|
Thời sự
Việt Nam là 1 phần đời của
tôi
Thời sự
Việt Nam là 1 phần đời của
tôi
Báo chí truyền
thông Việt, Đức liên tục săn tin và tung hứng cho chuyến công du của vị
phó Thủ
tướng Đức, ông Phillis Roesler. Nhưng qua một ngày ở Hà Nội không khí
náo nhiệt
của truyền thông chừng như chùng hẳn xuống.
Ra đón đoàn
Đức do vị phó Thủ tướng gốc Việt dẫn đầu, không được trọng thị như
người ta đồn
đoán. Việt Nam cử bà Thứ trưởng bộ công thương Hồ Thị Kim Thoa ra sân
bay đón
đoàn. Phía Đức khá bất ngờ vì họ tưởng có một vị Phó thủ tướng ví dụ
như ông
Nguyễn Thiện Nhân chẳng hạn, hoặc ít nhất là Bộ trưởng kế hoạch- đầu
tư. Nhưng
chẳng có vị nào có mặt.
Có lẽ phía
lãnh đạo Việt Nam cũng không kỳ vọng gì lắm vào ông Roesler trong việc
kết nối
quan hệ giữa hai nhà nước. Hay là họ cho rằng việc ông Roesler có mặt ở
Việt
Nam chỉ mang tính chất ngoại giao, vị thế của ông ở nước Đức cũng chưa
bền vững,
nhất là ông vừa “thoát hiểm“ trong cuộc củng cố vị thế ở đảng FDP trong
tháng 5
vừa qua?
Những thông
điệp mà ông Roesler mang đến Việt Nam giống như tinh thần trao đổi của
bà
Merkel trong chuyến đi thăm lần trước, kinh tế thị trường xã hội phải
gắn chặt
với Tự do, Dân chủ.
Hơn nữa ông
Roesler còn mang theo văn bản của bộ ngoại giao Đức yêu cầu thả ngay 5
nhà bất
đồng chính kiến đang bị giam giữ, số này mang trong người nhiều bệnh
tật.
Vì thế phía
lãnh đạo Việt Nam tỏ ra thận trọng và hoài nghi cảm xúc của ông
Roesler, họ bất
ngờ hủy lịch hội đàm cấp bộ trưởng trong ngày hôm nay.
Phía Đức cùng 50
người
thuộc giới doanh nghiệp khá thất vọng về cách ứng xử của Việt Nam.
Tuy vậy ông
Roesler cũng rất vui khi được nói chuyện với giới trẻ tại trường Đại
học quốc
gia và nhận bằng tiến sĩ danh dự.
Bài nói chuyện
của Roesler ngắn gọn, ông nhấn mạnh quan điểm thúc đẩy vai trò tư nhân
trong nền
kinh tế và hạn chế sự can thiệp của nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung.
Khi đề cập đến
vai trò của Tự do trong nền kinh tế xã hội thị trường ông nhấn mạnh:
“Tự do
không hề là mối hiểm họa nào cả mà là nền tảng cho sự phồn thịnh của xã
hội.
Các Bạn có thấy rõ điều đó ở đất nước quê hương tôi, nước Đức”
Đối với sinh
viên tham dự buổi lễ ông nói rõ, một bộ trưởng kinh tế của Đức sinh ra
ở Việt
Nam không có nghĩa lý gì đối với mối quan hệ giữa hai nước. Quyết định
hơn cả
là hàng nghìn sinh viên đang theo học tại các trường của Đức, họ sẽ là
nhân tố
quyết định mối quan hệ này. Ông cũng thừa nhận, học sinh và sinh viên
Việt Nam
tại Đức có tiếng là chăm chỉ và kỉ luật và bản thân ông, một bộ trưởng
kinh tế
Đức, cũng được thừa hưởng đức tính đó.
Khác với những bài báo tung hô
ông Phillips
Roesler mấy ngày trước, hai hôm nay báo chí bỗng dưng…chùng lại. Rất ít
tờ đưa
tin. Có chăng chỉ vài dòng về sự kiện ông Phillips Roesler được trao
bằng tiến
sĩ danh dự
Bố ông có bao giờ giải thích tại sao ông
và bà vợ
cũ ở Đức đã nhận ông làm con nuôi?
Cha tôi lúc đó là 1 người lính Đức. Trong khi học làm phi công tại Mẽo
vào thập
niên 1970, ông có 1 đồng sự cùng học nghề bay, thuộc quân lực VNCH. Qua
ông
này, ông biết được chiến tranh thê thảm như thế nào, và có rất nhiều
trẻ em mồ
côi ở đó. Đó là lý do ông chọn nhận con nuôi
Ông có “thi thoảng” băn
khoăn về cái phần Á Châu của ông?
Ngoại hình của tôi rõ là 1 dấu chỉ rồi, còn cần gì thêm nữa để mà băn
khoăn.
Nhưng tôi không hề là một sư phụ về môn “công phu”, và cũng không
thường trực
ăn món Á.
Khi ông đi ra khỏi nước
Đức, thì sao?
Người ta có hỏi ông về nguồn gốc của ông? [Mít hay là Tẫu, thí dụ?]
Đôi khi. Năm ngoái, khi tôi ở Mẽo với [bà thủ tướng] Merkel, hai vị bộ
trưởng Mẽo
gốc Á hỏi về cuộc đời của tôi, cũng như Tổng Thống Obama. Nhưng ông ít
ngạc nhiên
hơn, so với những người đại diện nhà nước, của những xứ sở khác. Nói
cho cùng,
sắc thái di dân rất mạnh ở Mẽo
Chuyến đi của ông cũng sẽ
được theo
dõi rất sát từ phía xứ Mít VC. Khi ông gia nhập chính quyền Đức, 1 tờ
báo ở đó
viết, “Ông ta là 1 người của chúng ta”. Ông cảm thấy thế nào về chuyện
đó?
