy chọt thêm một chặng nữa mới được dạy ở trường huyện gần miền quê Ngân đã về sơ tán những năm bé tí. Tuần tuần Ngân đạp xe hơn ba chục cây từ trường về nhà. Đoạn đường chẳng bao xa nhưng cứ như dẫn tới một thế giới khác. Khi đi, là những ngôi nhà kiến trúc vừa phô phang vừa đơn điệu của mấy thị trấn thị xã, là những đầu hồi lởm chởm gạch vỡ chìa ra sát đường, mùi rạ mục và mùi chuồng lợn, những dáng xoan vừa xanh lại giữa chiều xuân. Khi về, mặt trời xiên khoai sau lưng, Hà Nội lên đèn, thoáng mùi hoa loa kèn ngày chớm hạ, trăng trong mưa lạnh đêm mất điện, lòng không buồn không vui, rỗng. Dù mỗi dịp về là lại tụ bạ cùng bạn bè nói cười mỏi hàm.

 

         - Hằng An sống thế nào hả cô? Cô có thư cho em nói cháu gửi lời thăm nó với nhé.

         - Em nó mới làm giấy tờ cho cô với thằng bé cháu ạ. Chắc ít ngày nữa cô đi. Thế mày có cưới sơm sớm lên cho cô dự được không cháu? Chứ không bà lão đi chẳng biết bao giờ về được.

 

        Cưới? Ai? Chỉ nghĩ đến chuyện sẽ phải chung giường chung mâm mỗi ngày với một người mình không yêu dẫu rằng mình được mê đắm, chỉ nghĩ đến chuyện sẽ phải vật vã hơn nữa vì cơm áo, đã hoảng hồn. Hoảng và buồn, bởi biết vậy và cũng biết rằng rồi cũng phải qua bước ấy như bao nhiêu cặp vợ chồng bạn bè. Những ngày đó cô gái đã thôi không còn nghĩ được tiếp rằng chỉ cần biết có một tình yêu đích thực, dẫu không bao giờ có cho riêng mình, thế đã là hạnh phúc. Bao nhiêu cuối tuần từ nơi làm việc trở về cô gái đã dừng xe ở một quán nước chỗ Ba La Bông Đỏ. Quán nước vô duyên. Mấy cái kèo cái cột nứa, sau trước chẳng xanh chẳng đỏ một bờ rào râm bụt hay cúc tần ô rô. Trước mặt: đường cái. Sau lưng, con đường lổn nhổn gạch đá dẫn vào trại lợn giống. Người đàn ông ngồi sau cái chõng tre bày mấy cái thẩu thủy tinh đựng kẹo dồi chó, kẹo vừng kẹo lạc, bánh rán tẩm đường. Anh ta còn trẻ, lại đẹp trai, chỉ nội đôi mắt biết cười đã đủ níu chân người, chưa nói bánh rán hàng nước này ngon dễ sợ. Đôi mắt...

 

*.

 

         Có cái gì quen lắm trong cái nhìn. Ngân sẽ nhận ra vào một buổi chiều, khi ngồi sau cái chõng tre rót nước cho Ngân là một người đàn bà:

            - Anh đâu rồi chị? Mọi lần em đều thấy anh bán hàng.

- Cái cẳng cô ạ. Nó lại đau. Chả hiểu sao. Thời tiết mấy hôm nay thì có mưa gió ẩm thấp gì đâu.  

Người đàn bà nhã nhặn, nhưng không mặn mà.

            - Thế... Chắc chị phải giúp anh hàng ngày dọn hàng từ trong làng ra đây chị nhỉ? Cũng xa...

            - Không cô ạ. Cô có ăn thêm cái bánh rán không? Nhà tôi ngay trong trại lợn kia kìa. Tôi làm việc trong đó cô ạ.

            Chỉ đến lúc đó Ngân mới để ý dáng dấp của chị chủ quán. Mắt hiền và sáng. Búi tóc mượt và dày, không có những sợi xơ xơ vì cháy nắng. Cả cách ăn mặc. Là của người nhà nước, sơ mi, quần lụa, lại còn đôi guốc nhựa dưới chân. Nói năng chừng mực, khác hẳn kiểu vồn vã cởi mở của mấy chị nhà quê giỏi xoay xỏa việc nhà.

            - Em hay ghé hàng nhà ta. Mọi ngày chỉ có anh bán hàng. Không hiểu sao em nhìn anh thấy quen ghê lắm.

            - Cô chắc người Hà Nội? Vợ chồng tôi không phải dân vùng này cô ạ. Anh ấy quê trong Vân Ngoại. Tôi thì xa hơn một chút. Ở gần Khu Cháy. Phải rẽ Vân Đình hay qua quê nội các cháu tới Ba Thá, qua cầu rồi xuôi theo đê. Cô có nghe mấy cái tên ấy bao giờ chưa?

            - Chị là... Chị có phải là chị Thục nhà ông Lẫm? Ôi giời ơi chị Thục! Bây giờ thì em biết sao trông anh quen thế rồi. Em là cháu bà Khoản ở làng đây chị. Ngày xưa em về sơ tán, chị nhớ không? Chị vẫn dẫn em đi xem chèo ngoài bãi, vẫn cho em mượn Trích giảng văn học của chị để đọc ấy. Ôi trời! Sao em lại không nhận ra chị ngay nhỉ? Thế nhưng mà ngay hôm đầu ghé hàng em đã thấy anh quen quen. Có phải ông đại đội trưởng của chị ngày đấy không?

Người đàn bà sững sờ nhìn khách:

            - Mày là con Hà Nội ngày ấy đấy hả?

            Nụ cười nụ mếu, người đàn bà chủ quán hối hả:

            -  Làm gì mà hay ghé hàng nhà chị hả em? Giá hôm nay chị không ra trông hàng đỡ anh thì chả bao giờ chị em gặp nhau. Đúng chú bộ đội của mày đấy. Hồi ấy anh ấy đóng quân ở làng mình. Chao ôi! Ngày đó mày còn như cái kẹo mút dở... Để chị gọi cháu ra trông hàng... Nhà ngay phía trong đây thôi, ở đây ăn với anh chị và các cháu bữa cơm. Giờ mới xế xế, năm sáu giờ đạp xe ra Hà Nội cũng không sợ muộn, càng đỡ nắng

         - Thôi thôi chị. Để tuần sau đi chị. Em còn qua lại đường này luôn mà. Em dạy học trong đó mà chị. Bên kia sông là Ba Thá, trường em bên này sông, chỗ chợ Thá đấy. Em có vô khối học trò bên sông, cả dân Vân Nội Vân Ngoại nhà chị nữa. Thế chị làm gì bây giờ chị? Hồi hết đánh phá, ra Hà Nội rồi, thỉnh thoảng về làng, em nghe chị đi học xa. Bà em chẳng biết trường nào, sau này bà em cũng ra Hà Nội, thành ra...

         - Chị học Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp 1 ở Gia Lâm ấy. Chị là kĩ sư chăn nuôi, giờ làm trại giống ở đây. Tao nghe dân Hà Nội giờ tăng gia sản xuất như điên. Ra nhà bà chị chồng ngoài ấy, ở khu gì nhỉ? - Giảng Võ Thành Công gì ấy, đi vào nhà xí còn phải vác theo cái roi xua lợn.  Em lấy chồng chưa? Nhà có chăn nuôi thêm thắt gì thì khi nào qua đây chị chuẩn bị cho đôi lợn giống nghiêm chỉnh mà đèo về.

 

*.

 

         Một đôi lợn giống nghiêm chỉnh đến thế nào chăng nữa cũng chưa bao giờ có trong chương trình sống của Ngân. Quá đủ với Ngân cái mùi phân lợn phân gà, mùi thức ăn cho lợn cho gà bốc hơi nồng nồng chua chua từ những năm tháng ấy, phảng phất đầu phố cuối ngõ, hùng hổ xộc thẳng vào mũi khách khi gõ cửa một căn hộ lắp ghép. Hàng xóm không có chỗ chăn nuôi hoặc không muốn chăn nuôi thêm thắt kiểu đó sống dở chết dở vì cái mùi đồng quê không mùa ấy giữa thành phố. Ai cũng biết đấy là chỗ dựa vật chất và tinh thần của mỗi nhà những lúc gia đình có việc: ốm đau, tết nhất, giỗ chạp, ruột thịt ở quê gặp phải kì thất bát thóc cao gạo kém. Nên chẳng thể nào than vãn hay trách cứ gì nhau. Nhưng không làm sao Ngân dẹp đi nổi nỗi hoang mang khi tạt qua nhà cậu bạn trai từng nhòm ngó mình, vừa câu trước câu sau bà mẹ bạn đã ra nhắc ông con lúc nào rảnh rỗi thì đi đèo nước vo gạo về cho lợn làm cả hai cùng lúng túng. Hay khi buổi trưa buồn tình tới nhà cô bạn học cũ thấy bạn cúi mặt thái rau cho gà. Bạn vốn kĩ sư công trường thủy điện sông Đà, lấy chồng đồng nghiệp và mới rủ nhau bỏ việc về lại Hà Nội, loay hoay chưa biết sống ra sao. Cái xoong nhôm móp mất vung, dáng bạn nhếch nhác trong bộ đồ mặc nhà đã tàu tàu, và câu chuyện miên man tiếng cười giữa những người trẻ tuổi chưa có việc hay vừa bỏ việc làm cho Ngân nhiều lúc vừa sợ vừa nản. Phan đã thôi không thư từ lâu rồi. Vĩnh, sau buổi chiều ngỏ lời cay đắng đã thôi không đến thường xuyên nữa. Chỉ còn Việt, nhẫn nại, bình thản, như đam mê chiều nào đã vĩnh viễn qua rồi, lúc đến, lúc đi, bao giờ cũng kịp thời đúng kiểu một người bạn thân thiết. Phan, không ai biết thực ra đang sống như thế nào ở đất nước xa xôi kia. Vĩnh, đã yên thân ở một chỗ làm tại bộ ông bố đang là thứ trưởng. Việt, không có một ông bố và bà mẹ mạnh nhưng may mắn được giữ lại trường, chúi đầu học ngoại ngữ tính đường xuất ngoại làm phó tiến. 'Để cân bằng lực lượng.'  Việt đã cười cười trả lời Vĩnh khi cả lũ tụ tập nhân ngày sinh của Ngân. Cân bằng lực lượng? Với ai? Cả lũ cười ầm ầm, căn vặn. 'Thì tại là vì mấy đứa cùng năm ở lại trường đều hơn mình ấy mà. Toàn cháu ông, không thì cũng là con mấy ông thầy cả. Thầy dạy khoa này thì con lại ở khoa kia, rút cục bố con đồng nghiệp cả.' 'Vậy mới sướng, chứ như Ngân hồi nào ngâm ngợi cha vẫn trong chiến trường con đã xin nhập ngũ một hòn đá Trường Sơn cả hai cùng gối ngủ nghe mãi nẫu hết cả người' - Một cậu bạn. Cô bạn gái cậu ta rụt rè lườm bồ: 'Thế sao bố em bảo anh làm hồ sơ xin về viện Kĩ thuật quân sự anh hớn ha hớn hở làm ngay?'

         Ngân dàn hòa:

            - Bố vợ con rể đồng ngũ thì cực kì còn gì. Tuấn cũng ở lại trường chứ gì? Khiếp! Học gì không học lại học Vũ khí. Nếu anh Tuấn không về được viện bố Thu thì làm sao hàng tuần từ Hương Canh về đưa Thu đi chơi được.

 

         Cô bé phụng phịu em đến chơi với chị. Không hiểu Tuấn nghĩ gì mà thấy bàn tay ông bạn kín đáo cầm lấy những ngón tay người yêu. Vĩnh lặng im từ lúc nghe Việt tuyên bố học để cân bằng lực lượng và Ngân ngần ngừ không dám kể cho các bạn nghe một chuyện buồn nóng hổi của mình. Vừa buổi trưa nay thôi Ngân nhận được lời từ chối tiếp nhận của một trường đại học mà trường Ngân giới thiệu sang xin việc. Cậu cán bộ giảng dạy ranh con, có lẽ chỉ hơn Ngân một hai tuổi, nhìn Ngân thương cảm rồi hỏi:

         - Thế bạn về đây thì ai đỡ đầu?

         - Không ai cả. Anh biết không? Không ai cả - Ngân cười - Chỉ có mỗi cái cổ tôi đỡ cái đầu tôi thôi anh.

         Phải, chỉ với cái cổ đỡ cái đầu, Ngân làm sao cạnh tranh được với những người như cậu ta. Thi trượt đại học ở Hà Nội thì xin về học ở một trường đại học địa phương mới thành lập, rồi lại xông ra Hà Nội với một tờ giấy viết tay gửi cho đồng chí hiệu trưởng: 'Cháu... đã tốt nghiệp đại học, có nguyện vọng làm việc ở chỗ anh. Anh xem có cách nào giải quyết thì báo cáo gấp.' Ông trưởng khoa báo chí từng nhận là bạn học với mẹ từ hồi Quế Lâm Trung Quốc kể cho Ngân nghe hành trình xin việc của cậu ta, rồi chìa vào mặt Ngân đơn xin việc của một cô bạn quen nhưng học khoa khác: 'Chú rất tiếc. Thôi cháu thông cảm... Cô này về đây thì không đúng chuyên môn, nhưng mà lại là con ông... Chú cứ nghĩ việc cháu coi như xong, cháu về làm việc sẽ đỡ được bọn già như chú nhiều lắm đấy. Nhưng bây giờ... Nhận cô này thì lại mất mấy năm cho đi đào tạo tiếp đây...'

            - Bọn cháu vẫn dặn nhau kẹo ngậm đến miệng còn rơi mà chú - Ngân chặn ngang lời rên rỉ ỉ ôi rất thật lòng của ông trưởng khoa suýt nữa thành sếp - Dù sao cháu cũng cảm ơn chú đã hết lòng.

