jen
Jen @ Niagara Falls

Góc Thảo Trường


2


         Ông cao lớn, tôi kiễng chân cũng chỉ đứng ngang tầm nách ông. Ông đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ, chậm rãi, ôn tồn. Ông có đôi mắt xanh lộ ra vẻ bao dung nhân ái. Ngày nào ông cũng dùng bữa ở phòng ăn này. Chỉ qua vài bữa đầu tôi đã thuộc lòng ý thích của ông. Ông luôn chọn chỗ ngồi ở cái bàn nhỏ nơi phía góc phòng từ đó ông có thể nhìn ra vườn cỏ xanh mướt bên ngòai cửa kính và ngọn núi Châu Thới mờ mờ xa xa. Ông  cầm cái khay từ quầy thức ăn đi vào thì tôi đã đứng chờ ông ở cái bàn đó. Không biết có phải tôi… cố tình giữ cái bàn nhỏ đó cho ông không nhưng tôi luôn luôn e ngại có người khác chiếm chỗ đó của ông. Từ khi mở cửa phòng ăn, nếu có khách bước vào là tôi tìm cách lái họ mời đến những chỗ khác. Cho đến khi ông tới và ngồi yên vị ở cái chỗ quen thuộc mà ông thích đó tôi mới thở phào yên tâm nhẹ nhõm. Tôi đem trà đến cho ông, tách nước sôi, tôi bóc gói trà thả vào nước sôi, sợi dây buộc giấy nhãn vắt ra ngoài tách, một miếng chanh ngon lành không có lõi để trên đĩa. Tôi nói “please” ông nhìn tôi trìu mến “thank”. Về sau thói quen đã làu, ông muốn tôi nói tiếng Việt “xin mời” và ông nói “cám ơn cô”. 

         Hai tháng sau, một hôm ông nói tôi cuối giờ làm, ông sẽ đưa tôi về. Đúng như thế, ông lái xe jeep đón tôi ngay cửa BOQ, tôi rụt rè không dám lên xe, ông xuống xe đi vòng sang ẵm tôi đặt ngồi trên ghế, tôi bàng hoàng cả người. Khi xe ra tới cổng căn cứ, ông ngừng lại cho tôi xuống đi bộ chui qua cửa an ninh bấm thẻ đúng thủ tục. Một nhân viên kiểm soát nháy mắt nói với anh đồng sự: “Mới hai tháng đã bắt được con cá mập, trung tá Mỹ chứ bộ.” Tôi trở lại xe, lần này tôi mạnh dạn trèo lên. Ông lái xe đưa tôi về chỗ trọ, mấy người hàng xóm ra nhìn, có người nói: “Cũng lại lấy Mỹ rồi”. 

        Những ngày sau đó ông đều lái xe đưa tôi về và rồi ông hỏi cưới tôi làm vợ đem về Mỹ. Bằng thứ tiếng Anh hầu bàn, tôi bập bẹ nói và loáng thoáng hiểu sự việc làm đảo lộn đời tôi. Vợ ông đã đòi ly dị với ông ngay từ ngày ông tình nguyện sang chiến trường Việt Nam, bà ấy không chấp nhận việc ông xa nhà, mọi sự đã giải quyết xong, ông chưa có con cái, ông sẽ giã từ đời quân ngũ, ông sẽ thôi chức vụ trung tá không quân để đem tôi về sống cuộc đời dân sự bình an ở bên Mỹ. Ông xin tôi nhận lời cầu hôn của ông vì ông thích tôi qua những bữa ăn tối ở câu lạc bộ sĩ quan. Tôi hoang mang không biết xử trí ra sao. Chưa gì đã nghe những lời đàm tiếu “me Mỹ”, nhưng quả tình tôi rất kính trọng ông, tôi rất tin tưởng nơi ông, con người như ông tôi nghĩ không thể  xấu xa được. Và tôi rất muốn đi khỏi nơi này, tôi rất muốn đi xa, thật xa, tôi muốn chạy trốn để dứt khoát với dĩ vãng, dứt khoát với cái nơi không còn chút liên hệ nào. Không còn quê quán, không còn cha mẹ anh chị em, không còn cậu. Cậu tôi đã bị “bụp” ! Tôi cũng đã bị “bụp”. Chúng tôi đều đã vỡ mặt, cậu cháu tôi đều đã rồi đời. 