Thì cứ tưởng tượng một đứa trẻ Đức được một xứ sở khác nhận, và sau đó,
giữ 1 địa
vị quan trọng trong chính quyền. Sự quan tâm hẳn cũng đâu có thua gì
trường hợp
của tôi!
Ông không muốn
cho phép mình thuộc thành phần được bầu thêm vô [co-opted]?
Đức là nhà của
tôi. Với xứ xở của chúng ta [Đức] những người không có tiểu sử đặc biệt
cũng có
cơ hội tiến thân. Để được như thế, thì là nhờ chính sách, tinh thần bao
dung. Hệ
thống dân chủ và sự thành công của chúng ta, thì không chỉ xoáy vào một
nền
kinh tế thị trường xã hội, mà còn dựa trên
một xã hội tự do.
Tôi cũng sẽ nhấn mạnh vào điều này ở Việt Nam. Trên đường dài,
họ không có thể phát triển một nền kinh tế thị trường mà không có tự do.
Một vấn đề
[issue] cho nhiều trẻ em từ Á Châu được nhận nuôi ở Đức, là kỳ thị màu
da, hở [công
khai] hoặc kín [giấu diếm]. Nó có lậm vào ông không?
Không. Trong
mọi ngày, trong liên hệ bình thường, vấn đề này không được đặt ra.
Ở Việt Nam
VC vẫn áp dụng độc đảng. Ông sẽ lật tẩy họ, bằng nhân quyền, trong
chuyến đi này?
Tôi ở trong
Uỷ ban Trung Ương Ky Tô, thành thử thật quan trọng đối với tôi, mời
những người
đại diện cho Nhà Thờ Ky Tô, trong buổi tiếp tân ở Tòa Đại Sứ Đức ở Hà
Nội. Tình
hình vẫn căng đối với những tín hữu Ky Tô ở Việt Nam, và đây rõ ràng là
1 cú dấn thân,
nhập cuộc của tôi, đúng không?
Ông được làm
lễ rửa tội năm 2006. Cú này có liên quan gì tới vụ những bà xơ cứu ông
ngày xưa?
Đó đâu phải
là yếu tố quyết định. Nhưng bất cứ ai, hiểu được những nỗi nguy hiểm,
và cấm
đoán, mà những vì nữ tu phải chịu đựng, vì những đứa trẻ mồ côi, trong
Cuộc Chiến Mít,
thì người đó –trong có tôi - làm sao quên? Dễ gì mà quên?
Ông không nói
được tiếng Mít, nhưng chắc cũng thủ vài tiếng, để dùng cho chuyến đi?
Nói thế
không được thành thực. Để tôi nói lại một lần nữa, thật rõ ràng - rất
là tự
nhiên, tôi ràng buộc với xứ sở Mít qua một phần chuyện đời tôi, nhưng
chuyến đi
của tôi là trong cương vị một người bộ trưởng kinh tế của nước Đức.
Về cái vụ
ông bị bỏ bên ngoài viện cô nhi, nó ra làm sao?
Tôi chẳng
bao giờ muốn biết.
Tại sao?
Tìm kiếm 1
điều gì đó, điều đó có nghĩa, bạn thiếu, hụt. Nhưng tôi chẳng bao giờ
cảm thấy
có gì thiếu.
Không lẽ ông
chưa từng bị thôi thúc phải kiếm cho ra, phải biết thêm?
Không, Chẳng
bao giờ. Đức là xứ sở quê hương của tôi. Việt Nam là 1 phần đời của tôi
mà tôi
không nhớ. Tôi lớn lên ở Đức. Tôi có một gia đình ở đây, cha tôi, và
bạn bè.
Sáu năm trước
đây, khi ông thăm Việt Nam lần đầu, cùng với bà vợ, ông không đi đến
nơi ông ra
đời. Đây là một quyết định cặn kẽ, ý thức?
Cho tới năm
2006, chúng tôi không hề có 1 ý nghĩ về nơi đó. Tôi dò đi dò lại bản đồ
tìm cái
nơi có tên là Khánh Hưng, nhưng không hề kiếm thấy. Chỉ ở Sài Gòn, khi
tôi đi
thăm Dinh Độc Lập, thì bí mật được giải đáp. Ở phần dưới của viện bảo
tàng hiện
thời, có một trung tâm hành quân cũ của Mẽo. Tôi kiếm thấy nơi chốn đó,
trên 1
bản đồ của Mẽo, với những cái tên cũ. Điều tôi không biết, mà người
thông dịch
giải thích rõ cho tôi, là, Khánh Hưng và nhiều nơi khác, đã được đặt
lại tên bởi
nhà cầm quyền mới vào năm 1975, sau khi thống nhất Nam Bắc.
Tại sao ông
không đi thăm thành phố vào lúc đó?
Tôi đi thăm
Việt Nam như 1 du khách bình thường. Vợ chồng tôi du lịch đồng bằng
Mekong.
Trong bất cứ trường hợp, cả hai chúng tôi kết luận là, Sóc Trăng chắc
chẳng khác
gì những nơi mà chúng tôi đã đi qua.
Ông có tính làm
1 chuyến đi lẻ, gài vô lịch trình chuyến đi này?
Tôi thăm Việt
Nam như là 1 bộ trưởng kinh tế, một kẻ đại diện cho bi-zi-nét Đức. Đâu
phải 1 cá
nhân đi tìm những dấu vết của quá khứ của nó.
Nhưng mà ông
có tính “đi” một chuyến không?
Không. Chúng
tôi không có thứ dự tính đó. Giản dị là, nó chẳng có 1 ý nghĩa sâu xa
gì đối với
tôi.
Có những đứa
trẻ được nhận làm con nuôi không cảm thấy như ông, và cố xoay sở mò tìm
quá khứ
của họ. Ông hiểu điều này chứ?
Hiểu chứ, nhưng
có thể mỗi trường hợp mỗi khác. Trong gia đình tôi, tôi chưa hề đòi hỏi
1 cái gì,
và đó là lý do tôi chẳng hề đặt cho mình câu hỏi này.
Sau khi bố mẹ
ông ly dị, khi ông bốn tuổi, và sống với ông bố ở Lower Saxony. Ông có
hay nói
về Việt Nam?
Không. Việt
Nam chẳng đóng một vai trò nào trong những cuộc bàn luận của chúng tôi.
Khi tôi
lớn hơn 1 chút, bố tôi thường để tôi ngồi trước 1 tấm gương và giải
thích tại
sao tôi không giống những đứa trẻ khác.
Bố ông có
bao giờ giải thích tại sao ông và bà vợ cũ ở Đức đã nhận ông làm con
nuôi?
Cha tôi lúc đó
là 1 người lính Đức. Trong khi học làm phi công tại Mẽo vào thập niên
1970, ông
có 1 đồng sự cùng học nghề bay, thuộc quân lực VNCH. Qua ông này, ông
biết được
chiến tranh thê thảm như thế nào, và có rất nhiều trẻ em mồ côi ở đó.
Đó là lý
do ông chọn nhận con nuôi
Ông có “thi
thoảng” băn khoăn về cái phần Á Châu của ông?
Ngoại hình của
tôi rõ là 1 dấu chỉ rồi, còn cần gì thêm nữa để mà băn khoăn. Nhưng tôi
không
hề là một sư phụ về môn “công phu”, và cũng không thường trực ăn món Á.
Khi ông đi ra
khỏi nước Đức, thì sao? Người ta có hỏi ông về nguồn gốc của ông? [Mít
hay là Tẫu,
thí dụ?]
Đôi khi. Năm
ngoái, khi tôi ở Mẽo với [bà thủ tướng] Merkel, hai vị bộ trưởng Mẽo
gốc Á hỏi
về cuộc đời của tôi, như Tổng Thống Obama. Nhưng ông ít ngạc nhiên hơn,
so với
những người đại diện nhà nước, của những xứ sở khác. Nói cho cùng, sắc
thái di
dân rất mạnh ở Mẽo
Chuyến đi của
ông cũng sẽ được theo dõi rất sát từ phía xứ Mít VC. Khi ông gia nhập
chính quyền
Đức, 1 tờ báo ở đó viết, “Ông ta là 1 người của chúng ta”. Ông cảm thấy
thế nào
về chuyện đó?
Thì cứ tưởng
tượng một đứa trẻ Đức được một xứ sở khác nhận, và sau đó, giữ 1 địa vị
quan trọng
trong chính quyền. Sự quan tâm hẳn cũng đâu có thua gì trường hợp của
tôi!
Ông đi Việt
Nam, xứ sở ông ra đời. Ông mong gì từ chuyến đi này?
Tôi mong
bi-zi-nét Đức sẽ hưởng lợi từ chuyến đi. Việt Nam là 1 xứ sở đang lên,
và do
đó, 1 thị trường đáng quan tâm cho những công ty của chúng ta [Đức].
Nhiều
thành tựu đã đạt được trong những năm gần đây, bao gồm những chuyển
động hướng
tới một tự do kinh tế lớn lao hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách đố,
thí dụ những
vấn đề liên quan tới luật pháp.
Chuyến đi của
ông sẽ được quan sát thật sát. Nói cho cùng, câu chuyện riêng của ông
thì lại mắc
mớ tới câu chuyện có tính lịch sử gần đây của xứ sở này. Ông được nuôi
nấng
trong cô nhi viện trong thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam. Ông có nhớ gì về
thời
gian đó?
Tôi trải
qua
vài tháng đầu tiên của của cuộc đời của tôi ở Khánh Hưng, bây giờ là
Sóc Trăng,
trong 1 cô nhi viện Ky Tô. Đó là năm 1973. Lẽ dĩ nhiên tôi không có kỷ
niệm cá
nhân về thời gian đó. Vài năm trước, tôi có đọc 1 bài báo trên tờ
Spiegel về lịch
sử cô nhi viện. Chừng 3 ngàn trẻ em sống ở đó và được những bà xơ
[soeur] - những
vì nữ tu Ky Tô - săn sóc. Họ có sổ sách ghi rõ tên tuổi, ngày sinh của
cô nhi,
thành thử những thủ tục nhận con nuôi được giải quyết mau lẹ
Hai nữ tu Ky
Tô - Mary Marthe and Sylvie Marthe – săn sóc ông ở Khánh Hưng trong
những tháng
đầu tiên của đời ông. Tháng 11, 1973 ông tới Đức, nơi ông được nhận. Ký
giả
Michael Brocker, trong cuốn tiểu sử của ông ta về ông, cho biết, Mary
Marthe vẫn
ở Việt Nam. Ông có liên lạc với bà?
Tôi liên lạc
với bà sau khi trở thành bộ trưởng y tế. Ký giả [Đức?] tới Việt Nam
chụp những
bức hình của bà nữ tu với một bức hình của tôi. Bà liên lạc với tôi qua
một vì
nữ tu khác, qua e-mail. Tôi thật cảm động về chuyện này.
*
Như thế, thì
“Việt Nam là 1 phần của đời tôi”, đếch ai bắt chước được, ít ra trong
đám tự nhận
hoàn cảnh của tôi có gì giống với ông Rosler, trong khi chúng đều là 1
trong những
trường hợp bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít hay không bợ đít, VC.
Vậy mà có
ông Giáo Sư viết blog cũng đòi ăn theo, thúi thế chứ!
Ông Rosler
này gần như không liên can gì đến cuộc chiến, vấn đề con lai, vấn đề
Quốc Cộng,
vậy mà Sến viết, nếu ông ta có tới Việt Nam thì rủ ông ta đi biểu tình!
*
Bà viết gì
cho ông?
Bà viết bà tự
hào về những gì mà tôi đã làm được
Về cái vụ
ông bị bỏ bên ngoài viện cô nhi, nó ra làm sao?
Tôi chẳng
bao giờ muốn biết.
Tại sao?
Tìm kiếm 1
điều gì đó, điều đó có nghĩa, bạn thiếu, hụt. Nhưng tôi chẳng bao giờ
cảm thấy
có gì thiếu.
Một sự phản
bội
Mời đọc bài
viết của LÊ PHAN, con gái của Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát.
Bà đang là
biên tập viên cho đài phát thanh BBC London.
Bài viết cô
đọng thấm thía, không chỉ cho người dân Miền Nam mà là cho người dân
Bắc VĂN
GIANG đang mất đất, viết cho những bộ đội Việt Cộng đã chết dưới tay
giặc Tàu
năm 1979, bài viết cho các nhà trí thức Miền Bắc như Trần đức Thảo,
Trần Độ,
Nguyễn Hộ, những kẻ bị lừa cả một đời hy sinh ...
Viết cho kẻ
dự phần chiến thắng nhưng đã không được dự phần chia của cướp được.
Nếu Võ văn
Kiệt còn sống chắc sẽ nói lại là :
" 30
tháng 4, có 3 triệu người vui, có 84 triệu người buồn".
Ðã mấy năm
nay rồi tôi không muốn viết và không viết về ngày 30 tháng 4. Không
viết bởi
sau bao nhiêu năm, những điều mình muốn nói đã nói rồi. Không viết bởi
càng viết
chỉ càng thấm thía với lời của ông Võ Văn Kiệt, vì mình nằm trong số cả
triệu người
buồn.
Vả lại, ba
mươi mấy năm sau, bây giờ, ở một khía cạnh nào đó, tôi không còn có cảm
tưởng
mình là người Việt nữa. Việt Nam của tôi là Việt Nam của quá khứ. Việt
Nam đó
không còn nữa.
Nhưng khổ một
nỗi, ở một góc cạnh nào đó Việt Nam vẫn nằm trong tim tôi. Làm sao có
thể quên
được khi ngày ngày vẫn còn cầm bút viết tiếng Việt, đọc tin tức về Việt
Nam và
dầu muốn dầu không, vẫn bâng khuâng về đất cũ.
Hôm nọ, ngồi
xem những đoạn video được đưa lên Internet về cuộc biểu tình phản đối
của người
dân ba xã của huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, rồi sau đó, cũng trong
lúc làm
tin, chợt được xem một đoạn về phản ứng của miền Nam Việt Nam, cả dân
chúng lẫn
chính quyền trước việc Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, tôi bỗng cảm
thấy mừng
mình là dân miền Nam chứ không phải là dân miền Bắc. Tôi có thể mất
nước, phải
bỏ xứ mà đi sống tha phương cầu thực và ngày nay nhận đất lạ làm quê
hương,
nhưng ít nhất tôi không phải sống trong một quốc gia, dưới một chế độ,
đã đòi sự
hy sinh tột đỉnh của dân mình rồi phản bội.
Ðoạn video
mà tôi thấy về Văn Giang là lúc đoàn dân chúng của các xã bị cưỡng
chiếm tụ tập
về để bảo vệ mảnh vườn của mình. Họ từng đoàn từng lớp kéo nhau đi, tay
cầm gậy,
cuốc, xẻng. Ðoạn clip khá dài, người quay đứng yên một chỗ, quay đoàn
người đi
qua. Họ đủ cả, già có, trẻ có, đàn ông có, đàn bà cũng có. Có khá nhiều
người đội
nón an toàn, một số khá đông phụ nữ khoác thêm một cái khăn ở dưới nón
an toàn,
trông ra có lẽ cũng có lý vì ít nhất nón an toàn bảo vệ không bị công
an đánh bể
đầu. Giữa đám nón an toàn hay nón baseball có lác đác một số đội nón
cối. Trong
số người đội nón cối, có vài người đứng tuổi. Họ đội nón cối, mặc quần
áo bộ đội.
Có lẽ có thiếu là họ mang quân hàm và huy chương đeo lên ngực. Một vài
cái nón
cối còn cả lá cờ, rõ ràng là nón của một cựu quân nhân.
Một số trông
họ có lẽ là những chiến sĩ đã bị chính quyền gọi nhập ngũ để chống lại
xâm lăng
của đoàn quân phương Bắc, một số già hơn, có thể đã bị chính quyền gọi
nhập
ngũ, không phải để bảo vệ tổ quốc, mà để tham gia vào một cuộc chiến
tương tàn,
một cuộc nội chiến mà trong đó anh em gặp nhau trên bãi chiến trường.
Cuộc chiến
tranh Bắc Nam mà ngày 30 tháng 4 là ngày kết thúc, mặc cho chính quyền
có khoác
cho nó cái áo tuyên truyền gì chăng nữa cũng vẫn là một cuộc nội chiến,
người Việt
giết người Việt. Như lời ca phản chiến hồi nào có thể “kẻ thù tôi mang
áo màu
chủ nghĩa” nhưng họ vẫn là người Việt. Và cũng xin đừng bảo tôi sai.
Tôi có hai
ông chú, một ông là sĩ quan quân đội miền Bắc, một ông là sĩ quan quân
đội miền
Nam. Cũng may là hai chú tôi chưa từng tham chiến trên cùng một chiến
trường
nào cả, chuyện đó hẳn đã xảy ra cho nhiều gia đình trên đất Việt trong
những
năm chiến tranh.