 

        Mười ba cây số đạp xe trong trưa. Nắng tháng tám mắt đổ hoa cà hoa cải. Nằm bẹp như gián hơn tiếng đồng hồ rồi lại lóp ngóp đi tới tòa soạn báo mà Ngân đã đặt đơn xin việc theo lời giới thiệu của một bà giáo sư nổi tiếng về cả tài năng và đức độ. Không hiểu sao lúc đó lòng Ngân bình thản thế: không lo sợ, cũng không hi vọng gì, mặc dù Ngân hoàn toàn tự tin mình sẽ làm việc tốt qua mấy tháng đi viết thử. ' Thật là tiếc' - Bà trưởng ban nhìn Ngân qua cặp kính trễ mũi - Chúng tôi rất hài lòng về các bài viết của cô. Có phong cách lắm. Chúng tôi ai cũng chung nhận xét như thế. Nhưng năm nay báo chỉ có một chỉ tiêu. Nếu mà cháu chờ được, sang năm nhất định chúng tôi sẽ nhận cháu.'

         - Ai được về năm nay hở cô? Có phải trong đám thử việc chúng cháu không cô?

         - Thì... đấy. Xem nào, cô Liên, cháu cũng biết chứ?

         Biết quá. Chị sinh viên cùng năm nhưng đã ba nhăm ba sáu tuổi, dân khoa Lý, cán bộ địa phương đi học, có ông chồng quan chức ở tỉnh mới được điều về bộ, nói ngọng lờ nờ và viết thỉnh thoảng lại lẩm bẩm nờ cao hay nờ thấp nhỉ. Nắng ngoài kia đã dịu đi. Hàng sấu bắt đầu gió nổi. Toà báo này ở góc phố này đẹp quá. Nếu mình làm việc nơi đây? Ngân cười, chào bà trưởng ban:

         - Thôi cháu về... Cảm ơn cô về lời hứa. Nhưng cháu không thể chờ cô ạ. Nhỡ sang năm lại một người khác có những điều kiện như chị Liên hay có khi hơn chị Liên xin về, cháu chắc cô có ưng ý cách làm việc của cháu bao nhiêu cũng không thể nhận cháu. Đúng không cô?

Bà trưởng ban xếp lại mấy tờ giấy trong khi mắt vẫn nhìn Ngân. Bà gật đầu khe khẽ. Ngân có nghe lầm chăng: Hình như bà khe khẽ thở dài?

 

 

 

 

 

 

 

 

           

 

 

Gặp sông Lahn một quãng vắng trong rừng

Thấy sóng trên sông chở nắng

               Chở gió,

                Và tiếng chim

 Trôi lên phía trước

 

Mỗi ngày sống - mỗi ngày xxa

Mỗi ngày xanh trong cỏ biếc

Gập ghềnh qua

 

Gặp sông Lahn một quãng vắng,  trong rừng

 

 

            26.

 

        Người đàn bà trẻ con nhớ bạn. Nhớ xót xa. Có lẽ bạn không sai chăng khi quyết định ở lại đất nước ấy. Về để làm gì? Liệu có thoát được hành trình khổ ải này không nếu cũng chỉ như nhau, không có linh kiện phụ tùng gì đi kèm cái bằng đã tu luyện bao lâu mới có. Bất chợt phì cười. Ừ, bố mẹ thì ai đầu tư được. Bàn là, phích nóng lạnh, tủ lạnh, xà phòng thơm... Có thể... Cần có bao nhiêu dữ liệu như thế để dán lên cái bằng đỏ của bạn nếu bạn học xong về nước đi xin việc? Và nếu như thế, cơn ác mộng của bạn có trở về?

 

            Đấy là sinh nhật cuối cùng có đông đủ bè bạn của Ngân. Tíu tít chuyện. Những câu chuyện không đổi: Tốt nghiệp và chưa tốt nghiệp. Đi làm và chưa đi làm. Một lô một lốc bạn gái cưới chạy để hợp lí hóa chuyện phân công công tác. 'Các bà đi lấy chồng ở tuổi này thì có lí, nhiều chiều có lí. Chồng càng già càng dễ xin việc. Chứ bọn này mới ngoài hai mươi đã cưới vợ, mà lại phải cưới vợ thật già để họ gồng gánh cho mình thì sẽ đi từ phi lí này tới phi lí khác mất' - Một cậu bạn. Chưa một ngày sinh nào người đàn bà trẻ con thấy mình cô đơn đến thế. Tất cả vừa xảy ra hay đang diễn ra đều thành xa xôi. Xa, như một ngày, đã xưa. Mà hồn vẫn nôn nao bao nhiêu khao khát, vẫn như bị thúc hối bởi một điều lưng chừng giữa hi vọng và bất lực. Như một sự tự kiểm tra mình, Ngân cầm từ nhà bạn về cuốn 'Thép đã tôi thế đấy'. Không đọc lại nổi. Chỉ mươi trang đầu lật qua đã biết không cách gì đọc tiếp. Một tấm gương như thế sẽ chỉ có ích khi người ta không phải đem soi vào từng ngày sống buồn nản và hoang mang của mình. Thật lạ lùng, chính lúc ấy người đàn bà trẻ con nhận ra mình thấy được ân tình trong bao nhiêu nông nỗi. Với con Hằng An. Hay chị Thục... Ngân không thấy ghê ghê như đã từng tưởng là mình sẽ thế lúc con bé ngồi ghé bên giường. Hôm nó đến nhờ dịch thư... Buổi chiều ấy xám... Ngân cũng không còn nhớ nữa cái cảm giác lờm lợm khi cùng bọn ranh con đi nhòm qua lỗ tường thủng sang nhà hàng xóm và nghe thấy những tiếng hổn hển y hệt đã từng nghe trưa nào, khi đứng dưới gốc khế đầu hồi nhà chị Thục. Cái kết cục có hậu của một mối tình thời chiến tranh giữa chị Thục và anh Khá, giữa một cô gái làng có học và một anh sĩ quan trẻ về đóng quân làm Ngân thấy tin yêu tất cả nhiều hơn. Chỉ có điều sau đó cũng buồn hơn mỗi lần tạt vào quán nước nhà chị, bắt gặp anh Khá, nạng gác trên ghidong xe đạp, tươi cười chào Ngân và giục con ra hạ hàng họ vừa mua về xuống. Cảnh gia đình của anh lí tưởng như trong tiểu thuyết. Có đam mê thời đạn bom. Có yêu thương chờ đợi người ra trận. Có yên ấm ngày sum họp. Vợ trí thức nông thôn. Chồng thương binh vừa ngồi bán nước vừa lo sổ sách chi bộ. Những đứa trẻ ngày ngày sáng đi học chiều đứa nào việc nấy tuổi nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình đỡ đần bố mẹ. Nhưng chị Thục gầy, anh Khá gầy, bọn trẻ gầy.

 

*.

 

            - Gầy mới là lương thiện, mày còn đòi gì - Chị Thục cười - Chí Phèo ngày xưa học giảng văn mày nhớ không, tự giết mình cũng chỉ để đòi cho được có cái ấy thôi đấy.

            - Chị thì chỉ... Ai lại làm một dấu bằng kì cục thế.

            - Kì thật em nhỉ. Nhưng mà mày có nhìn thấy mày bây giờ không? Con gái tỉnh mà có khác gì bọn tao dân nhà quê.

            - Da em bắt nắng lắm chị ạ. Tuần đạp xe đi đi về về một lần thế này là y như vừa đi biển về. May mà trời nắng còn có hứng về Hà Nội chứ trời mưa thì đành thu lu ngồi lại trường.

          - Nhìn cái cảnh mấy cô giáo nhà xa ở lại trường nó nẫu người lắm mày ạ. Xem thế nào rồi mà xin chuyển chứ không khéo rồi ê sắc đấy. Đứa nào chạy vào quảy cho mẹ thùng nước ra đây nào. Kìa kìa, xùy con gà đi chứ không nó bới tanh bành ra bây giờ... Hay là ở quách lại đây rồi chị tìm cho một tấm chồng. Có tay phó giám đốc sở ở gần gần đây, mới vào tỉnh ủy. Mày chịu không?

 

         Hai chị em cứ nửa đùa nửa thật. Thành thì rồi xin một phát là bắn về được trường thị xã ở đây ngay. Tiếng rằng không phải Hà Nội nhưng lại là cửa ngõ Thủ đô thật, còn có mười cây số là tới phố. 'Chả hơn gấp vạn về Hà Nội nhưng lại phải lên tận Hà Nội can, những Kim Anh Mê Linh Sóc Sơn ấy à, chờ đến ngày toài về được tới nội thành thì cũng đã sắp đến tuổi nhận sổ hưu.' Chị Thục săm sắn lên ngay một kế hoạch giới thiệu đối tác. Ngân cười cười. Ai biết ngày mai thế nào?

 

*.

 

         Biết ngày mai thế nào. Con Hằng An đã đón mẹ đi Tây. Hai mươi năm trước ai dám nghĩ rằng cái người đàn bà dở dại leo thoăn thoắt trên chạc đa, xoã tóc ngồi vẽo vọt dân ca cổ truyền kia sẽ cưỡi máy bay đi xa hơn tất cả đám đàn bà trong khu tập thể? Thằng Phi nhà chú Phúc cô Thủy bỏ nhà đi sau vở hài kịch mẹ nó dàn dựng, ngày bố từ chiến trường ra cũng không về, nghe nói nay đã là một đầu gấu đáng nể mới chuyển địa bàn từ ga về khu vực Giáp Bát. Phan đi học và ở luôn lại đất nước xa xôi kia, giờ ra sao? Việt cũng phấn đấu đi. Chú Thái, bố kể, có hai thằng con cũng cho đi xuất khẩu lao động cả hai và giờ đã yên thân ở một nơi nào đó trên bản đồ thế giới sau khi Liên Xô sụp đổ, rất chịu khó gửi tiền về. Giờ, chú Thái ra ra vào vào ngôi biệt thự xây bằng tiền của mấy đứa con trogn cái ngõ ngang dành cho kẻ ăn người làm một thuở, trông người vợ dại. Vĩnh thì bình yên trong sự sắp đặt của bà mẹ, hàng ngày đi đi về về cơ quan bộ... ở cái phố đẹp nhất nhì Hà Nội, dưới quyền ông bố vẫn thứ trưởng nhưng đã vào trung ương. Còn cái ngõ đầu khu tập thể thì ngày một teo lại vì đủ thứ bàn thứ gánh của các hàng ăn mà chủ thường là các bà các cô người trong khu không mất sức thì mất việc. Cái ngõ có cơ biến luôn thành một chợ cóc khiến các nhà quanh đó háo hức mừng rỡ vì ở mặt đường dễ buôn dễ bán, còn Ngân thì bực dọc trong lòng bởi hàng tuần từ trường về lại phải chen chen chúc chúc để vào nhà, và mỗi bận bạn ra về, cũng vì sự phát triển của cái ngõ, người đàn bà trẻ con đã bỏ luôn thói quen tiễn bạn ra tận phố. Thôi những buổi chiều lững thững dẫn nhau đi, dừng chân đầu ngõ tiếp tục câu chuyện còn dang dở, lắng nghe tiếng vòm đa gió chuyển, hỉnh mũi trước mùi hương khói lan khắp mặt phố những ngày rằm mồng một. Từng ngày một, những thói quen mất dần, có vẻ chẳng khó khăn gì. Chỉ có điều không hiểu sao lòng bứt rứt không sao chịu nổi. Bứt rứt trong ngày nắng. Bứt rứt trong ngày mưa. Bứt rứt vì những điều mình khát khao sao mà vô nghĩa.

 

*.

 

         - Nhiều lúc chị chả biết mình mong mỏi cái gì nữa mày ạ. Vô lí thật. Ngày xưa thì khác. - Chị Thục chỉ anh Khá đang loay hoay sửa lại dây nịt cái chân gỗ - Ngày xưa gặp cái ông này rồi thì chỉ sợ ông ấy đi B chết mất xác, chỉ mong ông ấy lành lặn trở về. Ông ấy về, cụt, nhưng dù sao thế cũng là hơn khối người, lại còn có cái thẻ thương binh đỡ gia đình khối đấy mày ạ. Chứ nghĩ như bao nhiêu người...

         Chị Thục rót cho Ngân một bát nước chè tươi ủ vừa ngấu. Ngân ấp hai bàn tay lạnh cóng vào bát, nhìn dọc con đường ven thị xã lơ thơ mấy ngôi nhà tường gạch mái rạ. Một chiếc xe tải gầm gừ lăn qua. Bụi ngày hanh ngột ngạt.

            - Chị nhớ chú Trong không? Chú Trong nhà cô Xanh ấy.

            - Sao không? Bọn chị học chung mười năm. Cả làng năm ấy có chị với anh Trong về tận Kinh Đào học cấp ba đấy. Vậy mà người chết cũng mười mấy năm rồi. Cái Thầm ngày xưa nhà bà Trong đã mang trầu cau dạm ngõ cũng cùng nghề với em, dạy mấy đứa trẻ nhà này đây này. Dạy môn thể dục. Con gái nhà quê ngoài ba mươi rồi vẫn chưa chồng con gì cả, mày tính... Vừa rồi tỉnh có kế hoạch giúp đỡ giáo viên, ai có sức cho mượn đất mà tăng gia, nghe đâu nó cũng được một sào. Phải vậy không anh? Nước vừa ủ, buông tay uống một bát với cô Ngân này anh.

            Anh Khá thít lại cái dây da, cười:

            - May mà vợ con rồi, chứ cẳng gỗ nối cẳng thịt thế này mà đi tán gái nhỡ vớ phải bà mẹ cay nghiệt thì bà ấy có chửi cũng đành phải đi chậm mà nghe cho hết. Cô Ngân đi đi về về thì không cần, chứ chắc trường cô cũng xin hợp tác xã chia đất cho giáo viên nhỉ? Cô Thầm được một khoảnh. Thỉnh thoảng có việc tới ủy ban thị xã, đi ngang vẫn thấy cô ấy cặm cặm cụi cụi.

            Chị Thục thở dài:

            - Chị em cùng làng, lứa trên lứa dưới biết nhau cả. Mà ít gặp nhau lắm. Có vẻ cô ấy không thích qua lại. Quá lứa rồi thành tính khó lắm... thành thử chị cũng không dám mặn chuyện. Mà hôm rồi về làng chị gặp cái Xanh nhà bà Trong. Mày gọi nó là cô đấy hẳn?