         Hôm sau tôi trả lời ông là tôi bằng lòng theo ông suốt cuộc đời. Tôi cũng xin ông đừng bỏ tôi bơ vơ ở nước Mỹ, tôi đã bơ vơ ở Việt Nam, xin đừng bỏ tôi bơ vơ trên chốn dương gian này. Ông ôm tôi vào lòng ngay tại phòng ăn câu lạc bộ trước mắt bao người. Ông gọi quản lý xin cho tôi nghỉ việc ngay hôm đó. Ông đưa tôi về  ngôi nhà ở làng đại học Thủ Đức. Tôi được biết ngôi nhà này do một kỹ sư hãng thầu xây dựng RMK thuê để ở với một cô vợ Việt nam, nay ông kỹ sư về Mỹ sang lại nhà và cô vợ  cho ông trung tá không quân, nhưng ông trung tá chỉ nhận sang nhà, ông mang tới một cô vợ Việt nam khác. 

         Làng đại học Thủ Đức gồm toàn những ngôi biệt thự lớn  được xây dựng dành riêng cho các giáo sư đại học, ông cố vấn chính trị chế độ cộng-hoà-cũ đã gọi khu cư xá cao cấp này là một ấp chiến lược kiểu  mẫu, sang chế độ cộng-hoà-mới gặp lúc kinh tế khó khăn, chiến tranh bế tắc, vị giáo sư đại học phải thu xếp cho gia đình xuống ở căn nhà ngang vốn là nơi dành cho người ở đợ, ngôi nhà trên cho Mỹ mướn lấy tiền nuôi vợ con. Ấp chiến lược là quốc sách chống lại xâm lăng cộng sản, trong đó các đơn vị gia đình hợp lại với nhau thành cộng đồng đồng tiến, quí phu nhân thì liên đới với nhau thành phong trào, ngăn chặn không cho cộng sản len lỏi vào. Làng đại học Thủ đức đã thành công trong việc vận dụng “lý thuyết tam túc tam giác”, không thấy cộng sản trong đó. Cộng sản không vào được thì người Mỹ vào. Vào bằng xe jeep US Army hay xe hãng thầu RMK, thuê gần hết cả trăm căn biệt thự nguy nga lộng lẫy xây dựng bằng tiền viện trợ Mỹ. Trẻ con trong ấp thường hát nhái rằng:
                                “Cái nhà là nhà của ta,
                                 USAID, USOM làm ra…” 

         Ông đem tôi đến ở ngôi nhà đó, ông thuê người nấu ăn và bồi phòng để hầu hạ tôi. Oâng dẫn tôi lên toà đại sứ Mỹ ở Saigon làm giấy giá thú, để sẽ biến tôi thành một công dân Mỹ. Ông cho tôi đi học tiếng Anh, chính ông tập ăn tập nói cho tôi và hướng dẫn tôi hội nhập vào với dòng chính của nước Mỹ. Sáng sáng ông lái xe đi làm trong căn cứ, tôi ở nhà ngủ nướng, thức dậy ăn, ngâm mình trong hồ bơi, nằm phơi xác dưới cây dù mầu, có hai người hầu hạ ăn uống ngủ nghỉ…rồi chờ ông về. Chiều ông lái xe về mang theo bao nhiêu là thứ hàng mua trong PX hay Commissary, dư  xài tôi đem cho gia đình vị giáo sư đại học, mọi người đều gọi tôi là cô, ở đây tôi chưa nghe ai nhắc đến tiếng “me Mỹ”.

                                                               ***  

                                                              *****

          3.