Ðã ba mươi mấy
năm rồi, tôi không còn muốn tranh cãi cho chính nghĩa của miền Nam nữa
bởi chuyện
đó đã qua rồi, nhưng ngồi nhìn những cựu quân nhân miền Bắc lầm lũi vác
gậy đi
tranh đấu để bảo vệ mảnh đất, mảnh vườn, kế sinh nhai của mình, tôi
bỗng cảm thấy
tuy mất nước, xa nhà nhưng vẫn còn không xấu số bằng họ. Họ là những
người đã
đem hết cả tuổi thơ dâng cho chế độ. Chế độ và đảng cầm quyền đã khởi
xướng cuộc
chiến tranh Bắc Nam dẫn đến việc cả triệu người ở hai bên chiến tuyến
cũng như
dân lành gục ngã. Nếu miền Bắc không nhất quyết đòi chiếm miền Nam thì
làm gì
có chiến tranh.
Nhưng sau
khi đòi hỏi sự hy sinh tối thượng đó của người dân dưới quyền cai trị
của mình,
đảng Cộng sản Việt Nam và những người lãnh đạo chính quyền ở miền Bắc
đã thất hứa
với nhân dân. Tôi còn nhớ một lần về Việt Nam, một bà thím sau ngày đổi
mới,
lương công chức không đủ sống, mở một quán bán tạp hóa bên cửa ngách
của nhà
mình, đã mỉa mai, “Hồi đó các ông ấy bảo ‘Ðánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây
dựng bằng
mười ngày nay’! Bây giờ đã ‘Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào’, vậy
mà vẫn
không đủ ăn!”
Khác với những
năm đó, Việt Nam trong những năm cho đến gần đây quả đã phát triển bằng
năm bằng
mười lúc trước. Cứ đi về thành phố Hà Nội ngày nay so với Hà Nội của
những năm
đầu thập niên 1990, khi lần đầu tiên tôi trở về Hà Nội thì cũng thấy rõ
sự thay
đổi. Có điều những phát triển to lớn đẹp đẽ đó người dân không được
chia hưởng.
Trong khi ruộng vườn của họ bị chiếm đoạt để xây khu “đô thị mới”
EcoPark, một
khu hẳn là rất sang trọng vì partner của họ là công ty địa ốc Savills ở
Luân
Ðôn, một trong những công ty mà nhìn quảng cáo của họ ở Luân Ðôn toàn
là nhà cỡ
trên một triệu bảng Anh.
Ecopark quảng
cáo là “thành phố xanh tươi, cuộc đời trọn vẹn.” Họ quảng cáo “không
gian phố
trong vườn” và những khu như “Rừng cọ: luxury apartment; Phố Trúc là
shopping
mall, Vườn Tùng và Vườn Mai: biệt thự detached or semi-detached
villas.” Trang
quảng cáo của Ecopark mở đầu với một đoạn nhạc thật êm tai. Tiếc thay
tiếng nhạc
đó không làm át nổi tiếng than khóc của người dân Văn Giang.
Bây giờ tôi
mới hiểu cái uất ức và thấm thía cái nỗi đau của những người như ông
Trần Ðộ
hay Nguyễn Hộ. Họ là những nhà trí thức, mang tuổi trẻ và lý tưởng đi
để cứu nước
khỏi họa ngoại xâm, rồi để thống nhất đất nước vì đảng cộng sản bảo với
họ là
không thể để đất nước chia đôi, là miền Nam đang quằn quại trong áp bức
của Mỹ Ngụy.
Tôi cũng
chưa quên những bà con vào Nam sau 30-4-1975, gom góp một ký đường, vài
lon sữa
làm quà, tưởng là quý hóa lắm, ai dè miền Nam đâu có thiếu thốn và khổ
cực như
họ bị đánh lừa. Ðã có những người, thẹn quá, giấu luôn quà, không dám
đem ra
cho bà con trong Nam nữa.
Tôi cũng vẫn
còn chưa quên người anh họ của ông xã tôi, một cán bộ trung kiên, làm
việc cho
ban tuyên giáo trung ương, ban tuyên truyền của đảng cộng sản, hỏi nhỏ
chú em,
“Vậy chú có bao nhiêu nợ máu với nhân dân. Nhà cửa này là do Mỹ nó cho
đấy à?”
Nhưng cái vỡ
mộng khi vào Nam sau năm 1975 có lẽ cũng một phần nào được xoa dịu vì
dầu sao
cũng là kẻ thắng. Cái vỡ mộng sau đó, khi vào năm 1979, người anh em
“môi hở
răng lạnh” dạy cho một bài học kinh hồn. Cho đến bây giờ chính quyền Hà
Nội vẫn
chưa công nhận số tử vong của trận chiến biên giới, cả về quân nhân lẫn
thường
dân.
Và sau cùng,
giọt nước làm đầy ly là khi chính quyền bỏ rơi chủ thuyết, chạy theo
“định hướng
thị trường” và chỉ còn muốn làm giàu. Thật là đau đớn vì sau cùng họ
mới thấy
là những gì họ hy sinh cả cuộc đời đã chỉ là những cái bánh vẽ.
Lê Phan
Note: Tks.
NQT
Gấu có 1 kỷ
niệm về Phan Huy Quát. Ông là chủ tịch của
Uỷ Ban Á Châu Chống Cộng. [He remained in politics until 1975 by
working with
the Asia Anti-Communist League (Liên Minh Á Châu Chống Cộng) as
Chairman of its
Vietnamese office (Wiki)] (1)
Vào những
ngày ngay sau 30 Tháng Tư, trước khi có lệnh trình diện học tập cải tạo
của VC,
ngồi cà phe với ông anh TTT, ở 1 quán gần nhà ông, Gấu có nhắc tới
trường hợp Phan
Huy Quát, và thắc mắc, tại sao ông không được Mẽo đưa đi, TTT phán,
cương vị của
ông, không lẽ đến xin xỏ thằng Mẽo. Chắc là nó vờ!