        - Thì bà em bảo thế nào bọn em gọi thế. Cô Xanh từ trong Nam ra cũng gần một tháng rồi chị ạ. Mắt cô ấy giờ kém lắm, bảo chạy chữa mãi mà không khỏi. Tuần trước giỗ họ, bố em dặn em nhân thể từ trường về làng đóng giỗ luôn, em gặp, cô cháu nói chuyện vui lắm mà rồi sau cứ buồn buồn. Chị với cô Xanh ngày xưa ở làng thân nhau lắm phải không

            - ...Kể ông cũng chu đáo quá. Chứ cụ mất rồi thì phiên phiến cũng được. - Chị Thục không dưng bỗng lảng.

            - Không phiên phiến được chị ạ.

 

*.

 

         Không phiên phiến được. Vì người được giỗ là chị họ, chị dâu họ thôi, nhưng lại là bạn gái thân thiết của bà Ngân những ngày nhà gieo neo nhất. Người chị họ người quê Kinh Bắc, dạt về Hà Nội làm nghề hát ả đào mà rồi gặp ông anh họ của bà Ngân. Ông vốn là chức sắc, nhưng trải những ngón ăn chơi đất Hà Thành hơn là trải việc ôm con dấu bóp nặn đám dân ngu trong làng trong tổng. Được cái nhà có máu mặt, sẵn tiền của cho ông thỏa chí ăn chơi. Thế nên một tháng thì phải có tới hai tám ngày ông ngồi xe kéo của nhà đi từ nơi hút thuốc phiện qua nơi có tiếng đàn tiếng phách.

         - Ấy ông chánh hội thì ngón nào chả biết. Nhà giàu nứt đố đổ vách thật đấy nhưng mà không hợm. Chơi bời là thế nhưng khi nào ghé nhà mình là chỉ xin ăn cơm với canh cải nấu cá rô, thêm bìa đậu kho tương. Đất Hà Nội người ta ăn đậu rán om cà chua rắc hành mùi, ông ấy lại đòi đậu kho tương mới chết.

            Bà ngồi trên phản, chân duỗi chân co, trong lòng là cái âu trầu. Mùi trầu cay ấm. Ngoài sân ngô đỏ óng lên dưới nắng. Bà nhìn tàu chuối lật phật trong gió, đưa tay vuốt vuốt lá giầu không:

         - Bà Chánh bé gặp ông ấy hồi ấy đấy. Gớm sao lại có người đẹp thế. Hôm ông Chánh đưa bà ấy tới nhà mình lần đầu, ông ấy bảo ông nhà mình thế này: 'Người đâu gặp gỡ làm chi - trăm năm biết có duyên gì hay không... Tôi không có dại như chàng Kim Trọng chú ạ, tôi cưới liền tay. Hôm nay chị em nhận nhau, qua lại chơi với nhau cho thân càng thêm thân'. Ông với bà lúc đầu cũng ngại bị bà Cả ở làng oán, nhưng mà bà Chánh bé có cái nết tốt ơi là tốt. Thành ra thân thật. Gớm sao có người khổ thế. Mình đã thậm khổ rồi mà bà ấy còn cơ cực hơn. Ngày mới theo ông Chánh, nhà ông Chánh giàu, có nhà có cửa ở Hà Nội thì còn sướng. Chả được mấy ngày thì bà Cả biết, bà ấy bảo ông Chánh đưa bà bé về làng.

 

*.

 

         Bà nghẹn ngào. Nông nỗi của chính mình, của người chị họ trong chốc lát lại ào về. Toà ngang dãy dọc phần ông Chánh nằm sát khu vực Tây xây lô cốt, cháy sạch trong một đêm khi bộ đội về. Ông Chánh mất ngay ngày đầu kháng chiến. Cũng là may vì thoát được cải cách ruộng đất, không bị đem ra đấu tố như mấy anh em trong nhà.

         - Bà đưa bố mày với các cô chú về làng theo lời ông dặn.  Tiếng là có quê có quán, nhưng mình làm gì có nhà cửa ruộng vườn gì ở quê đâu. Thế là bắt đầu cấy thuê gặt mướn. Bà Bé nhà vẫn còn có của, nhưng mà cũng khổ y như bà, làm lụng hệt con ở cho bà Cả. Ông ấy chết rồi, chả trông cậy vào đâu được. Mà cũng chả thể về quê. Làng mình là làng tề. Quê bà ấy nghe nói cũng bị chiếm. Mẹ con đầu tắt mặt tối suốt ngày mà còn bị chửi bị đánh bất kể lúc nào. Thằng con đầu của bà ấy, mùa đông đi chăn trâu không có lấy nắm cơm, độc một bọc khoai khô mốc. Gặp bà ngoài đồng, bà phải bẻ nắm cơm cho.

 

         Bà đưa khẩu trầu vào miệng, thủ tay vào bọc, rung rung đôi đầu gối gầy, Ngân thích nằm sát đùi bà, lắng nghe, sờ sờ hai đầu gối củ lạc của bà. Đấy là lúc rảnh rỗi của bà, những ngày bà cháu đùm túm đi sơ tán. Bà kể như là không cốt kể, như là chỉ tự nhắc lại với mình. Và nếu lúc đó có bà hàng xóm nào hắng giọng đi vào ngõ là sẽ bắt đầu một câu chuyện dài.

         - Bà Chánh cả ác thật bà nhỉ. Ba mẹ con bà Bé làm quần quật suốt ngày, tối về ăn cơm thầm trong xó bếp. Khổ. Hồi tôi còn sống ngoài tỉnh, có bao giờ thấy bà ấy phải mặc cái áo ngắn đâu. Nghe rằng thì là bà ấy là con hát, nhưng cũng có bao giờ biết bà ấy hát xướng ra thế nào. Chỉ thấy người nền nã lắm. Mà cái nết thì thật tốt. Có lần nhà có việc, tôi không hỏi, bà ấy đến chơi thấy mình bần thần cứ gặng, rồi móc bao lưng đưa luôn. Món ấy thành ra tôi nợ bà ấy suốt kiếp bà ạ. Sau này cơ hàn, chị em sống cùng làng, gần nhà xa ngõ vì còn bà cả, mà hồi đó thì khổ quá, chả làm cách nào đưa lại được cho chị ấy. Vậy mà có hôm đi gặt đồng trũng, chị ấy lần cạp váy đưa tôi hai quả trứng vịt nhặt ở bờ ruộng, bảo mang về bác với tương cũng được bữa cho mấy cháu. Hỏi sao chị không cầm về, chị ấy khóc, bảo làm sao làm thế được trong nhà bà cả. Thấy thì nhặt rồi cho thôi.

         - Ừ bà nhỉ. Chả gì bà Bé cũng là bạn đầu gối tay ấp với ông Chánh. Thế mà lúc ông Chánh còn nằm đấy, bà Cả cứ xa xả chửi con ả đào, lại còn bắt bà Bé vén váy ngồi dạng chân giữa sân để bà ấy vác chổi xể đâm vào chỗ ấy. Ông Chánh thì tốt tính thật, nhưng mà vô tích sự, càng khi có việc càng chả nên cơm nên cháo gì chứ chả phải vì ốm đau nằm đấy đâu. Còn bà Bé thì chẳng qua bà ấy hiền quá. Chứ ngẫm như bà cả, về với ông ấy đẻ lên đẻ xuống có được thằng con giai nào đâu. Phải nhà khác con vợ lẽ có con giai rồi thì nó chả gang họng ra cho ấy à nếu mà chửi nó. Mà tôi nghĩ vậy chứ nhà ông Chánh vẫn còn có phúc, nhà giàu thế mà đến đận cải cách lại mất của mất nả gần hết, ông ấy lại ốm sắp chết, thế là thoát. Chứ như ông nhà tôi, làm quần quật cả đời, ăn thì... bà chả thể nào biết... phải hôm bão cây đu đủ đổ, ông ấy lấy cả lõi cây đu đủ kho tương ăn dần. Vừa dựng được cái nhà, tậu thêm được ba cái chân trâu, có thế mà bị đem đấu tố đến nỗi phải thắt cổ tự tử.

 

*.

        

         Hai bà lão rì rầm trò chuyện. Sau này nhớ lại, Ngân lạ lùng vì không bà nào khóc dù toàn chuyện khổ. Mẹ chú Trong lại còn cười khi nhắc chuyện đẻ cô Xanh, ông cụ ưu tiên cho vợ toàn thịt gà kho tương với gừng, kho cả cái đầu là cái bà nhìn thấy đã sợ muốn rơi đũa, bảo cho thằng cu Trong ăn ké, còn phần ông bữa nào cũng chỉ rau cỏ ăn quanh. Bà cũng cười:

         - Tôi thì may bà ạ. Sinh các cháu ngoài tỉnh, nhà chẳng giàu có gì nhưng cũng cơm trắng giò chả đầy đủ. Chỉ khổ lúc ông ấy lên Việt Bắc, tôi nhà cửa chẳng khuân theo được, một mình đem con về làng, tay trắng. Đến hồi thằng bố con này trốn đi này, ông anh chồng không cho ở nhờ nữa, khổ thêm. Nhưng khổ nhất thì cũng như bà, là cái hồi cải cách. Nhà cửa ruộng vườn chẳng có lấy một tấc mà người ta lại đem chồng mình ra đấu, bảo là việt gian, bảo có tủi có ức không.

 

         Bao nhiêu năm nước chảy. Ông vẫn nằm đâu đó giữa rừng Việt Bắc. Bà một mình thành bà lão, từ thưở ngoài ba mươi. Về già, ra Hà Nội, ít người trò chuyện, bà cũng thôi không kể chuyện xưa, nhưng lại dặn dò rất kĩ về sự giỗ chạp trong làng trong họ. Có lần bà bảo Ngân:

         - Bà Chánh bé người đâu vùng Kinh Bắc ấy cháu ạ. Thế mà rồi chết ở làng mình. Cả một đời... Khổ quá... Vậy mà lại sống dai nhất trong nhà. Ông Chánh với bà Cả nằm xuống rồi chứ không chết sau bà cả khéo cũng chẳng được chôn cạnh chồng. Hồi bà ấy ốm, bà qua thăm, bà ấy khóc bảo chết đi thì chả có ai họ hàng ruột thịt ở cạnh, con cái từ bé cơ khổ, có biết gì quê ngoại đâu, sẽ chả ai là họ hàng hay bạn gái xưa thắp cho nén hương. Bà đã hứa thầm với bà ấy...

 

  

 

         Khi yêu đương đang thành mốt như chiếc quần jeans

            em có còn chung thủy?

            Anh trút hết mồ hôi trên chuyến xe khách

         người và người ồn ào khó chịu

em có còn dịu dàng?

 

            Cơn gió bụi tháng ngày

                    Cuốn phăng đi bao niềm hoài ước

            Trôi nổi ngang đời bao nỗi hoài nghi

            Vận người đổi thay nào ai đoán trước.

 

            Anh không tự hiểu mình

            Em không hiểu nổi anh

 

            Một lần xa hóa ra vĩnh viễn

 

            Chiếc quần jeans bạc gối

            Chuyến xe bus cuối cùng bỏ khách đợi ngang đường.

 

 

 

27.

 

      Ngân có mặt trong đám thay áo cho bà Chánh bé vì nhiều cớ. Giỗ họ, bố sai về góp giỗ, trùng dịp cải mộ ông bà Chánh, may có dịp thực hiện lời hứa thầm giùm bà. Ba nấm mồ sát nhau, ngày chiến tranh đánh phá con cái ông bà tứ tán không tiện sang cát, loay hoay thế nào bị lạc, thuê người thuốn  nát mấy khu ruộng mới tìm thấy. Mở ván thiên, Ngân suýt ngất: Ba gương mặt còn nguyên hình, phồng lên, đỏ hoe hoe phẩm điều phai, chắp tay nằm nghiêm chỉnh nhìn trời. 'Mộ kết!' Tiếng thầm thào. Tiếng tụng niệm của các bà già. Hơi sương và hương phớt qua mặt Ngân. Đến lúc nhìn lại: không còn gì cả. Những tám ván thôi đã được quăng lên miệng hố. Một cái mùi khó tả: mùi hương khói, mùi sương đang bốc trắng cánh đồng, mùi đất mục, mùi băng phiến từ những tấm áo dài của các bà lão đứng sát bên Ngân, mùi nước cốt trầu, mùi rượu rửa cốt, tất cả, làm Ngân thấy hồ như sức lực mình bị rút dần dần. Đằng kia là con đường đồng dẫn vào xóm nhỏ năm xưa Ngân sống với bà, nơi ba con người nằm đây đã từng đi, nơi Ngân theo bà chiều chiều ra múc nước ao nhà chị Thục tưới rau, nơi bố mẹ đạp xe về thăm Ngân ngày đánh phá.

 

*.

 

         - Thấy bảo mộ thế là kết, là con cháu sẽ phát lắm đấy. Nhưng mà Ngân sợ quá. Nhoáng cái tất cả tan đi. Tưởng như là cả một cuộc đời vừa bắt đầu vừa kết thúc trong nháy mắt ngay trước mũi mình. Cái cảm giác ấy...

         - Thế có thực là con cháu các cụ đó phát không? Uống đi này. Bé ơi, thay cho bạn anh bát nước nóng khác đi.

         Cô bé con chị chủ quán bê lại bát nước sôi mới, nhấc cái tách cà phê của Ngân đặt vào đó, lạnh lẽo quay đi. Việt chờ Ngân xong hớp cà phê đầu tiên, thông báo:

         - Tháng này tháng mười. Ngân nhớ nhé! 22 tháng mười hai, ngày thành lập quân đội, Việt cưới - Việt cười cười - Cho dễ nhớ ngày thành lập gia đình.

         Sau này nhớ lại Ngân ngạc nhiên thấy mình choáng váng. Y như buổi chiều nào biết tin Phan và nghe lời tỏ tình của Việt. Từ lâu rồi người đàn bà trẻ con đã quen với tình bạn của người con trai, không áy náy vì một tình yêu không thành, tin cậy. Nhưng bây giờ... Lại vẫn là cảm giác ấy, chiều nào, cà phê, mưa, phố hớt hải người xe, Trịnh Công Sơn, quán vắng. Không còn ai cho ta ngồi lại lặng im như thế này sao? Không còn không còn ai - ta trôi trong cuộc đời... Thứ bảy vừa rồi Vĩnh tới. Lâu lắm Vĩnh mới lại tới. Ngồi đọc hết đống báo, Vĩnh mở cặp rút đưa Ngân thiếp mời: - Ngân là người đầu tiên đấy. - Cảm ơn. Ái chà. Thiếp in đẹp quá. Ngân sẽ phải kể cho mọi người biết mình được là người đầu tiên nhận thiếp của Vĩnh. - Người đàn bà trẻ con vui vẻ trả lời, như rất đỗi vô tâm. Lòng băn khoăn tự hỏi lời đáp vô duyên của mình sẽ giúp gì cho bạn, và bạn sẽ nghĩ gì, có biết mình sẽ không thể nào đến mừng, sẽ không thể gặp lại bố mẹ bạn trong ngày bạn cưới. Đã Phan. Đã Vĩnh. Giờ là Việt. Và sang xuân thôi là Ngân. Ngân lắc đầu nhè nhẹ, nhớ cái đơn xin thuyên chuyển công tác vừa xin dấu hiệu trưởng để đưa cho người đàn ông mà Ngân đã quyết định lấy. Thôi đừng nói vội. Bất chợt rùng mình. Phan ở nơi xa, đã hẳn không thể đưa bạn gái tới giới thiệu. Nhưng Vĩnh, nhưng Việt, và cả Ngân... Ai cũng biết dù sao mỗi người vẫn có một cuộc đời riêng, đã có người để đưa đón thăm nom mỗi cuối tuần từ lâu, nhưng chưa bao giờ hỏi nhau về điều đó. Như thể sự lặng im bình thản này sẽ là lời thì thầm với nhau rằng có một khoảng đời riêng cho nhau, cho tình bạn. Hình như tất cả đều nhầm.

 

*

        - Nào, Việt giao Ngân làm gì trong ngày cưới của Việt? Đừng bắt bạn rót nước cho khách nhé. Thứ nhất là không đủ trẻ trung, thứ hai là Ngân sẽ không đeo kính ngày hôm đó để trông cho thêm phần xuân sắc, nhỡ rót nước vào đùi khách của Việt thì tàn đời.

         - Chớ, chớ thế. Phải đeo kính, và nếu cần thì thay kính mới để nhìn Việt hạnh phúc ra sao chứ. Không cần Ngân làm gì cả ngoài việc giữ sức để không ốm đúng vào hôm đó thôi.

         - Thế... có thể tặng gì cho Việt, à không, cho cô bạn của Việt nhỉ? Cô ấy thích gì?

         - Thích tất cả những gì mà các cô gái thích. Vợ Việt không có những ý nghĩ quái dị như Ngân .

 

*.

 

        Quái dị? Chẳng lẽ thế lại là quái dị? Nhưng vẫn có một người đàn ông đang muốn cưới mình?! Vậy là tất cả chúng mình sẽ yên ấm. Chỉ không biết là ngày sống của Phan thật ra thì sao... Sau này, khi đã quen loay hoay vun vén cái tổ ấm của mình, quen với mùi đủ thứ mắm tập pha tập chưng theo khẩu vị của nhà chồng, quen với công việc mới chồng thu xếp cho trong cơ quan bộ, quen đêm về có bờ vai rộng nghiêng xuống, đôi mắt chồng nhìn nửa tin cậy nửa quyền uy, người đàn bà trẻ con vẫn không sao quên được băn khoăn cũ. Không biết là Phan...

 

         Khoảng cách giữa đám cưới đầu tiên đến đám cưới thứ hai của Việt chỉ là ba năm. Thật không thể ngờ hạnh phúc từ bỏ con người nhanh đến thế. Cô gái trẻ và đẹp giật mình trong bộ áo cưới mong manh như một con bướm trắng khổng lồ, như mây thôi giang hồ, tựa nhẹ vào vòng ôm hờ của chồng bước đi trong tiếng cười, tiếng chúc. Một đứa trẻ ra đời. Người mẹ bỏ chồng, bỏ luôn con trở về nhà mẹ đẻ, và lại sống cuộc đời một cánh bướm, một làn mây. Ngân chưa bao giờ có dịp gặp mặt vợ Việt lâu lâu, nên những băn khoăn về sự đứt đoạn trong đời sống vợ chồng của Việt không bao giờ tự giải đáp nổi. Chỉ thấy Việt chẳng có vẻ gì một người chồng bất hạnh. Việt đưa con tới những cuộc tụ bạ, đến nhà Ngân chơi, âu yếm bón cho con từng thìa cơm, đưa đứa bé đi ị đi tè, mặt mũi đầy vẻ hài lòng đến nỗi bạn bè không một ai dám hỏi. Ngày cưới Việt lần thứ hai, Ngân sinh đứa con đầu. Cái cớ tốt đẹp để khỏi gặp bạn bè, gặp lại Phan, nghe nói sẽ về đúng dịp đó. Biết nói gì với nhau lúc ấy, rằng mình hạnh phúc ư? Hạnh phúc là thế chăng? Một người chồng điềm đạm, chu đáo, kiếm được. Một căn hộ đủ điện đủ nước. Một chỗ làm nhàn nhã, không dính với trách nhiệm trực tiếp nào. Một đứa con ra đời, không quá muộn quá sớm sau ngày cưới. Nếu lúc đó Ngân không bận bịu với con thì chắc Ngân sẽ hoang mang lắm, bởi vì tất cả, đúng như mong mỏi của Ngân về một cuộc sống bình ổn, nhưng sao mà bấp bênh. Người đàn bà trẻ con hiểu rằng sự bình ổn này phụ thuộc hoàn toàn vào mình, và tránh tất cả mọi lí do để phải cật vấn mình. Nhưng tránh làm sao mãi được. Đã ba năm, sau khi cưới và chuyển công tác, Ngân không gặp lại vợ chồng anh Khá chị Thục, thôi không phải vã mồ hôi trên xe khách hay trên cái xe đạp tàng đi đi về về mỗi cuối tuần, chiều chiều chấm bài và soạn giáo án xong thôi không qua cầu về thăm lại ngõ nhỏ ngày xưa trên bến sông, nơi có căn nhà của bà, gốc rơm dưới chân lùm tre, cái chuồng gà cuối vườn sát cây xoan gầy, tiếng những người đàn bà hàng xóm chao chát sau phiên chợ. Song những chuyện từ đời tám hoánh nào lại còn hiện rõ ràng hơn, phủ một sắc xám mờ trang trọng lên ngày đang sống.

 

         - Mẹ Chick con có còn nhớ nhà bà Trong cách vườn nhà bà mình ngày xưa không? Tội nghiệp cái cô Xanh con bà ấy thế nào mà giờ thong manh hẳn rồi.

               - Thật ư ông. Mấy năm trước còn dạy trong ấy, con có gặp cô Xanh một lần. Cô ấy mắt cũng đã      nhìn kém rồi. Mà cô ấy chỉ hơn con mười mấy tuổi. Thế ông về làng hôm nào?

         - Tuần rồi. Gặp đủ mặt. Ông Thồng vào tù ra tội vậy mà thọ quá. Hơn tám mươi rồi mà vẫn đêm đêm ra lều vịt ngủ với thằng cu cháu. Ông Thồng bảo bố anh nhìn chú đây này, tao còn sống thêm mười tuổi trời nữa là ít xem chúng mày ra sao. Tao chỉ cần như hòn đá xanh dưới bến kia thôi. Mấy chục năm nước chảy người dẫm, có mòn đi tí tị nhưng vẫn nằm thù lù đấy không suy xuyển. Bố nhớ hòn đá xanh ấy có từ hồi bố đi tản cư cơ đấy. Từ bấy đến giờ, từ năm bốn sáu đến giờ...

 - Thế ông bảo cô Xanh

 - Gặp bố cô ấy khóc quá con ạ. Bảo muốn đón bà Trong vào, vì mắt mũi giờ ra thế không thể về làng năm một được, mẹ thì già quá rồi ở một mình, lo lắm. Bà Trong nhất định không chịu, vì còn mộ ông ấy và chú Trong.

        Chú Trong chết trẻ thế, vợ con chưa có, lấy ai hương khói thay bà. Ngân hình dung cô Xanh lần cuối cùng gặp mặt, đôi mắt trong như mắt giả nhìn thẳng về phía trước, nụ cười ngơ ngơ, từ đôi mắt của cô, hai dòng nước mắt bò ra. Người con gái con địa chủ, người con gái học hành và hát hay nhất làng một thời giờ chả khác gì một bà già. Giá mà ngày ấy cô lấy chồng gần, liệu có sung sướng hơn không?

 

*.

 

         - Nó không nghe em bác ạ. Bao lâu nay em thắt lưng buộc bụng động viên cháu gắng học rồi tìm đường thoát li. Cũng chả mong nên vương nên tướng gì, chỉ mong cho nó đỡ lấm mặt như mình. Vậy mà nó rằng thì là giá được thế thì chắc anh Trong đã chẳng phải trích máu viết đơn xin đi bộ đội rằng thì là người ta đâu có thiết cái lí lịch nhà mình. Mấy lại nó bảo rằng thì là có đi đâu cũng chả yên tâm để em một mình. Thật thì em cũng không chê gì thằng ấy bác ạ. Kể thì nó nói cái giọng tận đẩu tận đâu, nghe cứ như tiếng Ngô tiếng Lào, nhưng đâu thì cũng đồng đất nước mình. Mấy lại cứ nghĩ mấy thằng thương binh miền Nam như nó dữ lắm, chứ xem ra cũng người thế này thế khác. Thằng này có vẻ hiền, mà biết việc đồng việc áng ra phết bác ạ. Con Xanh bảo ở nhà nó cũng dân ruộng, có điều trong đó đất rộng hơn ngoài mình. Em sai con Xanh viết thư cho cháu Trong xin ý kiến thằng anh, chả gì thằng Trong cũng là đàn ông đàn ang trong nhà. Mà chờ mãi chả thấy thư từ của nó. Dễ bom đạn thế này, em cũng phải cho con Xanh nó tự lo đời nó thôi, bác bảo thế có được không?

         - Đời cua cua máy đời cáy cáy đào, dì nghĩ làm gì cho mệt. Nó đã không có đường thoát li, mà cũng chả muốn thoát li, ở làng thì làm được gì. Tôi bảo thật dì, gả quách. Chứ giờ nó cũng đã sắp hăm mốt rồi, gái hát hay cày giỏi, nhưng mà dì nhìn quanh xem có thằng nào xứng với nó không, có thằng nào đem giầu cau đến xin dì ra đuổi chó cho không. Thằng tử tế thì đi B hết cả rồi, còn toàn cái bọn sứt môi lồi rốn trốn nghĩa vụ, chỉ tìm đường nhót cho nhanh khỏi làng. Còn thằng nào đường được thì... cơ khổ, nội cái việc dì cho con học hết cấp ba đã làm cho con Xanh nó khó rồi, lại còn thêm tội con địa chủ... cưới nó về phấn đấu ra làm sao.

 

         Bà Trong khóc. Bà lão chủ nhà thở dài. Mấy người đàn bà ngồi hóng chuyện, nghĩ vẩn vơ, sợ sợ. Nhìn người điên ở bệnh viện thần kinh cuối làng đi rều rễu trên đê không hãi bằng nghe chuyện thương binh miền Nam ở làng bên sông. Họ cũng đi rều rễu quanh làng, người cụt tay người cụt cẳng, lúc nào cũng say sưa, lôi thôi là họ dí ngay cái thẻ thương binh vào mặt và ục luôn. Mấy tháng vừa rồi xe khách từ Hà Nội về bỏ bến xe bên kia sông không vào làm mấy bà đi buôn chết dở. Nguyên do cũng chỉ vì quý vị thương binh. Họ đứng dàn hàng ngang giữa đường, huy hiệu thương binh cài trên ngực, lên xe không có vé đã đành, nổi xung lên là khua nạng đập vào mặt người đối thoại và mấy tháng trước đánh chết luôn cả lái xe. Ai có việc ra tỉnh cũng phải cuốc bộ chờ cơ vẫy xe tải tới Vác rồi mới đón được xe khách, từ tỉnh về cũng chỉ tới được Vác là dừng, đến khổ.  'Họ là anh hùng khùng mà bà, ai chả sợ. Thật ra cũng tội. Vào sinh ra tử, giờ bị bó cẳng ở cái xó này, ai biết đâu mà ơn với huệ, vợ con không có, tiền bạc cũng không, mất chân mất tay nhưng mà vẫn là thằng đàn ông đã vào sinh ra tử, chịu làm sao nổi hả bà.' Ông chủ tịch xã ghé thăm mấy bà cháu nhân ngày thương binh liệt sĩ vui vẻ giải thích' - 'Bà bảo cái Xanh sắp lấy một thằng trong cái trại thương binh đó à. Tội nghiệp.'

 

         Thế mà thật ra có lẽ cô Xanh lại hạnh phúc nhất trong đám bạn gái quanh làng. Chả gì chồng cô cũng đóng góp xong cái phần xương máu, giờ yên tâm mà quanh quẩn bên vợ. Đêm đêm cô Xanh thôi ra bến sông hát với chúng với bạn kể cũng làm lắm người nhớ giọng. Riêng con bé thì không. Suốt ngày nó đã nghe cô lích chích hát một mình. Hết đường cày đảm đang bài ca năm tấn lại nổi trống lên rừng núi ơi, hết Hà Tây cửa ngõ Thủ đô lại tiếng ai hò trên quê hương ta đó Nghệ An với ở tận sông Hồng em có biết quê hương anh cũng có dòng sông ơi Vàm Cỏ Đông ơi hỡi dòng sông. Nơi con sông xa tít mù ấy là quê chú Hùng chồng cô. Bà hồi đầu cứ lầm thầm chê cái thằng mặt như hai ngón tay úp chéo, sau lại nắc nỏm khen thằng ấy thế mà lành mà tử tế. Chỉ cần len qua chum nước và cối đá lúc nào cũng lõng bõng ít rau chuối trộn cám lợn của nhà bà Trong là con bé có thể đứng ngó vào buồng cô Xanh. Chiếu mới, gối trắng thêu chim bồ câu, lá xanh  hoa hồng, vỏ chăn vải chéo hoa Trung Quốc. Đến là đẹp. Rồi cô Xanh hay sang hàng xóm xin tương, múc đầy bát còn đứng húp tại chỗ khen tương ngọt. Bà Trong mặt mũi tưng bừng thì thầm với bà hàng xóm. 'Em để ý nó tắt kinh hai tháng nay rồi bác ạ.'