 
         Ngay những ngày đầu tiên từ Việt Nam về Mỹ, chồng tôi đã đưa tôi đến ở ngôi nhà trên đồi. Rồi sau đó thỉnh thoảng ông mới lần lượt đưa tôi đi  đến các ngôi nhà khác, có khi là mùa hè ông dẫn tôi ra miền biển nghỉ mát, tập cho tôi chơi surfing, cũng có khi là mùa đông ông dẫn tôi lên ngôi nhà trên núi cao dạy cho tôi trượt tuyết, hoặc là có khi ông cho tôi về ở trong những căn phòng trên building giữa thành phố, để thỉnh thoảng ông dắt tay tôi đi lang thang trên các vỉa hè khu thương mại, ông đưa tôi vào các quán ăn mà tôi nghĩ rằng rất quen thuộc với ông vì những chủ quán hay cả những người bồi bàn, quản lý… đều tiếp đón ông kính trọng và thân tình. Họ nói với nhau những chuyện thời quá khứ, những câu chuyện từ hồi ông còn trẻ, từ hồi ông chưa sang tham chiến ở Việt Nam. Có khi họ hỏi ông những chuyện Việt Nam và cũng có khi ông hỏi họ về những chuyện của thành phố thời gian ông vắng mặt. Ông kể chuyện chiến tranh Việt Nam cho họ nghe, ông đã chỉ tôi và giới thiệu “Việt Nam đó”. 

         Một buổi chiều ông đưa tôi đi uống bia ly, một quán bia rất nhỏ, với những hàng quán của nước Mỹ thì quán bia này chỉ như một thứ “quán cóc”, giông giống một “quán cóc” bên đường nơi quê cũ. Quán bia ở ngay đầu một ngõ hẻm, mấy bộ bàn ghế bên trong bằng gỗ mộc và một chiếc quầy dài có hàng ghế cao cẳng cũng bằng gỗ mộc. Độc nhất quán chỉ bán một thứ bia, chính là thứ bia của hãng sản xuất thuộc gia đình ông ngay bên cạnh đó. Bia bán từng ly vại do người quản lý hứng từ cái vòi chui ra ở vách tường. Một vài món nhậu lai rai như hạt điều, fromage... chiều theo một vài vị khách nào đó, nhưng phần đông khách đến đây chỉ để uống một vài vại bia còn âm ấm chảy thẳng từ trong lò nấu bên kia hãng sản xuất chảy sang. Chồng tôi cũng chỉ uống bia không như thế và ông cũng gọi cho tôi một ly để nhâm nhi với ông. Nhìn thứ nước vàng vàng sủi bọt trong ly thủy tinh tôi liên tưởng tới những chai bia bị lay động cũng bị sủi bọt dưới lưng tôi trong nhà kho của cụ Chánh. Uống những hớp bia tôi lại nhớ những ngụm bia đã bí tỉ chung với cậu. Ông cho tôi biết hãng sản xuất bia có từ hồi ông chưa sinh ra đời do ông nội ông lập nên, nhưng quán bán bia lẻ uống nếm thử này thì có từ hồi ông còn nhỏ do bố ông sáng kiến mở ra. Uống xong mấy ly bia, ông trả tiền rồi dắt tay tôi ra khỏi quán để đi ăn tối ở một  tiệm ăn khác. Đi bên cạnh chồng trên hè phố dưới ánh đèn đường tôi nhớ tới Saigòn. Chợt chồng tôi nói:

         - Hãng làm bia là của em, cái tiệm bán bia lẻ nhỏ  bé đó cũng là của em, nhưng nếu sau này có lúc nào đó em đi ngang tạt vào uống một ly bia thì nhớ là em cũng sẽ trả tiền ly bia đó như những khách hàng khác nhé.

         Tôi yes nhỏ trong miệng, đầu vẫn còn lảng vảng ý nghĩ về chốn cũ nơi quê nhà. 