'Vietnam Is
a Part of My Life'
SPIEGEL
ONLINE: You don't speak Vietnamese, but did you learn a few words for
your
trip?
Rösler: That
would be insincere. To say it clearly once again - naturally I am tied
to the
country through a part of my life story, but I am traveling to Vietnam
as the
German economics minister.
Ông không nói
được tiếng Việt, nhưng chắc ông cũng đã thủ vài từ cho chuyến đi?
Nói thế không được thành
thực. Để tôi nói lại một lần nữa, thật rõ ràng - rất là
tự nhiên, tôi ràng buộc với xứ sở Mít qua một phần chuyện đời tôi,
nhưng
chuyến đi của tôi là trong cương vị một người bộ trưởng kinh tế của
nước Đức.
Note:
Bài phỏng vấn này
tuyệt quá.
Sẽ đi 1 đường dịch thuật hầu quí vị độc giả TV, sau.
NQT
Rosler đã từng
đi thăm Việt Nam một lần, khi đã trưởng thành, và bằng phương tiện khả
năng riêng.
Nhưng vào Thứ Hai, người đàn ông 39 tuổi này sẽ chính thức thăm xứ sở
nơi ông
ra đời như là một vị vice-chancellor, và bộ trưởng kinh tế của Đức
quốc.
Sẽ là một
chuyến đi độc đáo đối với Rosler, đã từng là 1 đứa trẻ bị bỏ rơi và
được những vì
nữ tu nuôi nấng trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Sự quan tâm về
chuyến viếng
thăm của ông được đánh giá là cao. Chung quanh ông là cả 1 bộ sậu cùng
tháp tùng,
và dân chúng Việt Nam cũng đang ngóng ông.
Ông đi Việt
Nam, xứ sở ông ra đời. Ông mong gì từ chuyến đi này?
Tôi mong
bi-zi-nét Đức sẽ hưởng lợi từ chuyến đi. Việt Nam là 1 xứ sở đang lên,
và do đó,
1 thị trường đáng quan tâm cho những công ty của chúng ta [Đức]. Nhiều
thành tựu
đã đạt được trong những năm gần đây, bao gồm những chuyển động hướng
tới
một tự do
kinh tế lớn lao hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách đố, thí dụ những
vấn đề
liên quan tới luật pháp.
Chuyến đi của
ông sẽ được quan sát thật sát. Nói cho cùng, câu chuyện riêng của ông
thì lại mắc
mớ tới câu chuyện có tính lịch sử gần đây của xứ sở này. Ông được nuôi
nấng
trong cô nhi viện trong thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam. Ông có nhớ gì về
thời
gian đó?
Tôi trải qua
vài tháng đầu tiên của của cuộc đời của tôi ở Khánh Hưng, bây giờ là
Sóc Trăng,
trong 1 cô nhi viện Ky Tô. Đó là năm 1973. Lẽ dĩ nhiên tôi không có kỷ
niệm cá
nhân về thời gian đó. Vài năm trước, tôi có đọc 1 bài báo trên tờ
Spiegel về lịch
sử cô nhi viện. Chừng 3 ngàn trẻ em sống ở đó và được những bà xơ
[soeur] - những
vì nữ tu Ky Tô - săn sóc. Họ có sổ sách ghi rõ tên tuổi, ngày sinh của
cô nhi,
thành thử những thủ tục nhận con nuôi được giải quyết mau lẹ
Hai nữ tu Ky
Tô - Mary Marthe and Sylvie Marthe – săn sóc ông ở Khánh Hưng trong
những tháng
đầu tiên của đời ông. Tháng 11, 1973 ông tới Đức, nơi ông được nhận. Ký
giả
Michael Brocker, trong cuốn tiểu sử của ông ta về ông, cho biết, Mary
Marthe vẫn ở
Việt Nam. Ông có liên lạc với bà?
Tôi liên lạc
với bà sau khi trở thành bộ trưởng y tế. Ký giả [Đức?] tới Việt Nam
chụp những bức hình của bà nữ tu với một bức hình của tôi. Bà liên lạc
với tôi
qua một vì nữ tu khác, qua e-mail. Tôi thật cảm động về chuyện này.
*
Như thế,
thì
“Việt Nam là 1 phần của đời tôi”, đếch ai bắt chước được. Vậy mà có ông
Giáo Sư
viết blog cũng đòi ăn theo, thúi thế chứ!
Ông Rosler
này gần như không liên can gì đến cuộc chiến, vấn đề con lai, vấn đề
Quốc Cộng,
vậy mà Sến viết, nếu ông ta có tới Việt Nam thì rủ ông ta đi biểu tình!
*
Nơi Rosler
ra đời, như vậy là Sóc Trăng, Khánh Hưng, Ba Xuyên [ba cái
tên lận]. Nơi
thằng em trai Gấu tử trận. Ông chắc chẳng còn nhớ gì về nơi này, mà làm sao mà nhớ được, khi còn là 1 đứa con
nít đã bị bỏ rơi và được các bà xơ nuôi nấng.
Để Gấu kể sơ
sơ về nó, hy vọng có ai dịch qua tiếng Đức cho ông nghe chăng!
Ba Xuyên, lần
viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên
viên kỹ
thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11
đường
Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ
dùng kỹ
thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái
tới những
đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu
thính
viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự
sửa chữa
khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè,
nhiều tạp
âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát
tín hiệu,
không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế
cùng
chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất
một hai
ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới
mười
ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô
việc, cặm cụi
lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen
thành phố.