 

*.

 

         Đứa con đầu lòng của cô Xanh sẽ ra đời không đúng ngày. Buổi trưa đi làm cỏ lúa về, cô Xanh cầm cái cào xuống sông rửa chân tay, cái nón lá ngửa lên đựng đầy rau tập tàng dựa ở góc bậc thang cuối bến. Cô cúi người khỏa nước, mỉm cười vì cái bụng đã bắt đầu càng ràng, ngẩng lên nhìn quanh và hét lạc cả giọng. Quẩn sát chân cô, một con người bé nhỏ, trần truồng, rốn còn chưa cắt nổi lập lờ. Năm tháng ấy lại bắt đầu những ngày căng thẳng nhất của cuộc chiến đang đến hồi kết. Lâu lâu lại có những đơn vị bộ đội đi dọc triền đê, dừng lại ở các làng, đóng quân rải khắp nhà dân, nhanh thì một hai tuần rồi đi, chậm thì tháng hơn tháng ngót. Có những người con gái chửa buộm một mình vật vã. Những bào thai hoang dạt vào bờ, mắc lại chân tre, rễ sung rễ ngái. Đấy sẽ chưa phải là lần cuối.

        Cô Xanh ngã dụi ở bậc thang sát mép nước, mặt úp vào cái nón lồng phồng rau. Bụng cô quặn lên, tưởng chừng như có một cánh tay rất dài thò vào, quấn hết ruột gan mà rút. Đứa con ra đời ngay tối đó. Không phải là một con người dù đã sắp đủ ngày đủ tháng, chỉ là một cục thịt có mắt mũi miệng, không chân tay. Người mẹ ngất xỉu một lần nữa. Người cha ngồi ở đầu hồi nhà suốt một ngày, trừng trừng nhìn vườn.

 

         Cô Xanh sẽ còn đẻ tiếp, liên tiếp. Đứa thứ hai, lông lá như khỉ, mắt dính tịt, không có chóp mũi. Ông em rể bà Trong, tợn tạo nhất làng, xách chân đứa trẻ chả biết sống hay chết ra bờ sông, xả một nhát dao bầu vào thân hình bé nhỏ đó và quăng ra giữa dòng, bảo để hồn ma bóng qủy không lộn lại bụng cháu gái. Đứa thứ ba, cô Xanh không nhìn, nhắm mắt nửa ngày. Chú Hùng vái ông chú vợ: 'Xin chú cho vợ chồng con chôn cháu. Tội nghiệp, nó không được sống làm người, tất cả ở như con.' Mấy người thương binh miền Nam chống nạng lọc cọc đi theo cái quan tài bé nhỏ trên vai đồng đội, nước da đen sạm giờ tái ngắt.

 

         Cả làng ồn ĩ vì chuyện nhà bà Trong bị ma ám, vì những tội nghiệt từ đời kiếp nào. Không ư? Ông Trong phải thắt cổ. Chú Trong bị sét đánh. Cô Xanh đẻ bận nọ đến bận kia toàn  những hình nhân chưa thành người. Chú Hùng đưa vợ rời làng, ra trại thương binh sống. Con bé con chỉ gặp lại vợ chồng chú một lần, ngày nó sắp được bố mẹ đón ra Hà Nội, về lại trường cũ. Vợ chồng cô Xanh theo bà Trong sang thăm mấy bà cháu. Bà mở tấm chăn, moi ra một thân hình trẻ con khiếp đảm, đầu to tướng, mũi huếch, mắt lồi, khắp người từ cổ tới nách khuỷu chân khuỷu tay đeo toàn bùa. 'Mẹ cháu đi xin ông thầy tận trên Yên Cốc đấy bác ạ.' - Cô Xanh hổn hển. 'Mày có bị sản hậu không mà nói năng lào thào như người ốm liệt thế cháu? Có được thằng bé này rồi khéo trời thương, sau lại chẳng con một bầy như cua. Xem mà lo bồi bổ, rồi ngừng chửa đẻ một hai năm hãy tính tiếp. Chứ như mấy năm vừa rồi, tao nghĩ mà hãi cho chúng mày quá. Để bà xem thằng bòi của bà dài ngắn thế nào nào?' Chú Hùng nhận lại đứa bé, mỉm cười: 'Đệ tử Cái Bang sáu túi đó bác. Ba xem bé con của ba đã sắp tè chưa nhé.' Chả ai hiểu đệ tử Cái Bang là gì, cùng cười theo chú trong khi đầu óc vẫn theo đuổi ý nghĩ riêng. Thằng bé đầu nặng đến nỗi bỏ qua mọi giai đoạn quá độ lẫy bò trườn, được cái chả khóc mếu gì, nằm lặng lẽ dù mọi người vần như vần quả bí. Đến gần bốn tuổi nó mới lẩy bẩy bước được bước đầu tiên. Có điều nói ron rỏn. Khôn phát kinh. Nhưng quả đúng như lời bà, tựa hồ nó được sống là để gánh mọi sự khó cho gia đình. Đến cái ngày người làng ra Hà Nội tới thăm bà, kể chuyện cô Xanh theo chồng vào Nam, nó đã có một bầy em ba đứa.

 

         - Bà Trong ấy hả bà. Có mà xe công nông cũng chả cày được bà ấy ra khỏi làng. Hôm bà ấy ngồi với bọn em ở đám con nhà Thiện, hỏi, bà ấy bẩu giờ chỉ còn con Xanh, ai chả muốn có mẹ có con, nhưng nó là bề gái, theo chồng là phải, mình chả đỡ được cái khổ cho nó, theo làm gì thêm bận. Kể cũng phải. Chứ đem thân vơ váo vào quê thằng con rể, chả biết thổ ngơi tiếng tăm ra thế nào, sống làm sao bác nhẩy? Rồi lại còn mồ mả ngoài này.

- Cái kiếp đàn bà... Bà có để ý không? Con bé ngày xưa nhanh mồm nhanh miệng thế, mà khoẻ... đứng giã cối bèo nặng nhọc thế nó vẫn còn hát được, giọng lanh lảnh lanh lảnh. ấy vậy mà sau này y như dải khoai héo, nói cười gì mặt cũng chả tươi được lên.

 

         Người đàn bà trẻ con im lặng nghe và sẽ tự hỏi trong nhiều năm sau đó rằng không biết bà có nghĩ tới chính mình khi nói thế. Cô Xanh, ngay trong lúc cay cực nhất vẫn còn có mẹ, có chồng. Còn bà, ông lên Việt Bắc năm bà mới chỉ ngoài ba mươi tuổi, con một bầy bốn đứa, tay trắng chạy từ Hà Nội tiêu thổ kháng chiến về làng. Mấy chục năm trời, bà như mẹ mái già, ủ dưới cánh mình hết con đến cháu, gặp sự khó thì xù bộ lông xơ xác, xoè móng cục ta cục tác đến chồn đến quạ phải khiếp. Trên đất nước này, ở đâu cũng những người đàn bà như thế. Ai đo được bao nhiêu giông bão đã thổi qua tấm lưng mỏng của họ, khi nhìn họ cặm cụi một mình, vẻ rất đỗi an nhiên.

 

Và cuối chiều

           Dòng sông chảy dưới chiếc cầu gỗ

           Không thể không dịu dàng

 

Và cuối chiều

            Rừng bạch dương đã trở vàng trong nắng

            Lẽ nào không nỗi nhớ

 

Và cuối chiều

            Biết ngày xuân đã đi rất xa

            Bao điều, thôi đành lỡ

 

Và cuối chiều

            Ngôi sao nào sáng xanh lấp lánh

            Có chăng là đắm say?

 

 

28.

 

         - Kinh nhỉ. Chắc là do ông chồng từng đóng quân ở vùng rừng bị Mỹ rải thuốc khai quang đấy mà. Mà mày có nhìn thấy tận mắt không hay chỉ nghe đồn.

         Người đàn bà nhỏ nhẹ

         - Chuyện hàng xóm nhà mình mà, hồi sơ tán ấy. Bé tí chả biết gì, chạy theo bọn trẻ con xem cảnh ông già chém đứa bé sơ sinh, về mê hoảng mấy tháng không hết. Bà mình đêm nào cũng phải đặt con dao phay ở đầu giường cho mình đỡ sợ.

         Từ phòng trong, bà mẹ chồng ôm cái túi len đan dở bước ra, giọng lạnh:

- Đang bụng mang dạ chửa... Vợ Thịnh thiếu gì chuyện không nói lại đi nói cái chuyện nghe sái thế. Thật là các chị thời nay sướng chả biết sướng, ngồi băn khoăn chuyện thiên hạ đâu đâu. Làm người ở đất nước này, sống thì tránh sao khỏi buồn khỏi khổ, cứ ngồi đó mà úi với ái thì có làm được gì cho hết buồn khổ hộ thiên hạ không?

Mấy người đàn bà trẻ ý tứ nhìn nhau, cười xòa:

- Chúng cháu vô ý quá thật. Nhưng như nhà bác đây thì buồn khổ ở chỗ nào bác? Bố mẹ chúng cháu ở tuổi bác mà được thế này thì... Nhà bác các anh các chị ai cũng thành đạt hiếu thuận. Cái Ngân vào làm dâu cửa bác thật là sướng. Chúng cháu thì nằm mơ chưa ra.

         Bà cụ thu xếp chỗ ngồi, tay bắt đầu ngoáy đôi kim đan, mắt ngước nhìn qua gọng kính:

         - Ai bảo các chị là bác sướng? Sướng khổ là tự mình thôi các cháu ạ. Vợ thằng Thịnh mới về làm dâu, mẹ trông cung cách, chắc chưa bao giờ hỏi chồng cặn kẽ về gia cảnh, phải không nào?

 

Người đàn bà giật mình. Bà cụ vô tình hay thật ra hiểu rõ lòng cô con dâu trẻ? Quả Thịnh chưa bao giờ kể cho vợ nghe nhiều về cảnh nhà. Và Ngân không định biết thêm, hoàn toàn hài lòng về quan hệ trong nhà chồng. Bố mẹ chồng già mà còn khoẻ, ở riêng trên phố. Anh chị em tất cả đều học hành nghiêm chỉnh, có nhà có cửa riêng, đặc biệt kính trọng bố mẹ , yêu thương nhau mà không bao giờ làm phật lòng nhau vì những quan tâm quá đáng. Thịnh, khoẻ, điềm đạm, kháu lão và kính vợ như bọn bạn vẫn đùa, lại có địa vị và tiền bạc. Ngân luôn luôn có cảm tưởng rằng với một người đàn ông như thế người đàn bà sẽ chẳng phải băn khoăn gì chuyện cơm áo lễ nghĩa, miễn là tròn trách nhiệm với nhau.

      

*.

 

         Trách nhiệm? Thế nào là trách nhiệm? Lại một câu hỏi khó. Từ trong thâm tâm, người đàn bà luôn cảm thấy bất an, có gì không phải với chồng. Cảm giác bất an cứ mỗi ngày một lớn, khi mà người đàn ông không bao giờ căn vặn vợ về một tiếng thở dài bất chợt, về những phút bần thần khi mở một trang sách cũ, cũng không bao giờ kể cho vợ nghe về những gì một người vợ lẽ ra phải biết nhưng đã không bao giờ hỏi. Bà mẹ chồng chỉ thỉnh thoảng gọi xích lô đến thăm, vậy mà dường như bà đã cảm ra ngay cái êm lặng lạnh lẽo trong đời sống của hai vợ chồng.

 

         - Các chị nhìn tôi không nghĩ là tôi đã có thời điêu đứng đâu nhỉ? Cứ thử hình dung, nhà bảy đứa con, đánh đùng một cái ông nhà nước cải tạo công thương nghiệp. Có gì là đem hiến hết. Tôi muốn giữ lại mấy căn nhà, tính cho thuê tiếp mà nuôi con. Nhưng ông nhà tôi bảo chỉ giữ lại một căn một tầng ở phố Bát Đàn, mặt tiền có ba mét, vỏn vẹn hai phòng lợp ngói, được cái sâu hút vào phía trong cả vườn tược cả giếng cả sân gạch rộng. Ông nhà tôi, lúc thường hết giờ dạy học thì đi ra đi vào, mà đến lúc đó... Tôi thì cuống, không biết phải làm gì, anh chị bên chồng di cư hết rồi, bố mẹ chồng già nhất quyết sống mãi với Thủ đô, con một đàn, hiến hết thì lấy gì mà đổ miệng. Thế nhưng ông nhà tôi bàn với các cụ xong đánh một câu: Hiến! Chuyển về Bát Đàn, tôi tính còn ít của nả bỏ ra cơi cao lên cho các cụ và bọn trẻ đỡ chui rúc chật chội, nhưng mà ông ấy bảo muốn yên thì chịu lún ở thấp, đừng có động cựa gì. Thế là bảy con, thêm hai cụ với vợ chồng tôi, chỉ độc hai phòng, mà phòng ngoài đã là cửa hàng chất đầy hàng họ. Còn ông ấy thì xung phong đi làm nhà nước, mấy chục năm ngày nào cũng kèo kẽo cái xe đạp tàng qua cầu Long Biên... Đấy, cô gì nói đúng đấy, có cái nhà máy gỗ, ông ấy nhà tôi làm ở đấy đấy, đầu tiên là làm công nhân, sau biết ông ấy từng có thời dạy học thì họ đưa lên làm ở phòng thống kê. Ông ấy bảo tôi ở nhà ngồi cửa hàng, lo vật chất. Ông ấy đi làm nhà nước, nhất quyết không nhập nhằng tơ hào một mảy gì. Là để đảm bảo cái phần tinh thần cho bọn trẻ.

