jen 
Tạp Ghi


Những Con Hoang
Của Sartre
3 4


 

Những Đứa Con Hoang Của Sartre
I

Dire que l'homme 'existe' signifie qu'il remarque qu'il est d'abord tout simplement présent et que son destin est d'être confronté à sa propre présence.
[Nói rằng con người 'hiện hữu' có nghĩa là, nó nhận ra, nó thì sờ sờ ra đó, và số kiếp của nó, là suốt đời gầm gừ với cái bản mặt của mình].
Sự thực, như Heidegger nói, trong bài giảng của ông vào năm 1935, về siêu hình học, là tự do. Chỉ có vậy. Không chi khác.
Sartre viết và cho xuất bản Hữu thể và Hư vô ở Pháp khi bị Nazi chiếm đóng. Tác phẩm phát triển qua một màng lưới thật tế vi, cả một triết học chống lại chủ nghĩa toàn trị. Với tư tưởng toàn trị, con người là một món đồ vật: Pour la pensée totalitaire, l'homme est une chose.]
Rudiger Safranski: Heidegger và thời của mình. [Bản dịch tiếng Pháp, từ tiếng Đức, của Isabelle Kalinowski. Tủ sách bỏ túi, tiểu luận, Grasset. 1996]. 

Tình cờ gặp HNB, bữa Vinh Danh & Hội Ngộ của cựu học sinh trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn ngày nào, tại San Jose.
Nhân đọc một bài viết trên talawas, thấy có nhắc, và có "phong" cho Gấu, là một trong những đứa con hoang của Sartre.
Bèn nhớ lại những ngày ở Sài Gòn.

 Tác giả bài viết trên talawas chỉ đưa ra giả thuyết, rằng đám viết lách thập niên 1960 tại miền nam [thế hệ của Gấu!], say mê hiện sinh, nhưng do đọc, và hiểu không đến nơi đến chốn, nên liệu có thể coi, đây là đám con hoang của Sartre?

Chắc chắn - nói theo Thanh Tâm Tuyền, trong bài viết tưởng niệm Mai Thảo trên tạp chí Thơ -  Gấu và đám Bắc Kỳ di cư 1954, là những đứa con "tư sinh" [chữ của TTT] của một miền đất, và bị nó ruồng bỏ.

Ngay ngày đầu, đặt chân xuống cảng Sài Gòn, Gấu tui đã cảm nhận ra điều này.
Rằng mi cũng chỉ là một tên "Yankee", mà thôi.

[Và đó là lý do mi chọn Faulkner làm "sư phụ", như trong một bài viết  mi đã từng thú nhận?] 

Đây cũng là lý do, theo một ông bạn văn của Gấu, giải thích, về trường hợp Gấu tui xin làm đệ tử Faulkner:Trong tiềm thức của mi, vẫn ẩn tàng một tên Yankee [Bắc quân] xâm lược, và mi cảm thấy nhục nhã vì thế, ngay từ những ngày đầu được nắng miền nam sưởi ấm.
Đây là điều Rushdie không nhận ra, khi giải thích tại sao Faulkner lại là ông thầy của nhiều nhà văn, thí dụ như Garcia Marquez, và được rất nhiều độc giả từ rất nhiều quốc gia trên thế giới tìm đọc: Trừ ở Mẽo.
[Ảnh hưởng]

Gấu tui sẽ trở lại với Sartre, và ảnh hưởng của ông, ở miền nam, trong một lần khác. Với riêng tui, ảnh hưởng của Sartre, chỉ là một câu văn trong Buồn Nôn. Và tui tới với Buồn Nôn, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, như tôi đã có lần viết về nó, trong bài viết Một Người Anh

Tôi đã đọc Bếp Lửa, khi cuốn sách "xuống đường". Tôi vẫn nghĩ, nếu cuốn sách không được nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng quyết định đem ra bán "xôn", liệu nó có tìm ra những độc giả của nó hay không. Tôi muốn nói, tôi đã đọc cuốn sách vào đúng lúc mà, như Paul Nizan đã nói giùm: Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong một đời người. Tam Ích có lần than thở, tuổi trẻ của ông thật không may, vì đúng vào lúc mơ mộng nhất, ông lại vớ phải những cuốn sách viết về những lò thiêu người của Đức Quốc Xã. Có lẽ tôi chỉ may mắn hơn ông một chút xíu.
Sau Bếp Lửa là Kẻ Xa Lạ, của Camus, rồi Bức Tường, Buồn Nôn, của Sartre.
Bếp Lửa làm tôi nhớ Hà-nội, cùng nỗi đam mê viết về tuổi thơ, về đất Bắc. Trên hết, và sau hết vẫn là câu hỏi, nhức nhối đến tận bây giờ: Tại sao bỏ vào Nam.
Kẻ Xa Lạ là cơn choáng váng về phận người, cho dù không có cuộc chiến đang chờ đợi: Suy nghĩ coi cuộc đời có đáng sống hay không.
Chính một câu văn trong Buồn Nôn, ngay ở đoạn Nhật Ký Không Ngày Tháng ["Hà cớ sao lại sợ hãi một cuộc sống bình thường như thế này?"] đã cho Gấu tui can đảm cầm cây viết, như nhân vật Roquentin của Sartre.
Tuy nhiên, cần nhắc lại ở đây, quá khứ con hoang của Sartre, của Gấu, trước 1975, nếu có, thì đều ở trong những bài viết lẻ tẻ trên các tạp chí, và không hề được xuất bản thành sách, và được cuộc phần thư của những người CS thiêu sạch, thực sự Gấu chẳng thể nhớ tên, dù chỉ một bài.
Gấu tui chỉ xin giữ lại, tập truyện mỏng dính đầu tay, may mắn làm sao được một anh lái sách, xuống thuyền còn cố mang theo.
Những Ngày Ở Sài Gòn.