Một thành phố
không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng
đài người
loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn,
hoặc khi
rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng
đời đã
qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ
trong
quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách
tốt nghiệp
đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn
làm việc,
thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể,
hay để
nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt
phạm vi
châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào
nhà
trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu
mới hiểu
chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này.
Hết hai năm
tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây
liên lạc quốc
tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên],
giữa Sài
Gòn và một số thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố,
quên dần
những chuyến đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một
thành
phố một hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt
không liên
quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến
trúc phảng
phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi
một vài
khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da,
banh bàn;
những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh
một chiếc
loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt
trang nghiêm
thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy,
miệng còn mẩu
bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp
hiểu
chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong
khi chập
chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập
trong quán
cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng
thở
than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng
hề nói của
cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một tiếng
động,
như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ thể
người
khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào đó,
là một
con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt xanh
biếc
trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một
người khách
lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh
thức giấc
ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những
bức tường
loang lổ, từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường
làm dậy
một nỗi trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...
Trở lại Ba
Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.
Sơ Dạ Hương: Mộ
Tuyết
Cái truyện Mộ
Tuyết này, lần đầu tiên - mẩu đầu tiên
- được đăng trên trang VHNT Tiền Tuyến, khi TTT còn phụ trách, và giao
cho Gấu giữ
mục điểm sách của trang báo. Bây giờ đọc lại, thì lại nhớ ra 1 kỷ niệm,
là, 1
tay nào đó, mét TTT. Ông bèn chỉnh thằng em, mày lo điểm sách thôi,
đừng biến nó
thành 1 mục khác.
Khi Nguyễn Đông
Ngạc làm tuyển tập 20 năm văn học Miền Nam, còn có cái tít thật hách
là, Những
truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, Gấu chọn Mộ Tuyết, coi là bảnh nhất
của Gấu!
Bây giờ đọc
lại, thì mới nhận ra ảnh hưởng nặng nề của Faulkner ở trong đó: câu văn
dài,
nhiều dòng trong 1 dòng, như những kinh lạch, đổ về [cố tìm cho nó] 1
dòng sông
lớn, một biển lớn, để đổ về...
Đừng có nghĩ
là Gấu tự thổi. Đây là thứ văn mà xứ Mít chưa hề có, và kể như sau Gấu,
tuyệt tích
giang hồ!
Chứng cớ, chỉ một câu văn của
nó:
Một thành
phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng
muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình
thật niềm
nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người
trưởng
đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ,
những
năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải
ngũ, trường
hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc
quê vùng
nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài
Gòn),
hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại,
ông
khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi
người vợ ít
nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô
Mai Liên,
khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái
nước da
ngăm đen ở vùng này.
Nhưng ghê
gớm nhất, là cái giọng văn trung tính, đếch có tí vãi
linh hồn.
Gấu nhớ là,
khi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, khi có được cuốn sách của
Nguyễn Đông Ngạc, khi nhiều người đã nghe biết về ông nhà văn lùn lé
[chỉ có ông
ta là thể nào cũng đậu thanh lọc, vì được PEN can thiệp…], một bà nhờ
người hỏi
muợn cuốn sách, sau khi đọc Mộ
Tuyết, phán, thằng cha này viết về đứa
em trai tử trận, mà không có 1 giọt nước mắt.
Hay nhất cái
con khỉ!
Về già, đọc
lại, Gấu hiểu ra, khi chọn Mộ Tuyết,
Gấu muốn vinh danh Thầy của
mình, là Faulkner.
German Economy Minister Philipp Rösler
'Vietnam
Is a Part of My Life' (1)
09/14/2012
14.09.2012
German
Economy Minister Philipp Rösler
'Vietnam Is
a Part of My Life'
German
Economy Minister Philipp Rösler was left outside a Catholic orphanage
during the
Vietnam War and later taken to Germany where he was adopted. In a
SPIEGEL
ONLINE interview, he talked about his feelings about his upcoming visit
to the
country of his birth as a member of the German government.
As an adult,
Philipp Rösler has only visited Vietnam once, and that was in a private
capacity. But on Monday, the 39-year-old will officially visit the
country of
his birth as German vice-chancellor and economics minister.
It will be a
unique journey for Rösler, who was taken in by nuns as a foundling
during the
Vietnam War. The interest in his visit is high. A media entourage will
accompany Rösler on his trip, and people in Vietnam are also taking a
keen
interest.
In a SPIEGEL
ONLINE interview, Rösler, who is also leader of the business-friendly
Free
Democratic Party (FDP), talked about his forthcoming trip to Vietnam.
--------------------------------------------------------------------------------
SPIEGEL
ONLINE: You are traveling to Vietnam, the country where you were born.
What do
you expect from your visit?
Rösler: I
expect that German business will benefit from my visit. Vietnam is a
country on
the rise and therefore an interesting market for our companies. A lot
has been
achieved in recent years, including moves in the direction of greater
economic
freedom. Nevertheless, there are still many challenges, such as
questions
relating to the rule of law.
SPIEGEL
ONLINE: Your trip will be watched closely. After all, your personal
story is
intertwined with the recent history of the country. You were a
foundling during
the Vietnam War. What do you remember from that time?
Rösler: I
spent the first few months of my life in Khánh Hung, which is now Sóc
Trang, in
a Catholic orphanage. That was in 1973. Of course I don't have any
personal
memories of that time. A few years ago, I came across a SPIEGEL article
which
described the history of the orphanage. Some 3,000 children were housed
there
over the years and cared for by Catholic nuns. They also specified
names and
dates of birth, so that the formalities for adoption could be resolved
quickly.