 

         Ngân ngồi tựa thành giường, loay hoay gỡ đống len rối cho bà cụ, lòng dậy một nỗi xấu hổ và xót xa. Ai ngờ ông bố chồng lù khù thế mà lại là trụ cột tinh thần của cả đại gia đình bấy nhiêu năm. Biết bao nhiêu gia đình ở đất Hà Nội này đã rơi vào cảnh nhà chồng Ngân và đứng vững được như thế. Bảy đứa con qua tay cha mẹ, quần áo đứa bé mặc của đứa lớn, không một lời nằn nèo tị nạnh. Bảy đứa con, bao giờ cũng một điều thưa cậu thưa mợ, gặp nhau ngày giỗ ngày tết, chưa bao giờ Ngân thấy xưng với nhau là tôi, lúc nào cũng anh cũng chị cũng em như là vẫn đang tuổi bé. Bảy đứa con qua đại học, ba đứa đi nước ngoài. Cái gốc nhà phải sâu đến thế nào thì gia đạo mới vượng được trong lúc gia cảnh sa sút vậy?

         - Người đàn ông trong nhà là quan trọng lắm các chị ạ. Mà cái uy của họ nó còn là do mình biết kính họ. Mấy mươi năm ông nhà tôi đi làm nhà nước, cứ tối mịt mới đạp xe về tới nhà, có thời kì đánh phá căng thẳng quá, ông ấy phải ở luôn bên kia sông có về được đâu. Thế nhưng con cái chỉ nghe thấy ông ấy hắng giọng là sợ một phép. Là bởi vì chúng nó nhìn bố cư xử với ông bà, với mẹ chúng nó, có khuôn có phép, là bởi chúng nó biết mẹ nể bố, biết bố vạch đường chỉ lối trong nhà. Ông bà cụ tôi lúc đó đã già, mấy anh chị em chúng nó phải một tay lo hết việc nhà, đứa học sáng thì đi xếp hàng buổi chiều, đứa học chiều thì ngược lại. Bao nhiêu tem phiếu thịt thà cá mú một tay các anh chị ấy lo hết, chứ tôi thì phải ngồi cả ngày ngoài hàng. Đến cái hồi vác hai cụ và bầy con đi sơ tán mới gọi là cơ cực. Nhà nước bán toàn bột mì, bột nở không có, hồi đầu cụ nhà tôi đem nhào rồi lấy lá chuối gói, trong nhồi cục đường bé bé, đem luộc. Bột ngoài thì nhão trong thì không chín, rắn y như nắp hầm tăng xê, ném chó khéo chó chết. Sau tôi phải đem cán, cắt nhỏ như bánh canh, đem nấu cua. Anh Thịnh chồng cô Ngân đây, học trò Hà Nội mà đi móc cua giỏi lắm. Được cái mấy bà hàng xóm nếm thấy ngon, sau toàn mang gạo đổi mì. Thế là mẹ con đâm khá. Bà cụ sinh ra ông nhà tôi đi tắm ngoài sông, thấy đàn bà con gái trong làng mặc cái xu chiêng tự khâu, đệm hai cái bầu vú thật dày, cấy gặt gì mồ hôi đọng đấy nó lâu rách các cô ạ. Thế là đang lúc căng thẳng, cụ cứ tháng hai ba lần ra Hà Nội, đặt người may, đẹp hơn, dày hơn, nên cũng bền hơn. Cụ giấu trong làn, nhìn, ai cũng tưởng bà già Hà Nội đông con cháu sơ tán phải đi thăm nom. Thế mà qua mặt phòng thuế không lần nào bị bắt. Buồn cười!

 

         Bà mẹ chồng được một hôm hay chuyện, hay là cũng làm như vô tình vỡ lòng cho cô con dâu trẻ về nếp nhà. Mấy cô bạn gái tròn xoe mắt nghe, cười lăn lộn, phục sát đất chuyện hàng xén nào ở mấy cái chợ lớn dọc triền sông ấy cũng treo đầy xu chiêng của cụ bà Hà Nội. Thịnh vừa về, nghe mẹ kể cũng cười, góp lời:

        - Bà anh giỏi lắm. Bình thường bà chỉ ngồi trên sập lo rót nước cho ông thôi. Đến mấy cây ngâu cây sói ở vườn sau nhà bà mê lắm mà cũng không bao giờ tự tay tưới. Mà khác mẹ anh... Bà còn trang điểm rất kĩ mẹ nhỉ. Thế mà hồi sơ tán, cụ lăn lộn đến ghê. Không thì nhà mình gay phải không mẹ? Hồi anh An chị Thuận  học xong ở Nga về, con kể chuyện nhà mình đi sơ tán, anh chị ấy ngớ người, cười mãi, bảo không tưởng tượng nổi.

 

         Ngân nghiêng người về phía chồng, nghe lưng âm ấm hơi người đàn ông. Cái thai quẫy nhẹ. Một cảm giác tự hào lan toả làm thân thể người đàn bà bừng bừng. Trong niềm kính nể đang lớn dậy rất nhanh trước bà mẹ chồng, Ngân vẫn biết mình sẽ không như thế. Sẽ không có niềm tự tin ấy, quyết tâm sống còn ấy. Sẽ lắm nỗi hoang mang hơn, cô đơn hơn. Nhưng Ngân sẽ sinh con, sẽ nuôi dạy con, sẽ hết lòng với con mình, theo cách của Ngân. Người đàn bà nào trong bất kể thời buổi nào mà chẳng hết lòng với con theo cách của thời buổi ấy. Dù sinh ra giữa những năm tháng gian nan, tự trong thâm tâm, Ngân biết, chỉ khoảng đời có mặt Phan, Việt, Vĩnh, khoảng đời sinh viên và hậu sinh viên mới thực là của Ngân. Sau này người đàn bà đã nhiều lần hiểu ra rằng những cảm giác thánh thiện của thời trẻ trung, cả những xót xa, tuyệt vọng, khao khát và hoang mang, đã là miền bình yên nhất để tìm về khi buồn khổ, để sống tiếp.

 

           Lạ lùng làm sao, người sống cùng Ngân, người đàn ông cởi mở mà kín đáo, chu tất mà thờ ơ, tưởng như chỉ công việc và những kết quả hàng ngày trong công việc, và một gia đình yên ổn là điều kiện đủ để hài lòng lại là người hiểu tất. Người duy nhất.

 

 

Ngồi với nhau đây

         Hiền như dãy ghế trong nhà thờ

         Còn nhìn đi đâu

         Mưa rơi tàn đêm trên biển lớn

 

         Mai này em đã xa

 

         Vắng em trong thành phố

         Vắng em nơi dòng sông

         Vắng em nơi nụ hôn

         Vắng em khi tiếng hát

           

         Thế nghĩa là chưa hết

 

         Ngồi với sao khuya

         Hồn như dãy ghế trong nhà thờ

         Ấm tay lời nước mắt

         Bao giờ ta có nhau?

 

 

 

           29.

 

         - Em có đồng ý vậy không? Một bản nhạc mình mê khi còn đang trẻ thường mình sẽ thích nghe suốt đời. Nó khua cả một thời dậy... một thời khá là ngu ngốc phải không?... thế mà mình luôn luôn thèm sống lại để lại bước lại đúng những bước ngớ ngẩn. Những tình bạn - Thịnh cười, trong khi loay hoay thử cái CD nhạc mới sang lại - Những mong chờ. Cả tình yêu nữa. Bơi trong khao khát và tự tin. Chả hiểu sao tuổi ấy động một tí là buồn là chán, lúc nào cũng phồng má lên mà tuyên bố, chẳng khác gì trẻ con thổi bong bóng, tưởng nó bay lên trời, đánh đùng một cái nó nổ ngay mũi mình, ấy vậy mà ai cũng thèm sống qua một lần nữa. Đúng thế đấy. Mà chưa chắc tất cả là cao đẹp.

 

         Người đàn ông vặn to cái loa, bước lùi, đột ngột cất tiếng hát, rồi lắc đầu cười cười. Ngân lặng im ngắm chồng, mắt lộ một vẻ kinh ngạc dịu dàng. Có cảm giác Thịnh nói với vợ đấy mà lại là không phải. Thật ít khi Thịnh có vẻ cởi mở như thế. Mọi sự ở chồng, Ngân có cảm giác đã được chương trình hóa. Ba mươi tuổi: xong Kandidat. Ba mươi hai tuổi: về bộ. Ba mươi nhăm: yêu, cưới vợ, sinh con. Bốn mươi: xây nhà... Tối thứ tư và sáng chủ nhật nếu không đi công tác xa thì đưa vợ con về thăm bố mẹ. Câu chuyện về gia cảnh một thời gieo neo của bà mẹ chồng làm Ngân thêm trọng chồng, nhưng tựa hồ cũng làm vững chắc hơn trong người đàn bà ý nghĩ về người đàn ông. Chính với ý nghĩ ấy mà Ngân nhận lời lấy Thịnh. Ngân lấy Thịnh bởi chưa một lần cảm thấy nôn nao trước giờ hò hẹn, bởi những câu chuyện giữa hai người bao giờ cũng điềm đạm vậy, không còn gì để phải nghĩ phải tức tối với nhau, rồi cười một mình trước khi chìm vào giấc ngủ, biết chỉ hôm sau thôi người ấy sẽ lại tới tìm mình, như lẽ ra phải thế ở một quan hệ khác. Những lần Thịnh đón đi chơi bao giờ cũng mở đầu có hoa, kết thúc ở quán, rất êm đềm, đủ đầy: bữa ăn, lời căn dặn, suy tính. Thịnh hào phóng và tự tin, đầy vẻ đàn anh nhún nhường thằng em khi vô tình gặp bạn của Ngân. Thịnh mặc nhiên chấp nhận ở Ngân một quá khứ riêng, những mối quan hệ, nếu như đã có. Thịnh không ghen tuông và không phải một lần tuyên bố như thế trước vợ và bạn vợ. Thực ra thì sao? Đấy có phải là cách tốt nhất để giữ riêng cho mình một dĩ vãng, không cần chia sẻ, tự thú. Một cách bình tĩnh, Ngân nhận ra rất nhanh mối quan hệ giữa hai vợ chồng vừa bền chặt vừa lỏng lẻo, và vui mừng chấp nhận. Nhưng bao nhiêu đêm về, thân thể chùng lại, rũ lả, vừa mệt mỏi vừa dễ chịu sau cơn hoan lạc, người đàn bà nằm yên lặng không thể nào ngủ nổi vì cảm giác trống rỗng, và cứ vừa thiếp đi là lập tức bị bóng đè. Trong cơn mộng mị, người đàn bà thấy mình tiếc những giấc mơ bay, thấy mình rơi, rơi. Sâu hút, tối đen, sền sệt, chảy vào trong mắt, trong mũi, trong tai. Sặc sụa.

         - Sao vậy? Em! Dậy đi em. Em lại mệt rồi.

         Bao nhiêu lần Ngân chỉ muốn khóc òa lên khi Thịnh cúi xuống, nước và thuốc trên tay. Sự khủng khiếp này có phải là sự khủng khiếp của Phan, trong giấc mơ tuổi mới lớn? Thịnh không phải là Phan. Tại sao Thịnh không phải là Phan? Ngân cầm cốc nước từ tay chồng, nhấp nhấp, mỉm cười biết ơn. Thịnh tắt đèn, lên giường nằm trở lại, với tay xoa lên vai vợ. Nếu người đàn bà nghe thấy tiếng thở dài của chồng, có ý định nhìn vào mắt người đàn ông lúc đó, chan chứa những dò hỏi, bất lực và yêu thương... hay nếu người đàn ông đủ sức dẹp đi ý muốn giữ đến cùng cho riêng mình những ngày đã qua, hỏi vợ, vẫn bằng giọng yêu thương ấy, nhưng là một câu khác, không phải về bệnh tật, không phải về cơn ác mộng, liệu cuộc sống chung của họ có đơn giản và nhẹ nhàng đi không?

 

         Có nhẹ nhàng đi không, nếu Ngân là con trai, là Việt, chẳng hạn thế? Sẽ là những cuộc hôn nhân nối tiếp những cuộc hôn nhân. Nhưng Ngân không có một tình yêu cụ thể để có thể bám víu vào đó trong những quyết định thay đổi đời mình như Việt. Chỉ có những tình bạn, những tình bạn không thể sống chết một đời cho nhau, nhưng rút cục lại phải mang theo một đời cùng với đủ thứ nghĩa vụ hàng ngày của một người con, một người vợ, một người bạn, một viên chức.

 

*.

 

         - Lần này đi tìm mộ ông cả nhà để một mình tôi thôi. Tôi quen thung thổ, với lại còn bè bạn cũ. Mình  nhờ vả chuyện hiếu chứ chẳng phải xin xỏ gì...

         Người cha không nói hết câu. Ông anh bà em im lặng. Những đứa con cũng im lặng. Họ biết bao năm chỉ nội chuyện đến gặp lại bè bạn cũ thành đạt đối với người cha cũng là chuyện không thể có. Ngần ấy năm người cha nén mình sống lầm lũi, đoạn giao với tất cả, ngày tháng trẻ trung gian nan nơi chiến khu, sáng thu về xuôi tiếp quản Thủ đô, châu Sơn Dương, bến Bình Ca, ghềnh Quýt, rừng Chiêm Hóa, Chợ Bờ, Chợ Rã, những đêm Hà Nội buổi hòa bình lập lại bình an mà xáo xác, và đồng đội. Ngần ấy năm ông lấy chuyện gà trống nuôi con thành người là niềm tự hào thứ hai bên niềm tự hào đã là người của cơ quan từ thuở mười ba tuổi. Niềm tự hào không lời và xót xa đó níu lấy ông, không cho phép ông buông xuôi, dù sống cực nhọc và buồn khổ quá.

         - Thật ra thì mẹ hồi còn sống cũng đã dặn thôi đừng tìm mộ bố chứ chả phải vì bom đạn không làm được. Đận ấy ở Việt Bắc tôi được tin bố bị thương đưa vào bệnh viện Chiêm Hoá, nhưng bệnh viện đến chiều hôm đó bị oanh tạc... Có còn ai đâu... Nghe anh em cơ quan bên cạnh bảo bệnh nhân thầy thuốc tất cả đều chôn ở ven rừng, chả biết ai ra ai cả. Năm mươi năm rồi còn gì. Nhưng chả hiểu sao năm nay tôi cứ thấy nóng ruột quá. Thế nào tôi cũng phải tìm lên đó một lần. Nghe mấy thằng bạn ngày xưa làm ở ủy ban tỉnh cũng về hưu cả rồi, già hết cả rồi, chả còn gì để làm ra vẻ, chắc lắm thì giờ rảnh rỗi giúp mình.

 

*.

 

         Trở về nhà sau chuyến đi, bố bần thần mãi. Mộ ông nội không tìm thấy, dĩ nhiên rồi. Bãi tha ma giữa cánh rừng xưa, và cả cánh rừng xưa không còn một dấu vết. Người trai trẻ mặt mũi ngơ ngơ, trên áo thổ cẩm dưới quần bò dép tông đi Minxcơ trả lời ông. 'Không biết mà. Người vẫn ở đây mà. Bác vào hỏi pò mè, pò mè biết nhiều chuyện già lắm.' Cái tiếng Kinh ngòng ngọng của anh ta làm ngực ông nóng lên vì nỗi nhớ thằng bạn Thổ đã chung với mình tấm chăn dạ rách anh bí thư cơ quan nhường.

         - Anh nhỉ, không hiểu sao mà cái năm đầu ở cơ quan lắm rận thế không biết nhỉ. Chăn dạ rận, chăn sui rận. Hồi ấy chả có xống áo gì, nhảy xuống suối bắt cá, chạy về lán chui vào chăn thấy ấm sực. Thêm đống lửa cay hết cả mắt cả mũi nữa. Giờ già rồi, con cái phế cả chăn bông, biếu bố chăn lông bảo nằm cho nhẹ, mà lại không ngủ được như cái hồi co quắp đánh nhau với rận. Cái chăn dạ anh Bảo cho cũ lắm rồi, thằng Giủ nằm mê đạp thế nào toạc một lỗ to bằng cái rá, chịu không sao vá được. Cái thằng Giủ...

- Cậu có định tìm nó không đấy? Nó chết lâu rồi, bụng báng to tướng ốm phật phừ mấy năm rồi mới ngủm được. Thằng ấy nó hiền, chí tình lắm. Chả biết tranh giành gì. Được con vợ, cậu biết vợ nó không, con Chít vẫn lẩn quẩn bên cơ quan phụ nữ ấy. Vợ thằng Giủ thì khá, hòa bình được cho đi học, rồi làm bên phụ nữ tỉnh, lúc chồng chết nó đã là tỉnh ủy viên chuyển qua làm bên toà án. Hai vợ chồng nó không bao giờ đói, nhưng mà chả có lúc nào sướng hẳn. Tội nhất là lúc thằng Giủ nằm xuống rồi, có thằng con dính vào vụ buôn lậu qua biên giới, cò con thôi, nhưng mà không may. Thế là mẹ xử con. Hai năm tù. Cô Chít đến nhà tôi khóc chán rồi bảo: 'Chạy ai. Giá mình không ở cương vị này, mình còn muối mặt đi xin.' Xử xong thằng con thì con mẹ ốm, cứ lay lắt thế cho đến khi về hưu.

         - Thế ra vẫn có người sống y như thời xưa ấy nhỉ! Hồi tôi bị oan, ở tù về tôi bỏ cơ quan luôn. Chả đến ai, mà cũng chả ma nào đến mình. Cũng là lẽ đời thôi mà. Nhưng hồi ấy thì đau lắm. Cô Chít về Hà Nội họp, đến thăm tôi, kể thằng Giủ nghe tin xin nghỉ phép tìm về Hà Nội. đến được nhà tôi nhưng lại vào lúc con bé con nằm viện, hai vợ chồng quanh trong đó, thành ra không gặp được nhau. Cậu ấy là người duy nhất...

Người đối thoại thở dài:

         - Uống đi cậu. Uống đi mày. Già một chân dưới lỗ hết cả rồi. Nhớ làm mẹ gì. Cũng là lẽ đời cả. Mày vừa bảo thế hả? Cũng là lẽ đời. Chả phải không biết nhớ tới nhau đâu. Nhưng mà ai cũng sợ cũng ngại. Rồi là công tác, vợ con, chép miệng vài lần là mọi sự đã trôi xuôi rồi, đến cả cái áy náy dành cho nhau nó cũng đi đâu mất. Tao cũng là người như thế. Mấy năm sau đó tao cũng có lần về Hà Nội họp, chả ai nhắc chuyện mày nữa nên cũng không hỏi. Giờ đã ngoài bảy mươi. Có những chuyện nghĩ lại muốn ân hận cũng không kịp nữa rồi. May mà cậu có việc lên ngược mới có ngày gặp lại nhau. Uống nốt chén này rồi đi nằm. Mai tao đưa mày đi sớm. Nhớ xóm Cò không? Ông Muỗi sống đến hơn chín mươi mới chết, lần nào về cũng cầm tay khóc nhắc các anh ở cơ quan. Mẹ, có anh nào về xuôi còn ngược về thăm cụ đâu. Có hồi cụ đói rách lắm, tao về, cụ khoe cái áo trấn thủ cũ, bảo anh Giủ biếu, ấm lắm. Độ này con cháu chạy hàng biên giới, khấm khá lắm rồi. Nhưng mà mày không nhận được ra xóm Cò đâu. Ngày trước rừng ở bên hông nhà, giờ có đi nửa ngày mới thấy loe ngoe mấy cây nứa tép. Nói dại chứ dân bây giờ có đói khéo không bò nổi vào rừng tìm miếng ăn như xưa nữa. Xa quá rồi.

 

         Bà em gái út nghe chuyện ông anh từ chuyến đi tìm mộ bố về, cười ồn ào:

         - Ôi giời ơi bác. Ngỡ bác đánh đường một chuyến ngược về chiến khu là để cho cái lòng già nó nhẹ. Hóa ra các bác gặp lại nhau lại bủi ngủi bùi ngùi. Mấy đứa nhà em nghe chuyện khéo bình vụng với nhau là các cụ già lên cơn lởm khởm. Cha bố nhà chúng nó chứ! Nhưng mà nhiều khi em nhìn các cháu lại nghĩ... Giá mà ngày xưa anh em mình được sống như chúng nó độ vài ba phần khéo đời mình nó cũng nhẹ rồi. Thằng cả nhà em hôm rồi dám bảo bố nó thế này bác ạ: Tuổi bố khổ vì đổ vỡ niềm tin, tuổi con khổ vì không có niềm tin. Nghĩ đi nghĩ lại đã khổ thì khổ nào chả như nhau. Giá phải ngày xưa thì nhà tan cửa nát vì câu nó nói đấy. Nhưng bây giờ bố nó lại rót rượu cho con, cười khà khà. Em nghĩ bác cứ cố sống như bố cháu nhà em có khi lại sướng.

         - Cô bảo... Có bao nhiêu điều tôi tâm niệm là phải quên mà nó vẫn cứ bám lấy tâm trí mình. Càng già càng hay chạnh lòng. Cái tạng tôi giống bà nhà mình. Có điều cũng chả nói được với ai. Khổ thế. Vừa rồi đi tìm mộ bố gặp lại anh em đồng chí cũ, có lẽ cũng chỉ một lần này. Rủ nhau đi cũng sắp vãn rồi. Tôi ngày ở cơ quan là thuộc lớp ít tuổi nhất mà giờ cũng bảy mươi mốt. Có lẽ vì thế mà lại vạch vòi lòng dạ được trước nhau.

 

*.

 

Bi kịch? Bi kịch của thế hệ? Bi kịch của mỗi người? Lứa tuổi nào chẳng có niềm tin thời đang trẻ. Nhưng niềm tin thật khó quy đồng. Làm sao tìm được mẫu số chung trong niềm tin của những người như bố, chú Thái và như bố mẹ chồng Ngân ở thời buổi đã rất xa xôi kia. Làm sao thấu hết mãnh lực của niềm tin đã thúc ông nội từ bỏ Hà Thành lên Việt Bắc và nằm lại đó, cũng như niềm tin đã dẫn dắt ông lão Việt Nam một đời bôn ba quê người. Thằng em Ngân kể cũng là hơi bạo khi tuyên bố rằng bi kịch của tuổi nó là không có niềm tin. Có chứ! Niềm tin sắt đá vào sức mạnh của đồng tiền chẳng hạn. Hay là sức mạnh của Version Word n. 0? Mới, mà cũng xưa như là cổ tích. Nếu chúng nó có bi kịch thì bi kịch có lẽ là ở đấy. Còn bi kịch của bọn Ngân ở tuổi chúng nó bây giờ? Là sự giằng xé giữa lí tưởng của thế hệ bố mẹ, muốn theo lắm, với thực tế từng ngày, với lòng ham sống, với ý thức cần phải sống, sống thật sự, cho mọi người, nhưng trước nhất là cho mình? Không nếm, làm sao biết dọn cỗ. Hay cũng không phải thế? Ngân nhớ mình đã khổ sở bao nhiêu khi không thể nào vui hết mình được cùng bè bạn. Càng khổ hơn lúc bất chợt nhận ra niềm sung sướng cay độc khi có thể nói ra một lời nhạo báng không động chạm một ai nhưng không ai chịu nổi. Sau này người đàn bà sẽ âm thầm tiếc rằng tuổi ấy đã không được quyền nói với nhau rằng có thể có một niềm tin khác, rằng có những niềm tin rất khác nhau. Sao không, khi Ngân, một buổi sáng đầu mùa hạ thấy mình khoẻ mạnh bất thường, thấy sự im lặng tinh khiết đang thống trị hành lang khu nhà tập thể hệt như ân huệ không dám cầu, thấy nắng và gió sớm sao mà tuyệt diệu, thấy màu hoa vàng trên bàn viết lộng lẫy và mong manh, đã bất chợt buông sách cất tiếng 'chiều biên giới em ơi - có nơi nào xanh hơn - như đầu sông ngọn suối- như chiều quê biên cương... 'Em ơi có nơi nào đẹp hơn chiều biên giới...' Sẽ đến một ngày người đàn bà nhận ra tất cả sự nhẫn tâm vô tình trong tiếng hát của mình. Biên giới lúc đó là chiến tranh, là mìn giật sập động Tam Thanh, là biển người từ phía Trung Quốc tràn sang. Lúc đó Ngân sung sướng, sung sướng vì được sống qua một tâm trạng thời đại cao đẹp báo đăng đài nói liên miên mà không phải thực sự dấn mình vào hoàn cảnh chẳng dễ chịu tí nào kia, sung sướng vì được hát như thế, giữa thành phố.

 

 

 

Ta mang theo mùa thu

như một niềm mong ước

Em mang theo đời ta

lẽ nào em không biết

 

Đừng nghĩ rằng tuổi trẻ qua mau

Cả tuổi già cũng thế

 

Biết không

Trong hắn vẫn một chiếc thuyền

đậu bến em.

 

        *

 

         Trên lá vàng lại thêm lá vàng nữa

            Trên nỗi buồn lại thêm nỗi buồn nữa

            Cuộc đời ta?

 

            Ta vẫn yêu mối tình ấy thôi

            Ta vẫn đau nỗi buồn ấy thôi

            Thu nay có lại như thu trước

            Non nước bây giờ năm tháng trôi

 

 

 

30.

 

- Vĩnh cứ tưởng là hồi ấy bọn mình đã có thể nói hết với nhau...

         - Thì đúng thế còn gì. Ngân có giấu gì đâu... những ý nghĩ có trước Vĩnh khi đó.

            - Thế nhưng mà...

- Phải, phải. Có những điều ngày đó Ngân đã nghĩ, nhưng mà trước Vĩnh Ngân không nói. Chỉ đơn giản là... Xin lỗi...

...

         Không phải vì những éo le. Chỉ đơn giản là những điều ấy Ngân không thấy cần phải nói với Vĩnh. Ở một nơi nào đấy có một người nào đấy... Sau này Ngân biết rằng cảm giác ấy gọi đúng tên là tưỏng bở. Tưởng bở đấy thôi. Vô nghĩa thật, khi nhìn những cuộc đời đi qua. Chả biết phải phấn đấu ra sao và phấn đấu để làm gì. Sao mọi người vẫn bình thản trước cuộc đời trầy trật thế này. Dù sao thì... Vĩnh nhỉ, không thất vọng làm sao biết thế nào là hi vọng.

 

Mưa. Cơn mưa bất chợt. Nguời đàn ông giúp người đàn bà đứng dậy:

- Mưa hắt ghê quá. Khéo mà Ngân ốm. Mình vào trong này ngồi nhé.

- Thôi Vĩnh. Cũng muộn rồi. Đứng ngoài này cho nhẹ đầu, chờ mưa ngớt rồi còn...

         Những tiếng cuối cùng người đàn ông không nghe thấy. Gió đuổi hơi người đàn bà đi đâu. Người đàn bà xoè bàn tay ra ngoài mái hiên. Những giọt nước bay xiên trong ánh đèn đường vừa mới sáng, vỡ trên lòng bàn tay dẫu tuổi tác rồi mà vẫn mỏng y như thời con gái. Lá ướt. Những ngón tay mưa. Da thịt người đàn ông se lại trong nỗi nhớ một ngày trẻ tươi và lặng lẽ. Người đàn bà quay sang nhìn bạn:

       - Ngớt rồi. Vĩnh về được rồi. Bình thường có về muộn thế này không? Handy của Ngân hết pin, cho Ngân mượn gọi mấy câu về nhà để bọn trẻ khỏi nóng ruột.