                                                               ***

                                                              *****

          Ngôi nhà lớn nhiều phòng đẹp đẽ sang trọng nằm trên một quả đồi nhỏ trong một vùng thung lũng mênh mông, có thảm cỏ, có vườn cây, có chuồng ngựa và những con đường đất ngoằn ngoèo. Từ ngôi nhà đó tôi có thể nhìn ra xa không bị một che chắn nào. Cũng từ ngôi nhà đó tôi có thể phóng tầm mắt nhìn tuốt lên dãy núi xanh cao mà ở trên đó cũng có một ngôi nhà của ông. Có lần tôi nói ngôi nhà trên đỉnh đồi thì chồng tôi ôn tồn sửa lại là ngôi nhà dưới đỉnh đồi. Oâng nói từ ngôi nhà dưới đỉnh đồi này hôm nào trời quang em có thể nhìn thấy mờ mờ ngôi nhà trên chân núi kia, ngôi nhà ấy đúng ra mới chỉ ở chân núi vì em thấy đó nó chỉ là một chấm nhỏ dưới cùng của dãy núi xanh cao vút chín tầng mây. Rồi chồng tôi tập cho tôi nói câu “Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi”. Tôi tập nói, lập đi lập lại nhiều lần câu nói đó và nhớ đến hồi tôi mới được ông lấy làm vợ, ông cũng dạy tôi nói tiếng Anh bắt lập đi lập lại  như thế. Oâng dạy tôi từng chữ từng câu, tập đọc tập viết cho tôi, sửa chữa từng câu từng chữ, cho đến khi nào tôi nói được viết được nhuần nhuyễn ông mới hài lòng.

          Ông hướng dẫn cho tôi hội nhập vào nước Mỹ bằng cách cho tôi đi làm các công việc ở các hãng xưởng sản suất, mỗi nơi một thời gian, ông nói để tôi quen với những tiếp xúc kiểu Mỹ, quen với lối sống Mỹ, quen với giọng nói Mỹ và nhất là hiểu được trị gía của đồng dollar Mỹ. Tôi công nhận là ông thực dụng. 

         Tôi cũng được tập cưỡi ngựa, tập lái xe, tập leo núi, tập trượt tuyết, tập chơi golf, tập khiêu vũ, tập chơi đàn piano… Oâng mướn thầy dạy tôi những thứ đó. Oâng mở chương mục ngân hàng cho tôi, dạy tôi cách xử dụng thẻ tín dụng, ký ngân phiếu, mặc dù tôi chẳng bao giờ phải xài đến nó bởi vì mọi công việc đã có nguyên một phòng hành chánh tài chánh lo liệu, tôi cần gì tôi muốn gì ông quản lý biết ý hết và giải quyết cho tôi ngay. Thậm chí tôi còn không cần phải có tiền trong người, tôi có phải móc ví ra chi trả đâu. Tôi có bao giờ phải xách cặp lồng cầm tiền lẻ đi mua đồ ăn sáng ăn tối cho ai đâu. Chồng tôi muốn nâng tôi lên cao, muốn biến tôi thành người của giới thượng lưu như ông để cùng sống chung với ông. Tôi hiểu điều đó, tôi cố gắng học, tôi cố gắng hội nhập, tôi cố gắng làm cho ông hài lòng. Nhưng tận trong thâm tâm, có lúc tôi vẫn sống lại với qúa khứ, có những lúc tôi thấy mình là đứa con gái học trò ở một quận lỵ miền quê, có lúc tôi chợt thấy mình là con lọ lem ngủ đường ngủ chợ, khi thì nhớ ra rằng mình là con ở tay cầm tiền lẻ tay cầm cặp lồng. Tận trong tim tôi vẫn ấp ủ hình bóng cậu, tình yêu của cậu, cái xe ba bánh, kho chứa bia, nhà tắm nơi góc sân, tôi không thể quên được những hình ảnh ấy. 

        Tháng tư  năm 1975 tình hình chiến sự ở Việt nam sôi động, tôi ngồi trước máy truyền hình theo dõi suốt ngày đêm, cộng sản miền bắc vi phạm hiệp định ngưng bắn xua quân tiến chiếm miền nam, hình ảnh những người lính cộng hòa lui quân tan rã súng ống vứt bừa bãi khắp nơi, lang thang trên các nẻo đường chiến địa, đã thu hút sự chú ý của tôi. Tôi cố tìm cậu của tôi trong đám quân bại trận đó. Tôi vẫn cố hy vọng thấy được cậu còn sống sót trong cuộc đổ vỡ này. Oâng chồng tôi thấy tôi ủ rũ lại nghĩ là tôi thương nước thương nòi, ông an ủi tôi:

         - Thôi em đừng nghĩ ngợi gì về cuộc chiến đó nữa. Chúng ta đã thua ngay từ lâu lắm rồi, từ cái ngày nước Mỹ bỏ ngỏ Đông Âu cho cộng sản Liên xô xâm chiếm.

         Tôi không hiểu được những điều ông  nói, tôi chỉ biết ngồi yên với nỗi buồn của riêng mình, chồng tôi nói tiếp, có lẽ là muốn giảng giải cho tôi về những quan niệm của ông: 

         - Khi Hoa kỳ từ bên nước Anh đổ bộ lên nước Pháp đánh phát xít Đức giải phóng châu Âu, đáng lẽ ra phải tiến quân đi tới, nhưng Roosevelt lại nghe lời bàn lui của Churchill, nhường cho Liên sô chiếm trọn Đông Âu. Đông Âu thoát khỏi phát xít lại sa vào vòng kiềm tỏa của cộng sản. Stalin chôn sống mấy chục ngàn sĩ quan ưu tú của Ba lan, thâu tóm nhuộm đỏ được gần một nửa thế giới. Nước Mỹ đã để cho cộng sản tràn lan, thế giới vỡ bờ, chỉ vì giao tiếp với những tay hoạt đầu chính trị như, một De Gaulle cơ  hội, một Churchill láu cá, một Stalin hung bạo… Nước Mỹ đã nhiều lần trợ giúp những tổ chức nổi dậy để rồi sau đó chúng đánh lại Mỹ. Mỹ viện trợ giúp đỡ khắp thế giới nhưng khắp thế giới đâu đâu cũng chống Mỹ. Ở Việt nam cũng thế, Mỹ đã từng cho biệt kích nhảy dù xuống Việt bắc giúp đỡ họ Hồ. Sau này họ “chống Mỹ cứu nước” mới vỡ lẽ ra thì đã muộn. Tôi tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu những mong làm được một cái gì đó để cứu vãn phần nào, nhưng một thời gian tôi thấy ra rằng chỉ là vô vọng. Chẳng thể cứu nổi Việt nam cho nên tôi bỏ cuộc, tôi cưới em đem về Mỹ là để cứu em ra khỏi vùng chiến địa đó. Không cứu được cả một xứ sở thì tôi cứu lấy một người. Khi em bằng lòng theo tôi về Mỹ là em đã giúp tôi làm được việc đó. Đây là lần thứ nhì trong đời tôi đã tự giải thoát được chính mình.

         Tôi định hỏi ông cái lần thứ nhất ông giải thoát mình nhưng thấy ông nghiêm nghị trầm ngâm quá nên không giám. Mãi sau này tôi mới tình cờ biết được sự đó. 

         Chồng tôi cũng không là kẻ hẹp hòi, khi không còn chiến tranh, nhiều Việt kiều về thăm quê hương, ông chồng tôi cũng gợi ý cho tôi về thăm Việt nam một lần, ông nói:

         - Em còn có một nơi gọi là quê hương để mà nhớ thì em nên về thăm. Chứ như tôi đây, trải qua mấy đời rồi tôi chỉ còn biết mang máng là giòng giống mình ở tận bên Scotland, chỉ có thế, tôi không biết một tên người nào, tôi không biết một địa chỉ nào để mà lần mò tìm ra cội nguồn mình. Tôi đã mất gốc. Một người Mỹ thuộc dòng chính là một người Mỹ đã hoàn toàn mất gốc. Phải nhiều đời nữa hắn mới nẩy mầm ra và bám rễ thành  một cái gốc khác, nhưng em biết đó, tôi không có con cái, đến đời tôi là dừng lại. Em mới bắt đầu vào cuộc thì em còn chút dây mơ rễ mái để mà tìm về. Nếu em muốn thì em cứ đi. Tiền bạc đó em muốn tiêu xài việc gì cho quê hương em thì em cứ xử dụng. Em muốn làm gì để có một cái phao bám víu thì em cứ làm. Tôi chỉ mong em happy. Thấy em happy là tôi hạnh phúc. Tôi mang ơn em đã mang lại hạnh phúc cho tôi.

         Tôi ôm ông khóc ròng. Tôi có còn ai đâu. Gia đình bố mẹ anh chị em tôi đã bị xoá sạch cùng với nhà cửa và thị trấn, xóa sạch không còn dấu vết gì bởi bom đạn cào qua cào lại của cả hai bên. Người tình thì mất hút. Tôi còn biết về đâu bây giờ? Về với ai bây giờ? Tiền bạc để cho ai bây giờ? Thấy tôi khóc, ông ẵm tôi trên tay đi tới đi lui trong phòng như người ta ẵm một đứa trẻ. Tôi muốn đẻ cho ông một đứa con nối dõi nhưng suốt mấy năm qua ăn ở với ông tôi vẫn không làm sao có bầu được. Tôi hứng tất cả những gì của ông cũng như trước đây tôi đã hứng tất cả những gì của cậu trút sang nhưng chưa một lần nào tôi tạo thành ra cái gì cả. Tôi là một giống cái không biết tạo ra sự sống, không biết truyền sinh, tôi đúng là thứ đồ bỏ, tôi hoàn toàn là một kẻ bất nhân. Có lẽ rồi ông mất gốc, tôi mất gốc, hai kẻ mất gốc sẽ ôm nhau mà chết rục trong quạnh hiu và vô vọng thôi.

          Nhưng tôi không có dịp ôm nhau chết rục trong quạnh hiu cùng với ông. Chồng tôi qua đời vì một tại nạn trượt tuyết. Mùa đông chúng tôi lên nghỉ ở căn nhà trên chân núi bleu mountain, dãy núi xanh lơ cao chín tầng mây nay đã trắng xóa, ông cho tôi ngồi vào trong một “cái thúng” rồi ông cho “cái thúng” trượt tự do từ hiên nhà xuống phía thung lũng, còn ông sẽ trượt bằng nạng dọc theo mé đông căn nhà rồi vòng lại và sẽ gặp tôi ở dưới thung lũng, xuống dưới tôi ra khỏi cái thúng đứng chờ… Chờ hồi lâu không thấy ông tới, tôi gọi phone tay cho quản gia, ông ta đi tìm vòng vòng ở một khúc quẹo nơi có hàng rào gỗ thì thấy có dấu vết gẫy đổ, nhìn xuống khe núi thấy có người mặc đồ trượt tuyết nằm dưới đó thì biết ngay là ông chủ đã gặp nạn. Toán cấp cứu tới đưa nhà tôi vào bệnh viện, chấn thương nặng nơi đầu, ông mở mắt nhìn tôi, hàng nước mắt trào ra. Nước mắt tôi cũng trào ra. Tôi ôm hôn bàn tay ông, bàn tay đã ôm ẵm tôi từ Việt nam, đã dắt tôi về Mỹ, đã bao bọc che chở tôi. Đêm đó chồng tôi tắt thở. Tôi đã xin ông đừng bỏ tôi bơ vơ nếu ông đem tôi về Mỹ, nay ông ra đi, tôi sẽ lại bơ vơ như  khi còn ở nơi quê nhà.

         Tôi chẳng biết phải làm gì, nhưng mọi sự đều đã có người lo liệu hết. Từ việc tang lễ cho đến những công việc quản lý tài sản của ông đều đã có người thi hành theo di chúc của ông để lại. Người luật sư và ông quản lý công ty phụ trách công việc xong trình cho tôi biết mọi sự. Mộ của ông được đặt ở sườn đồi nơi có một cây bạch dương rất lớn mà từ phòng ngủ của chúng tôi có thể nhìn thấy. Oâng quản lý cũng cho tôi biết ở nơi đó dành cho tôi một chỗ bên cạnh chồng và dưới chân vợ chồng tôi sẽ là nơi an nghỉ của con chó Patrick. Hôm lễ chôn cất, họ chuẩn bị cho tôi bộ đồ đen, chiếc nón cũng màu đen, đôi găng tay trắng, người ta đặt một chiếc ghế cho tôi ngồi, Patrick nằm phủ phục bên cạnh ghế, Patrick và tôi cùng nhìn chiếc quan tài của ông và cả hai đều im lặng. Khi có người đưa cho tôi một bông hoa để tôi đặt lên trên quan tài ông, Patrick cũng đứng dậy đi theo bên cạnh tôi, làm xong nghi lễ đặt hoa tôi trở về ghế ngồi thì Patrick cũng lặng lẽ về nằm phủ phục ở chỗ cũ bên cạnh ghế. Tôi không rõ Patrick có được diễn tập trước các động tác này không. Bạn bè khách khứa đứng bao quanh, mọi sự diễn ra theo đúng lớp lang. Không có ai khóc.