SPIEGEL
ONLINE: Two Catholic nuns -- Mary Marthe and Sylvie Marthe -- looked
after you
in Khánh Hung during the first months of your life. In November 1973,
you came
to Germany, where you were adopted. The journalist Michael Brocker
writes in
his biography about you that Mary Marthe still lives in Vietnam. Do you
have
contact with her?
Rösler: We
made contact after I became German health minister in the fall of 2009.
Reporters traveled to Vietnam and took pictures of Mary Marthe with a
photograph of me. Later, she got in touch with me via another nun who
has
e-mail access. I found that very touching.
SPIEGEL
ONLINE: What did she write to you?
Rösler: She
wrote how proud she was of what I have achieved.
SPIEGEL
ONLINE: Do you know more about the circumstances under which you were
left
outside the orphanage?
Rösler: No,
and I never wanted to.
SPIEGEL
ONLINE: Why?
Rösler:
Looking for something would suggest that you are missing something. But
I have
never felt that anything was lacking.
SPIEGEL
ONLINE: Did you never have the urge to find out more?
Rösler: No,
never. Germany is my home country. Vietnam is a part of my life which I
do not
remember. I grew up in Germany, I have my family here, my father and my
friends.
SPIEGEL
ONLINE: Six years ago, when you visited Vietnam for the first time,
together
with your wife, you did not go to the place where the orphanage was.
Was that a
conscious decision?
Rösler:
Until 2006, we had absolutely no idea where the place was located
exactly. I
repeatedly looked for Khánh Hung on the maps, but never found it. It
was only
in Saigon, when I visited the former South Vietnamese presidential
palace, that
the mystery was solved. In the lower part of the current museum, there
is the
old US operations center. I found the place on an American map which
featured
the old names. What I did not know, and what our interpreter made clear
to me,
was that Khánh Hung, like so many other places, was renamed by the new
rulers
in 1975 after the reunification of North and South Vietnam.
SPIEGEL
ONLINE: Why did you not visit the city at the time?
Rösler: I
was just visiting Vietnam as a normal tourist. My wife and I were
traveling in
the Mekong Delta. In any case, we both concluded that Sóc Trang, as it
is
called today, was probably hardly any different from the places we had
already
visited.
SPIEGEL
ONLINE: Have you considered taking a side trip from your current
schedule?
Rösler: I am
visiting Vietnam as the economic minister, as a representative of
German
business. I'm not on a personal search for traces of my past.
SPIEGEL
ONLINE: Do you plan to see the place at some point?
Rösler: No,
we don't have plans for that. It simply has no deeper meaning for me.
SPIEGEL
ONLINE: There are other adoptive children who feel otherwise and
conduct
extensive searches into their past. Can you understand that?
Rösler: I
can relate, but it is probably different for each case. I never wanted
for
anything in my family, which is why I never asked myself this question.
SPIEGEL
ONLINE: After your parents divorced when you were four years old, you
lived
with your father in Lower Saxony. Did you often talk about Vietnam?
Rösler: No.
Vietnam played no role in our discussions. As I grew older, my father
sat me in
front of a mirror and explained why I looked different from other
children.
SPIEGEL
ONLINE: Did your father explain to you why he and his former wife in
Germany
had chosen adoption?
Rösler: My
father was a Bundeswehr soldier. During his training as a helicopter
pilot in
the US in the 1970s, he got to know a South Vietnamese colleague.
Through him
he learned about the misery of the war there and the many orphaned
children.
That's how he chose adoption.
SPIEGEL
ONLINE: Are you sometimes aware of your Asian side?
Rösler: My
appearance is a clear indication of that. But I am neither a master of
martial
arts, nor do I regularly eat Asian food.
SPIEGEL
ONLINE: What is it like when you travel abroad? Do people ask you about
your
origin?
Rösler:
Sometimes. Last year when I was in the United States with Merkel, two
Asian-American ministers asked me about my life, as did President
Barack Obama.
But he was less surprised that some government representatives in other
countries. After all, the US is strongly characterized by immigration.
SPIEGEL
ONLINE: Your visit will also be closely followed from the Vietnamese
side. When
you entered the government, one paper there wrote: "He is one of us."
How do you feel about that?
Rösler:
Imagine it was the other way around, and a German child adopted in
another
country took a high government office. The interest here would be just
as
great!
SPIEGEL
ONLINE: You don't want to allow yourself to be co-opted?
Rösler:
Germany is my home. It is credit to our country that people who don't
have the
typical biography also have an opportunity for advancement. The
precondition
for this is tolerance. Our democratic system and our success hinge not
only on
the social market economy, but also on our free society. I will
emphasize this
in Vietnam too. In the long run they won't be able to develop a market
economy
without freedom.
SPIEGEL
ONLINE: One issue for many children adopted from Asia in Germany is
either open
or hidden racism. Has that affected you too?
Rösler: No.
In everyday, normal interaction this is not the case.
SPIEGEL
ONLINE: In Vietnam the communists still rule with a one-party system.
Will you
address human rights at all on your trip?
Rösler: I am
on the Central Committee of Catholics (ZdK), so it was also important
to me to
invite representatives of the Catholic Church to a reception at the
German
Embassy in Hanoi. Things are still tough for Catholics in Vietnam, and
this
issue is a clear commitment on my part.
SPIEGEL
ONLINE: You were baptized in 2000. Did this decision have anything to
do with
the Catholic nuns who saved you?
Rösler: That
was not the deciding factor. But anyone who has learned what dangers
and
privations the nuns endured for the sake of the orphans in the Vietnam
War
wouldn't easily forget it.
SPIEGEL
ONLINE: You don't speak Vietnamese, but did you learn a few words for
your
trip?
Rösler: That
would be insincere. To say it clearly once again -- naturally I am tied
to the
country through a part of my life story, but I am traveling to Vietnam
as the
German economics minister.
Interview
conducted by Roland Nelles and Severin Weiland
|