*

 



Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
NQT: Lần Cuối Sài Gòn

Gautier và những cuộc tản bộ buồn Istanbul 

Gautier, nhà văn, ký giả, nhà thơ, nhà dịch thuật, và tiểu thuyết gia, là bạn trung học của Nerval. Hai người trải qua thời trai trẻ cùng với nhau, cả hai đều mê chủ nghĩa lãng mạn của Victor Hugo, và có một dạo, họ ở rất cận kề với nhau, ở Paris, và chẳng bao giờ có chuyện sứt mẻ. Một vài ngày trước khi tự tử, Nerval đi thăm bạn, và khi Nerval tự treo mình lên một cái cột đèn đường, Gautier viết một bài tưởng niệm cảm động, theo dòng “đi tìm một linh hồn”, về người bạn đã mất của mình.
Hai năm trước, năm 1852, (chín năm sau chuyến đi và đúng một trăm năm trước khi tôi ra đời), những biến động -  sau này khiến Nga xô đối nghịch với Anh, đem nước Pháp đến gần với Đế quốc Ottoman, và mở ra Cuộc Chiến Crimean - lại một lần nữa khiến cho những cuộc du hành về phương Đông trở nên thích thú đối với những độc giả Pháp. Khi Nerval mơ tưởng một chuyến đi thứ nhì về phiá Đông, thì chính là Gautier đã tới Istanbul. Nhờ tầu thuyền chạy bằng máy hơi nước ở Địa Trung Hải khiến chuyến đi của ông xuất phát từ Paris chỉ còn mười một ngày.
Gautier ở Istanbul bẩy mươi ngày. Ông viết về chuyến đi, lúc đầu, là cho nhật báo, ông là tay chuyên viết fơi ơ tông, [viết từng kỳ, liên tiếp cho một nhật báo], và sau đó, cho in thành sách mà ông đặt tên là Constantinople. Cuốn sách quá phổ thông và được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và được coi là chuẩn mức cho những cuốn sách viết về Istanbul vào thế kỷ 19 (cùng với cuốn Constantinopoli, của  Edmondo de Amici, được xuất bản tị Milan, ba chục năm sau).
So với Nerval, Gautier tay nghề cao, sắp xếp bảnh, và thông thoáng hơn. Chẳng có gì là lạ: Là một nhà chuyên môn viết fơi ơ tông, một nhà phê bình, và một ký giả chuyên về nghệ thuật, ông còn viết loại tiểu thuyết từng kỳ cho nhật báo (có lần ông ví mình như nàng Scheherezade bắt buộc mỗi đêm phải bịa ra một chuyện). Do phải viết hàng ngày như thế, Gautier tạo cho mình được tốc độ, và sự sống động, (và đây là điều Flaubert chê ông). Nhưng nếu chúng ta bỏ qua những điều đã trở thành bản kẽm, được lập đi lập lại đến trơ ra, về những ông vua Hồi giáo, những hậu cung của họ, những nghĩa địa, cuốn sách của ông thật tuyệt về mặt phóng sự. Nếu cuốn sách lúc nào cũng ngân nga ở trong đầu Yahya Kemal và Tanpinar, giúp họ tạo ra đuợc một hình ảnh của thành phố, ấy là vì Gautier, ngoài tài năng là một ký giả nhà nghề, còn là một người biết nghe lời khuyên của Nerval, để tâm tới đều mà bạn ông gọi là “những cánh gà”, lặn lội vào những khu phố tối tăm, nghèo khổ, thám hiểm, khai phá những điêu tàn đổ nát, những tối tăm, dơ dáy, để chỉ cho những độc giả Tây phương hiểu ra rằng, những khu vục nghèo khổ đó quan trọng chẳng thua gì những khung cảnh nguy nga, hoành tráng.
Khi đi qua đảo Cythera, Gautier nhớ Nerval nói với ông về một xác chết ông ta nhìn thấy, được bọc trong bộ quần áo dính dầu, treo lủng lẳng trên một cây cột (hình ảnh này, cả hai đều yêu thích, và một trong hai người sau đó đã bắt chước làm theo, và sau này, còn được Baudelaire ứng tác, đưa vô một bài thơ của ông nhan đề “Cuộc hành trình tới Cythera”).