         Hôm sau luật sư và ông quản lý trình cho tôi bản di chúc và các hồ sơ tài sản chồng tôi để lại cho tôi, đó là một gia tài rất lớn. Tôi trở thành chủ ngân hàng, những công ty thương mại, những nhà máy sản xuất, và những cổ phần vô số kể trong các đại xí nghiệp. Ông còn để lại cho tôi rất nhiều ngôi nhà, ở trong thành phố, trên núi cao, hoặc ở bãi biển miền tây. Tôi làm góa phụ, với một tài sản mà chính tôi cũng không biết rõ là bao nhiêu, luật sư và ông quản lý nói cho tôi biết là nếu tôi không muốn thay đổi gì thì mọi việc sẽ vẫn như khi chồng tôi còn sống, nghĩa là ban quản trị tiếp tục công việc điều hành, hàng tháng họ sẽ trình lên tôi bản kết toán. Họ còn nói với tôi rằng tôi không phải lo lắng gì cả, với một tổ chức quản lý do chồng tôi sắp đặt thì không lo gì bị thất thoát. Nghe họ nói tôi chỉ lặng thinh. Tôi có gì để lo lắng đâu. Mọi sự đều từ trên trời rơi xuống. Kể cả ông, người chồng đáng kính của tôi cũng là do từ đâu đâu đến với tôi và nay ông cũng đã đi tận đâu đâu tôi chẳng biết. Ông đến rồi nay ông đi, ông yêu thương và bảo bọc tôi lúc sống, ông cũng vẫn yêu thương và bảo bọc cho tôi khi ông đã qua đời, ông lo liệu hết, ông sắp xếp định đoạt hết mọi thứ cho tôi thì tôi còn gì nữa để mà lo. Mãi lúc sau tôi mới nói lời cám ơn ông quản lý và ông luật sư, tôi nhờ họ tiếp tục làm việc như khi chồng tôi còn sống, tôi hoàn toàn tin tưởng ở họ.

         Nhân dịp này ông luật sư và ông quản lý còn nói cho tôi biết thêm về ông chồng tôi. Tài sản của gia đình chồng tôi lên tới bạc tỉ, cụ thân sinh ra chồng tôi đã là một tỉ phú Mỹ. Nhưng khi bà vợ của chồng tôi đòi ly dị thì ông đã dễ dàng chia đôi cho bà ấy một nửa, ông nói với các người giúp việc trong ban quản trị rằng: “Như thế là thoát, xuống làm triệu phú, khỏi phải mang danh là tỉ phú”. Bà ấy sau lấy một người chồng khác, bà đem của cải chiếm được nuôi ông “chồng hai” làm chính tri, những mong sẽ trở thành đệ nhất  hay đệ nhị phu nhân gì đó của nước Mỹ. TV đã chiếu hình bà níu đầu người đàn ông nổi tiếng xuống mà hôn môi cho cả bàn dân thiên hạ cùng xem.

          Tôi đã hiểu ra cái lần thứ nhất chồng tôi tự giải thoát cho chính ông. Ông đã cưa một nửa tài sản của gia đình để lại cho người đàn bà lấy ông vì tiền và bà ta đã “chặt đẹp” để ông tụt xuống khỏi cái nấc thang tỉ phú, đồng thời giúp ông đi ra khỏi một cái vỏ bọc. Vì chiến tranh Việt Nam ông mất một bà vợ, mất một nửa tài sản. Cũng vì chiến tranh Việt nam ông được một cô vợ khác và mất luôn cái phần tài sản còn lại.

          Ra khỏi cái hệ lụy tỉ phú Mỹ rồi ra khỏi cái hệ lụy chiến tranh Việt Nam, hai lần tự giải thoát mình thì cả hai lần ông chịu làm kẻ thua cuộc.    

          Nhiều lần chồng tôi đã tỏ vẻ hài lòng vì có được tôi, ông đã thoát ra khỏi trận đánh nhưng đem theo được một chiến lợi phẩm, vậy tôi, một con lọ lem moi ra từ cuộc chiến tàn khốc, một con “vợ hai” của ông, tôi tự hỏi lòng mình, có đúng là cái thứ đáng cho ông “được” không?

          Tôi sống âm thầm trong ngôi nhà rộng “dưới đỉnh đồi”, từ phòng ngủ hàng ngày tôi hướng mắt nhìn “lên chân núi” nơi cái đốm trắng là ngôi nhà chồng tôi bị nạn qua đời, rồi tôi lê cái nhìn về cây bạch dương để thấy ngôi mộ của chồng tôi ở đó. Mỗi buổi sáng, tôi đi dạo quanh khu trại, tôi ghé thăm mộ chồng tôi, bao giờ tôi cũng thấy có hoa tươi do tiệm hoa ở Boulder đem đến theo lịch trình ban quản lý đặt mua. Có lần tôi ghé qua chuồng ngựa, người thanh niên da trắng trông coi ở đó đang tắm cho một con ngựa, anh ta dừng tay cúi chào tôi, tôi hỏi chuyện anh ta vài điều, anh đang chải lông cho tuấn mã, con ngựa có vẻ thích thú, rụt cổ vẫy đuôi, chợt người coi ngựa nói: “Khi nào bà cần tắm táp xin cứ gọi tôi lên nhà”. Tôi trố mắt nhìn anh ta và con ngựa, anh ta thì không nhìn tôi, tay vẫn làm việc. Và tôi không nói ra được một lời nào. Tôi bỏ đi như chạy trốn. Từ đó không bao giờ tôi dám xuống chuồng ngựa nữa.

          Patrick cũng có người trông coi, nó được tắm táp hàng ngày, được ăn đồ ăn mua từ siêu thị, được đưa đến bác sĩ thú y xem xét sức khỏe hàng tháng, Patrick được ngủ trong phòng tôi, nhưng có khi nó không nằm trên giường của nó mà nhảy phóc lên nằm cùng giường với tôi, tôi cũng thây kệ cho nó ngủ nhờ vì hồi chồng tôi còn sống ông vẫn cho Patrick nằm chung. Tôi nghĩ chẳng lẽ bây giờ chủ của nó không còn nữa mà mình nỡ lòng xua đuổi, vả lại có lần Patrick thấy tôi khóc nó đã liếm những giọt nước mắt trên má tôi. Thôi thì, tôi ước mơ, ở một thế giới nào đó, tôi được nằm chung giường, ngủ chung giường với cả ba: cậu, chồng tôi và Patrick. 

         Patrick và tôi chỉ được ngủ chung giường với nhau hơn một năm thì Patrick ngã bệnh, tự nhiên nó không ăn uống, nằm liệt giường, người đàn bà săn sóc phải đưa Patrick đi bác sĩ thú y điều trị, nhưng  một tuần sau thì Patrick chết. Bà ta khóc sướt mướt khi báo hung tín cho tôi và tôi cũng khóc sướt mướt theo bà ta. Hình như hôm chồng tôi chết tôi chỉ khóc thầm chứ không òa lên như với Patrick. Patrick được chôn cất ngay dưới chân ông, hóa ra Patrick được ra nằm cạnh ông trước cả tôi. Như thế ở gốc cây bạch dương nơi sườn đồi chỉ còn chờ có tôi nữa mà thôi. Tôi ước ao giá mà tìm được hài cốt của cậu đem về đấy. Ước ao xong tôi mới thấy là không thể được. Cơ quan MIA chỉ đi tìm những hài cốt của người Mỹ mất tích, cậu lại không phải là lính Mỹ, cậu là sĩ quan VNCH, cậu chỉ là đồng  minh, không có cơ quan nào làm nhiệm vụ tìm kiếm hài cốt đồng minh dù là bị mất tích đang khi thi hành nhiệm vụ. Chế độ VNCH nay không còn nữa cho nên không có cơ quan nào lo những công việc ấy, hài cốt của cậu là hài cốt vô thừa nhận…