*****

 Đây là một, trong một vài câu, mở ra "cõi văn chương" của Gấu.
"Qu' y a- t- il à craindre d' un monde si régulier? Je crois que je suis guéri"
[Có gì mà sợ một thế giới bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày tháng", mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Nói đúng hơn, nó mở ra truyện ngắn đầu tay của Gấu: Những Con Dã Tràng
*****

Về cuốn Buồn Nôn, Gấu có vài kỷ niệm.
Một lần, ông anh rể của Gấu, Hiếu Chân, tức Nguyễn Hoạt - còn là thầy kèm Pháp văn tại gia cho Gấu, thời gian học Đệ Tứ trường Thành Công, ở Hoà Hưng. Giáo sư Pháp văn của Gấu là Chu Tử. Ông còn là hiệu trưởng - hỏi thằng em:
-Mày có cuốn Buồn Nôn, đưa tao xem thử coi.
Đó là thời gian Sài Gòn đang lên cơn sốt hiện sinh. Ông anh thấy thằng em coi bộ lậm, bèn kiểm tra!
Đọc chưa hết mấy trang không ngày tháng, ông quẳng Buồn Nôn lại cho thằng em, phán:
-Thằng này viết, tao chẳng hiểu gì cả!
Kỷ niệm thứ nhì, với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, trong một lần ngồi quán Cái Chùa, Gấu đã kể ra rồi, trong bài viết "Sartre, Huỳnh Phan Anh, và Gấu". 

Ông nhà thơ trợn mắt hỏi thằng em tập đang tập tễnh đua đòi "viết văn":
-Cậu 'hiểu' nó hả?
Thằng em thu hết can đảm, nói:
-Em nghĩ là em hiểu!
Ông anh nhà thơ thở dài, ra ý hồ nghi, nhưng cũng có tí tò mò, biết đâu còn có tí "thán phục":
-Thế thì cậu hơn tớ rồi! 

Nhưng những kỷ niệm tuyệt vời nhất, đều thấp thoáng một bông hồng.
Bông Hồng Đen.
Bạn cứ thử tưởng tượng, một con gấu, ngồi trong một quán cà phê túi Sài Gòn, nơi Chợ Đũi, đọc Sartre, và khi vừa đọc xong câu này:
'Vào mỗi thời đại, con người nhận ra mình, khi đối mặt tha nhân, tình yêu, và cái chết"
[A chaque époque, l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour, de de la mort]
và bóng dáng của cả ba nhập thành một, và là Bông Hồng Đen, xuất hiện trước mắt Gấu.
Cái còn lại, là cả một trời Sài Gòn hạnh phúc.

****

Qua Sartre tôi đọc được câu này, của Paul Nizan:
"Tôi năm nay hai mươi tuổi, và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người."
"J'avais vingt ans, je ne permettrai à personne de dire que c'est le plus bel age de la vie."
Paul Nizan: Aden Arabie.
Và tôi cũng tưởng tượng, tuổi trẻ của mình sẽ như là của Nizan, qua diễn tả của Sartre:
Nizan đã sống cạn tuổi trẻ của mình, không để thừa một giọt nào.
Nhưng "thảm thay", Nizan là một tay cộng sản. Anh 20 tuổi vào năm 1929, "giữa thời hậu chiến, của một cuộc chiến vừa chấm dứt". Anh viết cuốn "Mưu Phản", La Conspiration, Sartre không tin anh muốn viết tiểu thuyết, và tự hỏi, liệu một tay cộng sản có thể viết tiểu thuyết?
Đó là sự khác biệt. Trước mắt Gấu, là một cuộc chiến, trong khi Gấu, ở trong một thành phố nhớ một thành phố khác, và mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết nối được cả hai.
Như được miêu tả trong Những Ngày Ở Sài Gòn.

***

Về già, Gấu cứ tưởng tượng, giả dụ, có một thanh niên miền bắc, cùng tuổi, vào cũng những ngày tháng như vậy, và cũng như Gấu, đọc Sartre, khám phá ra những câu trên, liệu anh ta còn tin rằng:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm?