*

 
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

TƯỞNG NIỆM

1



Tưởng Niệm Greene [1904-1991].

2.
Tháng Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho [HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi đám bộ hạ phò Tầu:

Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử Greene, chương 24: Bonjour Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979, trang 49-50]

Thé [tướng Trịnh Minh Thế] đúng là một thứ kẻ thù khó chơi, a difficult enemy. Hắn làm nhức nhối, ngay cả de Lattre. Greene thực sự quan tâm tới Thé, bởi hắn thù Tây cũng chẳng thua gì thù Vi Xi (1). Phải một tay như thế mới tạo nổi chất xúc tác, a catalysing agent. Không có hắn, là không có bi kịch.

Về lại Anh, Greene nhớ Việt Nam quá và, may mắn làm sao, đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm, và cũng là một cách làm dịu nỗi đau vàng, le mal jaune. Cái tẩu ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít khác, không phải ở đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam, tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.
*

Trong cuốn Ba Mươi Sáu Chước, Tẩu Vi Thượng Sách,  Ways of escape, một dạng hồi nhớ văn học, Greene cho biết, đúng là một cơ may, chuyện ông chết mê chết mệt xứ Đông Dương. Lần thứ nhất viếng thăm, ông chẳng hề nghĩ, mình sẽ đẻ ra được một cuốn tiểu thuyết thật bảnh, nhờ nó. Ông có một người bạn cũ, Trevor Wilson, quen những năm chiến tranh, lúc đó là Lãnh sự  tại Hà Nội, nơi một cuộc chiến khác đang tiến diễn và hầu như hoàn toàn bị bỏ quên bởi báo chí Anh. Do đó, sau Malaya, ông bèn nháng qua Việt Nam thăm bạn, chẳng hề nghĩ, vài năm sau, sẽ trải qua tất cả những mùa đông của ông ở đây.

 "Tôi nhận thấy, Malaya 'đần' như một người đàn bà đẹp đôi khi 'độn'. Người ở đó thường nói, 'Bạn phải thăm xứ xở này vào thời bình', và tôi thật tình muốn vặc lại, 'Nhưng tớ chỉ quan tâm tới cái xứ sở đần độn này, khi có máu'. Không có máu, nó trơ ra với vài câu lạc bộ Anh, với một dúm xì căng đan nho nhỏ, nằm tênh hênh chờ một tay Maugham nào đó mần báo cáo về chúng." 

[Nhân nhắc tới Maugham. Nguyễn Tuân nổi tiếng với di chúc, có thể chỉ là giai thoại, "Khi ta chết, nhớ chôn theo một tên phê bình". Nhà văn người Anh, Somerset Maugham, trong một bức thư vào lúc chót đời, cũng đã băn khoăn, "Cái tên phê bình gia mà tôi chờ đợi hoài không thấy xuất hiện, là gã sẽ giải thích cho tôi, tại làm sao tôi viết dở như hạch như vậy, mà lại có quá nhiều độc giả, đọc ròng rã trong quá nhiều năm trời?" "The critic I am waiting for, is the one who will explain why, with all my faults, I have been read for so many years by so many people?".
Liệu cuốn tiểu sử mới nhất về ông, S. Maugham: Một Đời, tác giả Jeffrey Meyers, nhà xb Knopf, 411 trang, US $ 30.00, sẽ trả lời được câu hỏi trên?] 

"Nhưng Đông Dương, khác hẳn. Ở đó, tôi nuốt trọn bùa yêu, ngải lú, tôi cụng ly rượu tình với mấy đám sĩ quan Lực Lượng Lê Dương, mắt tay nào cũng sáng lên, khi vừa nghe nhắc đến hai tiếng Sài Gòn, hay Hà Nội."
Và bùa yêu ép phê liền tù tì, tôi muốn nói, giáng cú sét đánh đầu tiên của nó, qua những cô gái mảnh khảnh, thanh lịch, trong những chiếc quần lụa trắng, qua cái ráng chiều mầu thiếc xà xuống cánh đồng lúa trải dài ra mãi, đây đó là mấy chú trâu nước nặng nề trong cái dáng đi lảo đảo hai bên móng vốn có tự thời nguyên thuỷ của chúng, hay là qua mấy tiệm bán nước thơm của người Tây ở đường Catinat, hay trong những sòng bài bạc của người Tầu ở Chợ Lớn, nhưng trên hết, là qua cái cảm giác bi bi hài hài,  trớ trêu làm sao, và cũng rất ư là phấn chấn hồ hởi mà một dấu báo của hiểm nguy mang đến cho du khách với cái vé khứ hồi thủ sẵn ở trong túi: những tiệm ăn bao quanh bằng những hàng dây kẽm gai nhằm chống lại lựu đạn, những vọng gác cao lênh khênh dọc theo những con lộ nơi đồng bằng Nam Bộ với những lời cảnh báo thật là kỳ kỳ [bằng tiếng Tây, lẽ dĩ nhiên]: "Nếu bạn bị tấn công, và bị bắt giữ trên đường đi, hãy báo liền lập tức cho viên sếp đồn quan trọng đầu tiên".

Dịp đó, tôi ở hai tuần, và tranh thủ tối đa, tới giây phút cuối cùng, cái giây phút không thể tha thứ , "the unforgiving minute". Hà Nội cách Sài Gòn bằng London xa Rome, nhưng ngoài chuyện ăn ngủ... ở cả hai thành phố, tôi còn ban cho mình những chuyến tham quan nơi đồng bằng Nam Bộ, tới những giáo phái lạ lùng như Cao Đài mà những ông thánh gồm Victor Hugo, Giê Su, Phật, Tôn Dật Tiên...

*

Phải đến những ngày chót đời, Gấu mới nhận ra, và chịu được Greene.
Trước đó, đã có thời Gấu không chịu nổi, khi khám phá ra, ông là một tên điệp viên. Gấu tự hỏi, tại làm sao lại làm một cái nghề khốn nạn, như thế? Đồng thời lại làm một cái nghề cao quí, như thế?
Đây đúng là "chân lý của thế kỷ 20", như Milosz đã có lần phát biểu, về một nhà thơ bẩn nhất, nổi tiếng nhất thế kỷ, khi về già, đã cố kỳ cọ cho văng hết chất bẩn ra khỏi mình, nhưng không thể, và khi đó, mới ngộ ra, mình được như thế này là nhờ bẩn, và có thể đây là ý muốn của Thượng Đế.
Greene cũng giống như vậy, như ông đã từng thách đố chính mình, khi tuyên bố, tôi phải kiếm cho được một tôn giáo, để đo lường phần quỉ ma ở nơi tôi.
Vấn nạn trên đây, cũng có thể "áp dụng một cách thông minh, và thiên tài" vào một số nhà văn VC, mà đa số đều làm thêm nghề tay trái, là cớm, hoặc chìm, hoặc nổi. Nghĩa là, tay phải viết văn, tay trái đánh người. Lâu lâu đổi tay.
Bạn không tin? Xin cứ giở bất cứ một tác phẩm, của những nhà văn nổi tiếng nhất, ở trong nước, ngay cả Tô Hoài, là thấy ngay.
Với Tô Hoài, Gấu tôi xin lấy thử một đoạn trong Cát Bụi Chân Ai, để chứng minh.
* 

“Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng..."
(Cát Bụi Chân Ai, trang 12. Tô Hoài, nhà xb Thanh Văn, Cali, không ghi năm). 

Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be?). Văn là người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân, nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những câu văn nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."
Tiện đây, tôi xin chép lại cả một đoạn phố, (cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị gì), với những người ngợm của nó: cái đống rác của cả một miền đất, sau "Mùa Thu", một thứ Xóm Cầu Mới (9):

"Ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa thùng cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."
Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi tiết chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết. Nghe nói Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính thức", và bằng cách nào ông sống sót...