 

       Giống như là một dấu lặng để chuyển qua những gào thét âm thầm khác. Người đàn bà nhìn theo bóng xe người đàn ông thoắt cái đã biến mất ở chỗ ngoặt đầu phố. Chợt nhớ mình bao năm xưa. Đã bình thản vô cùng khi nhận thiếp mời của bạn, đã vui mừng cho nhau, nhưng lòng đau đớn mãi. Không biết vì sao. Có thể vì biết rằng dù có chung bao nhiêu là hồi ức và thông cảm, với bạn, mình tuyệt nhiên không phải là hạnh phúc. Nhưng buổi chiều muộn này đã là của mười mấy năm sau. Trong trí, một hình dung cứ dần dần hiện rõ. Đêm nay thôi, sau bữa cơm tối, lúc những đứa con yên giấc, người đàn ông sẽ nằm xuống, ôm lấy vợ, thì thầm: "Chiều nay về anh gặp cô bạn học cũ, mải chuyện, lại mưa, em có nóng ruột không?' Những động cựa và âu yếm. Không hiểu vì sao hình dung ấy lại làm người đàn bà yên tâm, ấm lòng. Và kinh ngạc nhận ra lòng mình yên ổn lại không chỉ vì ý nghĩ về bạn, mà vì ở góc phố ấy, trong khung cửa ấy đang có một người đàn ông chờ mình. Mưa ngớt hẳn. Từ bốn phía lại dậy mùi hương cũ. Hoa sữa. Đầu đông. Người đàn bà lên xe. Vòng bánh xe quay đè nát những giọt mưa mồ côi vừa vỡ trên mặt đường. Ngày trước, Ngân thường thận trọng lắm để không làm vỡ những giọt nước như thế đọng trên lá gió mưa vừa rứt khỏi cành khi bước đi trên phố.

 

*.

 

- Việt chờ em vừa mới về. Các con với Osin ăn rồi. Còn anh đợi em. Anh rủ Việt ở lại chờ em rồi bọn mình ra quán mà cậu ấy đòi về, bảo sốt ruột vì con bé. Bạn em buồn cười thật. Bỏ vợ lia lịa nhưng mà với con thì dính như keo.

- Bọn em biết mà. Cô vợ mới nào cũng tha hồ làm nũng cậu ấy, nhưng đừng có tính chuyện gì với con bé con. Em đã bảo Việt đừng có chiều con quá mà cũng đừng đòi hỏi nó nhiều quá.

- Có mà giời bảo. Em cứ nhìn em xem nào. Nhiều lúc anh sốt hết cả ruột vì cái cách em tha con chạy quanh cái guồng dạy và học bây giờ. Nào, đi ăn đã. Đã về nhà một mình một mâm là anh không tài nào ăn nổi, nhưng chờ vợ đến giờ anh hết cả đói rồi đây này.

- Em gặp Vĩnh. Lâu quá mới gặp nhau. Lại mưa. Lúc mưa anh đang ở đâu.

Trên đường. Phóng như điên. Trời mưa nên không tắc. Cứ nghĩ bà nó ở nhà rồi. Ngày xưa mà biết gia đình một chồng một vợ hai con cùm mình chặt thế này thì anh sẽ thi hành chế độ...

- Chế độ gì? Em ủng hộ cả chế độ đa thê lẫn đa phu đấy.

- Biết rồi. Biết rồi. Biết vợ của anh rồi...

Người đàn ông cười cười đưa tay nhận bát cơm vợ mới xới. 'Vĩnh có được vợ chờ cơm không?' Bất giác Ngân cũng mỉm cười.

 

 

Sông con chảy

Trong vàng thu

Yên ắng

 

Mù sương giăng

Che một vầng trăng

Xa vắng

 

Thảng thốt đau

 

*

Và mịt mờ trong sương

Chopin

Và ngọt ngào bi thương

Chopin

 

Đâu cũng như quê

Đâu cũng như không

Chopin

 

 

 

31.

 

Đứa bé gái đứng trên ngôi mộ giơ tay về phía trước. Bầu trời như một tấm vung thiếc khổng lồ úp chụp lấy nó trong một vùng tối ướt sũng. Mưa rụng những hạt to và nặng, bỏng rát, bám lấy da mặt nó. Đứa bé gái muốn bước về phía trước. Nhưng không thể. Đôi chân gầy của nó lún xuống nấm mồ. Có gì dưới ấy giống như là bùn, như là cỏ ướt bíu lấy hai bàn chân nó. Con bé con rướn người, giơ hai bàn tay hướng về phía trước. Từ đôi môi trẻ con bầm tím vì ánh trời quái gở của nó thoát ra tiếng thì thào khẩn cầu vô vọng: Mẹ!

 

Đấy là một giấc mơ khủng khiếp. Nó đến với Ngân ngay đêm đầu tiên đi đưa mẹ về. Nó đến với Ngân năm con bé mười ba tuổi và thỉnh thoảng lại quay về. Không có điềm gì báo trước rằng giấc mơ đó sẽ quay về. Nó về, đơn giản vậy, sau một buổi chiều dường như rất vui tự bạ cùng bè bạn. Nó về, trong những ngày người đàn bà sung sướng thấy mình hoà hoãn được với cuộc đời. Nó về, khi một đứa con bỗng dưng ốm. Nó về, vào lúc người đàn bà từng ngày chu toàn mọi việc, và dù thế, vẫn biết mình khát khao gì. Đấy là một giấc mơ khủng khiếp.

 

Mẹ phía trước. Trên nấm mồ của mẹ. Mẹ không héo hắt như những ngày cuối cùng trong mùa hè nhiều sự kiện vừa phấn chấn vừa buồn thảm ấy. Mẹ, mái tóc trong ánh trời xám sùng sũng nước vẫn toả một vầng sáng nồng ấm. Mẹ, dáng lẳn và môi mọng. Mẹ, nhưng đôi mắt mở to, căng thẳng. Hai hàng lông mày vạch một đường đậm, rướn cao. Đấy là đường nét của người không biết nhân nhượng và đấy là nét duy nhất mà Ngân thừa hưởng được từ mẹ.

Mẹ đứng đó. Trên nấm mồ của mẹ. Tay mẹ cũng giơ cao, hướng về Ngân. Đôi mắt mẹ trong một nét nhìn căng thẳng cuối cùng chuyển hẳn thành đau đớn. Mẹ cũng không thể nào bước được. Đôi chân mẹ đã cắm sâu xuống mồ và cái khoảng rỗng dưới đó hút chặt lấy mẹ. Hai mẹ con nhìn nhau, cố với lấy nhau. Mưa vẫn rơi, bỏng rát. Bầu trời phù thũng sập đến nơi rồi. Những nấm mồ nhấp nhô khắp nghĩa trang lún dần. Con bé cũng lún dần. Nó còn cố nhìn mẹ vẫn ráng bám chân trên nấm mồ, giơ tay về phía nó trong một cố gắng hoảng loạn, tuyệt vọng.

 

*.

 

          Người đàn ông không tìm cách đánh thức vợ dậy như mọi lần, chỉ ôm xiết tấm thân đầy đặn đang run bần bật của người đàn bà, cố lọc lấy từ đôi môi run của vợ một âm thanh có nghĩa. Người đàn bà đã tỉnh, không tìm cách toài ra khỏi vòng ôm của chồng, khóc nức lên như trẻ nhỏ. Có thể giải thích được chăng nỗi đau đớn khủng khiếp không giảm bớt theo thời gian của mình khi mơ lại giấc mơ nghiệt ngã. Ngân quay người, hít mạnh. Hơi ấm nồng nồng từ thân thể người chồng làm lòng người vợ bình thản lại. Nỗi tuyệt vọng rút dần như lũ mùa.

 

- Tỉnh hẳn chưa em. Em uống nước không? Để anh dậy rót nhé!

Ngân nhìn lưng chồng quay về phía giường. Người đàn bà không hề biết rằng phút ấy lòng người đàn ông tan hoang thế nào.

        

- Mình thức nhé. Đằng nào cũng khó ngủ lại. Em này, anh có một tin mới cho em

- ?

- Anh qua kì tuyển rồi đấy. Thì vẫn nghề mình. Có điều bây giờ mình không là đại diện cho Việt Nam mình mà ăn lương của FAO và sẽ làm việc ở nước ngoài. Sang năm bắt đầu.

- ?

- Anh không nói với em. Nhiều bọn trẻ lắm cũng xin. Mình chững tuổi rồi, nghĩ khó. Ở nhà làm ăn đang được. Nhưng mà anh thấy mệt mỏi quá rồi. Chúng mình sẽ đi cùng nhau chứ? Anh nghĩ em dừng một thời gian cũng là điều tốt. Dạo này em ngủ thấy khổ sở quá.

- Nhưng còn việc học của các con? Đi có thời hạn, liệu có khó cho các con không?

- Mình sẽ thu xếp được...

- ...

- Còn chuyện này nữa: Đề án anh đang làm với công ti của Phan sắp kết thúc. Có một phần việc phải làm bên kia. Đoàn gồm Phan, anh với một cậu cùng cơ quan, mấy ông lãnh đạo địa phương. Và Vĩnh. Vĩnh không nói với em là làm đề án cùng anh à? Phan bảo muốn làm giấy mời cả em, nhân thể thôi. Mình sẽ tự chi, coi như một chuyến đi nghỉ. Em thấy thế nào?

 

*.

 

Một chuyến đi nhọc mệt. Chen giữa những giờ ngồi một mình ở khách sạn trong khi chồng làm việc là những chuyến tham quan chớp nhoáng theo yêu cầu của mấy ông cán bộ lãnh đạo địa phương cùng đoàn. Từ khu đèn đỏ ở Amsterdam lại lồng qua Louvre ở Paris, rồi lại nhảy bổ tới Rom. Chỉ tội cậu nhân viên Phan giao cho việc lái xe, dịch dọt và rước xách. Thịnh ái ngại nhìn vợ. Phan thì đầy vẻ băn khoăn.

- Mai Phan định đưa đoàn đi thăm thành phố nơi nhà mình sẽ sống năm sau. Em có mệt quá không?

- Không sao đâu anh. Em đi được. Còn mấy ngày nữa đã về. Đi chứ? Đi cho biết.

 

Ấn tượng sâu đậm về thành phố châu Âu mà Ngân sẽ sống một khoảng đời bắt đầu từ buổi đó. Nếu không có cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên đó liệu nó có được trong lòng Ngân không? Mùa thu. Con đường chạy giữa hai hàng sồi già ngời ngời lá đổ: Tía, vàng, nâu, đỏ thắm. Màu lá kì diệu, hồ như sắc nắng trong mưa.

 

Người đàn ông bối rối dừng chân:

- Ngân đấy à? Ngân không ở trong đó xem tiếp nữa à?

- Ở ngoài này thích hơn Phan. Sang năm Ngân lại đến nơi này. Bảo tàng thì vẫn còn đấy, xem sau. Nhưng cái khoảnh khắc này thì chỉ một phút nữa thôi là người ta đã có thể không thể hình dung lại nổi. Phan nhìn xem: Lá như là nắng đầu thu vậy. Trong khi mây xám như một ngày đầu đông ở nhà mình. Còn bầu trời thì mới rộng làm sao. Liệu bao giờ tuyết nhỉ?

Người đàn ông tắt cái walkman, quay nhìn vòm cửa viện bảo tàng:

- Còn lâu Ngân. Bây giờ mới mùa thu. Rồi sang năm Ngân sẽ phát nản vì tuyết. Nhất là những ngày tuyết sắp rơi. Lạnh kinh khủng. Lạnh méo cả miệng. Còn bầu trời thì giống như cái bụng của con tằm bệnh ấy, vàng úa úa và phù ra ở chân trời. Kìa, anh Thịnh nhà Ngân với Vĩnh cũng ra rồi. Giờ thì phải đi tập hợp mấy vị lãnh đạo kia lại. Các vị đó ra lâu lắm rồi.

Người đàn bà chìa tay, cầm lấy cái walkman từ tay bạn, ngoắc ống nghe lên tai:

- Phan đang nghe gì đấy?

- Bình thường toàn classic. Hôm qua thấy cái CD Trịnh Công Sơn của Vĩnh. Lâu lắm rồi nghe lại... thấy...

Tiếng người đàn ông nhỏ dần theo bước chân Ngân rời đi, xa vời bên ngoài headfon đang thả từng lời chua xót, '...Rừng đông rơi chiếc lá - ta cười với âm u... Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời không thấy một ngày vui đường trần rồi khăn gói mai đây chào cuộc đời...' Người đàn bà ngửa mặt. '...Nhìn lại nhau con mắt lo âu xin vỗ về muôn yêu dấu... Nhìn lại nhau che những cơn đau...'  Bầu trời xứ lạ mênh mông như những ngày đã qua nơi quê nhà. Thời gian giống như chuỗi vòng pha lê vỡ dần từng viên trong lòng người đàn bà khi sau lưng bước chân của chồng và bạn lạt xạt gần lại trên lá ướt. Người đàn bà mỉm cười. Nước mắt ứa ra mằn mặn. Hạnh phúc! Hạnh phúc là năm tháng này còn được nghĩ về nhau

 

*.

 

Nơi ấy, những cô bé con trở thành thiếu nữ, qua tháng ngày đứt đoạn, rồi thành đàn bà.

Nơi ấy, rất lâu sau có một người đàn bà trở về. Ngõ nhỏ ồn ào. Người đàn bà đứng bên này đường ngước nhìn vòm đa cổ thụ. Những chiếc xe máy lồng lộn, nhả khói khét lẹt cùng âm thanh rợn óc. Một chiếc lá vừa rời cành đang nóng nảy vật lộn với gió. Người đàn bà ghìm mình không bước dấn ra giữa phố, xoè tay...

 

         Ngày hôm sau người đàn bà ra đi.

 

 

Trở lại quá khứ gặp nhiều người quen hơn bây giờ

 

*

 

Không phải là quá khứ chung chung...

 

Quá khứ của hắn

         Mà dùng súng lục để bắn

Là chết

 

*

 

Vầng trăng nhỏ bé

 

Đêm ta về

Chìm dưới đáy sông sâu, lặng lẽ

Nước chảy, theo thời gian, và gương trăng khi mờ khi tỏ

Buồn hay vui, ai có hỏi một lần

 

Này vầng trăng

Người có quá khứ không?

 

 
(*): Thơ: Đỗ Quang Nghĩa

 

Lê Minh Hà

2001

22' 9 - 29.12 2003