11
Thi sĩ nhận
được thư của người bạn mới ra tù đã sang Mỹ, trong thư nói:
“Ông
muốn làm
báo thì phải rời đảo Phú quốc về Saigòn, Phú quốc làm gì có người đọc
báo. “Anh
ta” muốn làm con “đường tự do” thì cũng phải về Sàigòn, làm “đường tự
do” ở Phú
quốc cho ai đi…Ở Phú quốc ông chỉ có thể “trồng tiêu”… Về đây đi ông.
Con cái
nó lớn cả rồi, đứa nào muốn ở lại Phú quốc trồng tiêu thì ở, bằng
không, thế
giới rộng mở chúng muốn đi đâu sinh sống tùy ý. Nhưng ông muốn làm báo
thì phải
ở Sàigòn này. Trước khi sang nhớ tới sở thú chụp hình “cu tí” xem nó
bao lớn…”
Thi sĩ nghe
lời bạn chuyển sang Mỹ ở, trước khi đi có đến thăm “Ông Bồ” một lần nữa
và chụp
một tấm hình “Ông” đang dương vòi lên cao như đang gầm. “Oâng” vẫn lạnh
lùng
thản nhiên không quen biết ai. Thi sĩ vẫn chỉ biết phận mình, đứng cô
đơn nhìn
“Ông”, muốn hỏi “Ông” vài điều mà không hỏi được, muốn nói chuyện với
“Ông” mà
không nói được, muốn cho “Ông” biết đôi điều tin tức về chốn cũ mà
chẳng biết
làm cách nào. Cho nên đành ngậm ngùi từ giã ra đi.
Ở Saigòn thi
sĩ mải làm báo mà quên làm thơ. Nghiệp báo chí nó đã vận vào người.
Nhưng mà
người bạn già một hôm nói cho ông biết rằng sẽ có một ngày ông lại bỏ
làm báo
để trở lại làm thơ, bởi vì thơ phú cũng là cái nghiệp. Làm thơ, làm
nhạc… cho
nó sang trọng !
Một hôm ông
được nghe kể lại chuyện Rừng Lá. Một vụ thanh trừng lẫn nhau về quyền
lợi khai
thác khu rừng Hàm Tân, kết quả là tay Đại tá công an Cục phó cục trại
giam và
bè phái bị bắt bỏ tù. Các “anh lớn” của anh ta ở trung ương không còn
tại vị
nữa, họ cũng đang lo cho cái thân họ chưa xong nên không người nào bao
che cho
anh được. Anh mất chỗ dựa, anh đã hết thời. Voi quí thì đã ra đi mất
hút. Rùa
thiêng chưa bắt được…
Suốt một đời
tận tụy vì sự nghiệp giam giữ người, nay bị người giam giữ anh ta chịu
đâu có
thấu. Đang là cai tù nay xuống làm tù, xuống đến tận cùng của sự đày
đọa, làm
sao anh ta chịu đựng nổi. Trong phòng
giam, anh bị một tay “đầu gấu” áp dụng luật giang hồ của nó. Nó và đồng
bọn cho
anh chọn lựa, một là bát cứt hai là bát nhựa nấu chảy đang sôi, anh
chọn cái
nào tùy anh. Chúng nó ngọt ngào nói tự
nguyện ăn bát cứt để tỏ lòng qui phục thì khỏi bị trừng trị úp bát nhựa
ni lông
nấu sôi vào mặt. Anh hoàn toàn tự do! Hoặc làm người hèn hoặc làm người
hùng!
Anh rùng mình nghĩ đến sự đau đớn của da
thịt bị nhựa sôi đốt cháy, anh rùng mình nghĩ đến bộ mặt sẹo sau này.
Đại tá
Cục phó Cục trại giam không muốn làm người như tù nhân chung thân “Hải
đèn
cầy”, đại tá tự do lựa chọn ăn bát phân. Vừa ăn anh vừa ói, nước mắt
trào ra…
Nhưng
đêm đó
anh treo cổ chết trong nhà cầu !
Vụ
án không có
chính phạm nên sau đó được xếp lại, bọn đàn em của anh bị trả về đơn vị
và chỉ
bị “xử lý nội bộ”, sa thải khỏi ngành, họ ra làm nghề đi rừng ở điạ
phương tiếp
tục lên núi Mây Tào chặt cây lấy củi về bán làm kế sinh nhai độ nhật.
*****
Ngồi hút thuốc
uống trà ở ngoài hiên quán cà phê trên đường Bolsa, nói chuyện mây bay
gió
thổi, thi sĩ đưa cho bạn bè xem tấm hình con voi chụp ở sở thú nước
Thụy
Điển, “Ông Bồ” ngự trong chuồng trại rất
sang trọng, tuy đã hơi già nhưng “Ông” vẫn béo tốt to khoẻ sạch sẽ
không lam lũ
như các đồng loại còn ở quê nhà. “Ông” vô tư… không có vẻ gì là nhớ
Rừng Lá,
nhớ núi Mây Tào, nhớ nơi “Ông” sinh ra… “Ông” hoàn toàn không biết một
tí gì về
chốn cũ đã có những biến đổi, đàn voi rừng Hàm Tân đang bị di chuyển
lên vùng
trường sơn lạnh gía, công cuộc “chuyển trại” đã có thương vong, hai
chết! “Oâng”
thản nhiên thành “công dân” nước người, “Ông” thản nhiên mang “quốc
tịch” khác,
“Ông” không còn dính líu gì tới miền đất quê hương, nơi mà mẹ “Ông” đẻ
ra
“Ông”, nơi bà bị sát hại. “Ông”, một kẻ
xa lạ!
Khi móc túi
lấy tiền trả chủ quán, thi sĩ lựa ra trong mớ mấy đồng “đô la” nhầu nát
một
mảnh giấy nhỏ, đưa cho người bạn gìa nói “còn đây là qùa tặng ông ngày
ra
tù”. Mở ra thấy bốn câu:
“Đình chùa lụt lớn. Tượng gỗ trôi
Anh
là tượng đất. Anh ở lại
Đất lại hoàn đất, tha hồ cười
Ta cười tới bao giờ mới thôi.” (*)
(*) Thơ Trần Dạ Từ.
(Huntington
Beach 2001)
Thảo Trường.