Trong hai nhà văn tiền bối kể trên, Tô Hoài mới là người thân cận với tuổi thơ của tôi, của "chúng tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ sĩ được thiền sư xén tóc "cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ xuống tóc cho một tín đồ nào đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một buổi hẹn hò. Ôi nỗi đắng cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt, mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày tháng... Làm sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một thiên lương như vậy, với những quan sát tinh vi về loài vật, về một con người như Cu Lặc, lại có thể cay nghiệt như thế về một cõi tề, nguỵ? Đành phải giải thích bằng kinh nghiệm đọc Primo Levi, một nạn nhân của Lò Thiêu, qua bài viết: "Những cuốn tiểu thuyết do dế kể".
Primo Levi nhắc tới một bài essay của Aldous Huxley, qua đó, nhà văn người Anh này, khi phải trả lời một người trẻ tuổi muốn nhờ ông ban cho một lời khuyên, bắt đầu viết như thế nào: hãy mua một đôi mèo, quan sát, rồi miêu tả chúng. "Nếu tôi (Levi) nhớ không nhầm, ông nói với người trẻ tuổi, rằng loài vật, và đặc biệt động vật có vú, đặc biệt hơn nữa, những loài vật nuôi trong nhà, chúng như chúng ta, nhưng 'bỏ cái nắp đí ('with the lid off'). Cư sử hành động của chúng giống như của chúng ta, một khi mà chúng ta mất đi được (thiếu, lack) sự kiềm chế."
Thế giới con người trong Cát Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế giới loài vật Tô Hoài mô tả, những ngày trước Mùa Thu. Những con vật của ông "người" hơn, so với những con người sau này (so với cách ông miêu tả con người sau này). Vẫn theo bài viết của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể suy ra khí hậu của môi trường sống. Người ta còn nhận ra một điều: dưới những điều kiện thiên nhiên bình thường, dế đực và dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng nếu thân nhiệt của dế đực (thí dụ vậy) tăng lên chỉ một hay hai độ, tiếng nhạc của nó tăng lên bán-cung, và bạn lòng của nó sẽ không trả lời: con cái không còn nhận ra dục tính ở con đực. Môi trường thay đổi chút xíu, thế là có một "thảm họa", một bất toàn, một khiếm khuyết, một bất xứng đôi, nẩy sinh: phải chăng chúng ta có một mầm (germ) tiểu thuyết ở đây? Levi tự hỏi.
Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách giải thích "vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa Thu làm thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình. Ở đây, ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với giấc mơ trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy hai ông sư giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ 72 tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy vọng cải hóa...
[NQT: Một chuyến đi]

Không chỉ nhà văn, mà còn luôn cả nhà thơ, thí dụ như Tố Hữu, một tay vùi giập không biết bao nhiêu tài năng, thí dụ như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm...
Thảm hại thay, nhiều nhà văn cớm như thế mà chẳng thể đẻ ra được một Greene.

Lý do thất bại, theo tôi, là họ đều quá tin tưởng, và quá biết ơn, Đảng Cộng Sản. Thí dụ như Nguyễn Khải chẳng hạn. Ông này đã từng tuyên bố, không có Đảng là không có ông.
Họ đều là những đảng viên trung thành. Họ đều có những ông bố bà mẹ không giống như bố mẹ nhà thơ Joseph Brodsky, như đoạn sau đây.

"Bởi vì, thằng con trai này, [là nhà thơ Nobel, Joseph Brodsky], rất biết ơn bố mẹ của nó, không chỉ ở việc, cho nó một đời sống, mà còn là, đã không thất bại, trong việc nuôi dưỡng nó trở thành một con người, chứ không phải một tên nô lệ. Họ đã cố gắng làm được những gì tốt nhất, như là họ có thể làm được, để, không chỉ cứu thằng con, chống lại thực tại xã hội khốn kiếp mà nó được đẻ ra từ đó, mà còn cố làm sao cho thằng con đừng biến thành một tên tà lọt, điếu đóm, một tên thưa dạ bảo vâng, vâng ạ, của nhà nước, một thằng đảng viên trung thành. Rằng, họ đã không thành công, rằng, họ đã phải nhắm mắt trả giá cho việc làm kể trên, không bởi thằng con đã không được như ý của họ, mà là bởi cái bàn tay khốn nạn vô danh của nhà nước, điều đó chứng tỏ, không phải họ lỏng lẻo, lơ là [trong việc dạy dỗ thằng con], nhưng chính là nhờ dòng dõi của họ, cái dòng dõi đó, cái thứ máu huyết đó, đã chung đúc lại, và tạo ra một cơ thể mà hệ thống khốn kiếp kia không làm sao đánh bật ra được, cho dù là nó rất ư là xa lạ, rất ư là ngoại lai, đối với hệ thống đó. Hãy nghĩ tới điều đó, còn mong gì tốt đẹp hơn thế nữa, hãy nghĩ tới cái sức mạnh được hoà hợp lại, của họ, để chịu đựng, và sống còn?"
Thư Nhà

Đây là điều phân biệt những nhà văn như Greene, với họ.

Nguyễn Quốc Trụ