Khi tới Istanbul, Gautier, giống như Nerval, vận chiếc “áo dài Hồi giáo”, và tàn tàn tản bộ một cách thật thoải mái. Như Nerval, ông tới Istanbul vào mùa lễ Ramadan, và theo như bạn mình, thả mình vào đêm hội của nó. Ông cũng mò tới Uskudar ngắm những ông thầy tu Rufai cử hành những nghi lễ bí ẩn, dạo chơi nghĩa địa, nhìn những đứa trẻ chơi đùa bên những bia mộ, đi coi hát bóng Karagoz, viếng những cửa hàng, lặn lội trong những khu chợ đông đúc của thành phố, chăm chú theo dõi những khách bộ hành qua lại. Vẫn bắt chước Nerval, ông cố gắng diện kiến từ xa, ít ra một lần, nhà vua Sultan Abdulmecit, trên đường đi cầu nguyện vào những ngày Thứ Sáu. Như hầu hết những nhà du lịch Tây phương, ông cũng đưa ra những công thức của mình về đàn bà Hồi giáo - cuộc sống khép kín, nỗi khốn khó, không làm sao lân la, tới gần được, và sự bí ẩn của họ (ông khuyên độc giả của mình: chớ, chớ bao giờ hỏi thăm sức khoẻ của bà xã của bất cứ một ông đàn ông Hồi giáo nào!). Nhưng ông thành thực bảo chúng ta, phố xá thì đầy đàn bà, ngay cả đàn bà đi một mình. Ông bàn dài dài về Cung điện Tokapi Palace, những thánh đường, Nhà Ca Múa Hát, và tất cả những nơi chốn mà Nerval gọi là những cái bẫy dành cho khách du lịch. Tuy nhiên, những nơi chốn, phong cảnh, và đề tài như vậy, là đều dành cho khách du lịch Tây Phương, họ đến Istanbul là để tham quan những nơi chốn đó, cho nên, chúng ta cũng đừng nên quá coi trọng nhận xét của Nerval. Mặc dù đôi khi tỏ ra thô lỗ, nhưng nói chung, Gautier, do say mê khái quát hoá sự kiện, quan tâm đến chi tiết quái dị, khác thường, thật thích thú khi đọc ông, đấy là chưa kể con mắt hội họa của ông, khi nhìn ngắm, mô tả sự vật.
Cho đến khi ông đọc những bài thơ in trong Đông phương của Hugo, vào lúc mười chin tuổi, Theophile Gautier vẫn mơ uớc mình sẽ là một họa sĩ. Ông rất được thời của ông ngưỡng mộ, như một nhà phê bình nghệ thuật. Để miêu tả những cái nhìn và những phong cảnh Istanbul, ông dựa vào một cuốn tự vựng phê bình hội họa, chưa từng được ai áp dụng cho Istanbul.  Miêu tả bóng dáng của Istanbul, và Mũi Vàng, nhìn từ ngọn đồi, nơi có tu viện Galata Mevlevi Lodge (cũng từ chỗ này, Nerval đã từng mô tả thành phố, trước đó chín năm, đây cũng là trạm cuối của đường xe điện Macka-Tunel, mà khi còn là một đứa bé tôi được mẹ dẫn đi tới Beyoglu mua sắm đồ, và bây giờ là Quảng trường Tunel): “Cảnh đẹp đến nỗi có cảm giác cảnh không thực”, và rồi ông tiếp tục mô tả những ngọn tháp, những vòm cung ở Hagia Sophia, Beyazit, Suleymaniye, Sultanahmet, những đám mây, những đợt nước của Mũi Vàng, những vườn bách ở Sarayburnu, và, đằng sau chúng, là một nền trời “xanh nhạt, dịu dàng đến nỗi không thể nào chịu đựng được”, và những trò chơi của ánh sáng giữa chúng – ông miêu tả tất cả những nét đó bằng niềm hân hoan thích thú của một nghệ sĩ ngắm nghía nét tinh sảo của bức tranh do chính mình tạo ra, và bằng sự tự tin của một nhà văn kinh nghiệm đầy mình. Ngay cả độc giả chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này cũng cảm thấy thích thú. Panpinar, nhà văn Istanbul, cực kỳ mẫn cảm trước phong cảnh Istanbul, được coi như là một “màn trình diễn rộng lớn của ánh sáng”, người đã tạo ra cho mình cả một bộ tự vựng, một con mắt chuyên về chi tiết, được vậy, là nhờ đọc Gautier. Trong một bài viết, trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Tanpinar chỉ trích những tiểu thuyết gia khác cùng đàn đúm với ông, về điều, họ không thèm để ý đến “nhìn” và “mô tả” sự vật chung quanh và, trong khi vinh danh những nhà văn viết bằng con mắt của một họa sĩ như Stendhal, Balzac, và Zola, ông nói thêm, Gautier, chính ông ta, cũng là một họa sĩ.
Gautier hiểu làm thế nào chuyển những cái nhìn của ông thành những chữ, làm thế nào chuyên chở những cảm nghĩ, được khơi dậy bởi những đường nét, chi tiết thật đắt, và trò chơi ánh sáng, ở đỉnh cao của quyền năng nghệ thuật của mình, khi kể lại những chuyến đi của ông vào những “cánh gà”, của nhà hát Istanbul. Trước khi khởi sự những chuyến đi dọc theo những bờ tường của thành phố để ra vùng ngoại vi của nó, Gautier, dựa vào những nhà văn đi trước ông, đưa ra nhận xét, những cái nhìn hoành tráng, tuyệt vời, về thành phố cần ánh sáng và một khung cảnh nhìn thật rõ ràng, bởi vì, cũng giống như những dàn dựng trên sàn hát, chúng sẽ mất sự quyền rũ, nếu nhìn thật gần: Khoảng cách đem đến cho phong cảnh sự hoành tráng, vẻ tuyệt vời, đồng thời làm nhạt nhòa đi, vẻ tiều tụy, u ám, chật hẹp, quá quắt, dơ dáy của những con phố, và những mớ nhà cửa, cây cối hỗn độn, khiến chúng trở thành lung linh mầu sắc, nhờ tấm“bảng mầu của mặt trời”.
Nhưng con mắt họa sĩ của Gautier còn tìm ra vẻ đẹp buồn bã, giữa dơ dáy và hỗn độn. Ông chia sẻ sự hân hoan, niềm khích động của văn chương lãng mạn trước những điêu tàn của những lâu đài thành quách Hy Lạp và La Mã, những cái còn lại của những nền văn minh đã biến mất, cho dù ông khinh bỉ sự rạp mình kính sợ. Khi còn trẻ, mơ ước trở thành một họa sĩ, ông nhận ra những căn nhà trống rỗng của khu Doyenne cul-de-sac, và Saint-Thomas-du-Louvre Church (gần điện Louvre, kế bên nơi Nerval từng cư ngụ) thật quyến rũ dưới ánh trăng.
Rời khách sạn (ở Beyoglu bây giờ), và đi bộ xuống Galata, tới những bãi biển Mũi Vàng, rồi vượt cây cầu Galata Bridge (được tái xây cất vào năm 1853, một “cây cầu của những con thuyền”, như ông viết), Gautier và nguời Pháp dẫn đường mò mẫm tới Unkapani, khu Tây Bắc, chẳng mấy chốc, họ “lặn vào một mê cung của những con đường nhỏ Thổ nhĩ kỳ”. Càng đi xa, họ càng cảm thấy bị cô lập, đàn chó đi theo họ mỗi lúc một thêm đông, sủa gâu gâu, nhe hàm răng nhơn nhởn của chúng ra. Mỗi lần tôi đọc về những căn nhà gỗ sập xệ, không sơn sửa, tối thui, những vòi máy nước công cộng bị phá bể, những ngôi mộ không chăm sóc, mái đổ nát, và tất cả những gì họ quan sát được, trong khi đi tản bộ như thế, là tôi lại cảm thấy hoang mang, ngỡ ngàng, bởi vì những nơi chốn mà tôi nhìn thấy, trong những lần ngồi trên xe hơi với cha tôi, một trăm năm sau, y chang như vậy, chẳng có gì thay đổi cả, ngoại trừ những hè đường. Ấy là vì Gautier, cũng như tôi, đều cho rằng chẳng nghĩa địa nào đẹp, nếu thiếu chúng, chúng ở đây, là những căn nhà gỗ ám đen, điêu tàn, hoang phế, những bức tường đá, những con phố rỗng tuếch, những hàng tùng, bách… Khi tôi bắt đầu nghi lễ của chính tôi, nghĩa là, bắt đầu thực hành những chuyến tản bộ thành phố buồn như vậy, vòng vòng cũng như khu phố hoang tàn chưa Tây phương hóa như vậy (buồn thay, lửa và xi măng, gạch, vữa chẳng bao lâu sau đó sẽ xóa sạch], tôi nhận ra cảnh vật làm mệt nhoài người nhìn, như Gautier, tuy nhiên cũng như ông, tôi vẫn cảm thấy sự hối thúc, “từ đường này tới lối kia, từ xóm này qua xóm nọ”. Lời kêu gọi cầu nguyện có vẻ đối với ông cũng như đối với tôi sau đó, là nhắm vào những “căn nhà câm điếc, mù lòa, nằm trong im lặng và cô đơn”. Ông chắc sẽ nghĩ đến dòng thời gian trôi chảy, khi ngắm nhìn một vài khách bộ hành, một vài sinh vật thoáng qua: một bà già, một con thằn lằn biến mất giữa đám gạch đá, hai hay ba đứa trẻ ném sỏi xuống một bồn nước bể nát (cảnh này làm ông nhớ tới một bức tranh mầu nước của Maxime du Camp, viếng thăm thành phố hai năm trước với Flaubert). Khi cảm thấy đói, ông nhận ra khu này vắng hoe những tiệm ăn, những nhà hàng, và đành ngắt mấy trái dâu tằm từ những hàng cây hai bên đường, chúng đem mầu sắc, hương vị đời sống đến cho những con phố ở đây, làm dịu đi vẻ lầm lì của những khối bê tông, ngay từ thời thơ ấu của tôi, hay là năm mươi năm sau đó, khi tôi đang viết những dòng này, thì cũng vậy. Ông làm quen với không khí làng xã của khu vực lối xóm Hy Lạp Samatya và Do Thái Balat, nơi được gọi là Ghetto Istanbul. Mặt trước của những căn nhà ở Balat thì đầy những vết nứt nẻ, lở lói, những con phố dơ dáy, bùn bụi, tuy nhiên, khu phố Hy Lạp Fener được chăm sóc  trông đỡ hơn. Nhưng bất cứ khi nào ông nhìn thấy một mảnh tường còn lại của thời kỳ Byzantine, hay một khúc cống lớn, điều mà ông ngộ ra, là gỗ, tưởng phù du, tưởng dễ tiêu trầm theo với thời gian, hoá ra là bền bỉ hơn nhiều, so với gạch đá.
Những khoảnh khắc cảm động nhất trong cuộc tản bộ dài, mệt mỏi, bất thình xẩy ra, khi Gautier bắt gặp những điêu tàn, cái còn lại của một thời kỳ Byzantine, chạy dài thấu suốt một cõi phố xa xa: Ôi điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn!
Gautier chuyển tải một cách thật là mãnh liệt, cái sự dầy, cái sự chịu đựng dai dẳng với thời gian, của mấy bức tường có từ thời văn minh Byzantine: ôi chúng mới cao ngạo làm sao, ôi thời gian sói mòn chúng mới ghê gớm thế nào!Những vết nứt chạy dài trọn chiều dài của một cái tháp (khi còn là một đứa bé, nhìn, là tôi thấy khiếp sợ, làm sao không?), những mẩu vụn nằm lả tả, rải rác ở dưới đáy những bức tường, trên mặt đất (giữa thời kỳ Gautier và của chúng ta, trận động đất lớn vào năm 1894 đã gây tổn hại nặng nề cho những bức tường của thành phố). Ông mô tả đám cỏ, ở trong những vết nứt, và những cây vả: những chiếc lá xanh, lớn, của chúng làm dịu đi những đỉnh tháp, [làm dịu đi] nỗi u sầu đần độn của những khu phố đìu hiu tiếp giáp với những bức tuờng, sự im lặng của những lối xóm và những căn nhà xiêu vẹo của họ. “Thật khó mà tin rằng, có một thành phố đang còn sống ở đằng sau những ngổn ngang thành quách như thế này”, Gautier viết. “Tôi nghĩ, chẳng có một nơi nào trên thế gian, sỏi đá khô cằn, buồn đến cháy da cháy thịt, như là con lộ này, nó chạy dài hơn ba dậm, giữa những điêu tàn, ở một bên, và nghĩa địa, ở một bên”.
Hạnh phúc nào tôi lấy ra được, từ những xác quyết như thế về huzun Istanbul? Tại sao tôi hì hà hì hục, cố làm sao chuyển tải tới độc giả nỗi buồn mà tôi cảm thấy ở trong thành phố mà tôi trải qua trọn cuộc đời của tôi?
Vào những năm cuối của cõi 150 năm (1850-2000), tôi không còn hoài nghi, không phải chỉ về chuyện huzun đã ngự trị Istanbul, mà nó còn trải dài ra những khu vực chung quanh. Điều mà tôi cố gắng giải thích, là, những gốc rễ nỗi buồn Istanbul, là từ Âu Châu: Ý niệm này, thoạt đầu được khai phá, diễn tả, và thi hóa ở Pháp (bởi Gautier, dưới ảnh hưởng của bạn của ông, là Nerval).
Và nếu như thế, tại sao tôi loay hoay bận bịu quá nhiều với nó?
Tại sao bốn nhà văn của tôi lại ‘care’ nhiều như thế về nó? Về cái điều mà Gautier và những nhà văn Tây phương khác nói, về Istanbul?

[Note: To U, CM: "Si je t'oublie, Saigon". NQT]