*





















 
 







NGUYỄN TÀ CÚC:

Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?

NHÀ VĂN THỤY VŨ:

Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp [lớp 2 Hội Việt Mỹ]. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ đòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.
Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.
Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? "Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách..." Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là "ma cô."
Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. "Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?" - "Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghen." Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?
Công - bạn tôi nhanh nhẩu nói: "Bạn dạy i - tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi."
Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng "bồi" lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.
Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.

Hãy Nói Về Miền Nam

Câu chuyện về một "Muỗng Nước Mắm" của Nguyễn Thị Thụy Vũ

 Nhưng câu chuyện về một Deep South của Quentin không chấm dứt với chiến tranh. Đại tá Sutpen về nhà, [Quentin] nói, để thấy rằng vợ đã chết, con trai, một kẻ trốn chạy, những nô lệ của ông phân tán (họ bỏ chạy trước khi được giải phóng bởi quân đội Union), và hầu hết đất đai của ông bị trưng thu do nợ nần.
(Malcolm Cowley giới thiệu William Faulkner, trong The Portable Faulkner, nhà xb The Viking Press New York)

 "Tại sao anh thù ghét Miền Nam?", Shreve McCannon hỏi, sau khi nghe xong câu chuyện
 – "Tôi không thù Miền Nam", Quentin trả lời liền lập tức. "Tôi không thù Miền Nam," anh lập lại, như thể nói với tác giả, và với chính mình. Tôi không thù …. Tôi không. Tôi không thù! Tôi không thù!

William Faulkner. Absalom, Absalom! (1936)

Trong số những truyện ngắn của Thụy Vũ, có một, ít được nhắc tới, nhưng có lẽ đây là truyện ngắn hay nhất của bà, cho thấy cái mạch ngầm của ‘dòng văn học miền nam’: thiên về tâm linh, và nó ‘nhập thế’ qua hình ảnh của một đạo gia hơn là của một nhà văn.
Đây là điểm thật khác biệt giữa hai dòng văn chương, một mang "chiến đấu tính", và một tuân theo sức mạnh vô hình, của điều được gọi là "thiên tài của nơi chốn", hay của Thần Đất (genius loci, the spirit or guardian deity of the place).
Đó là câu chuyện về một người đàn bà, hình như một ‘Chị Hai’ trong một gia đình miền nam. Chị Hai nhiều khi không hẳn là một ruột thịt trong gia đình, mà chỉ là một người làm công lâu đời, người viết không khỏi liên tưởng tới người vú da đen, trong Âm Thanh và Cuồng Nộ của William Faulkner: những con người gìn giữ lương tâm của cả một miền đất. Malcolm Cowley viết về những nhân vật của Faulkner: dù anh hùng, hay tiểu nhân, họ có một cảm quan kỳ cục: nhẫn nhục với số mệnh của mình (They… carry, whether heroes or vilains, a curious sense of submission to their fate).

Bà Chị Hai của Thụy Vũ, suốt đời ăn chay niệm Phật, tới phút hấp hối, bỗng muốn được hưởng mùi trần: hãy cho tôi nếm thử một muỗng nước mắm! Thế là có người thì giẫy nẩy, đây là Quỉ ám, cản trở không cho bước vào cõi Phật. Họ viện dẫn, ngay cả Đức Phật trước khi đắc đạo, trước nhìn ra ý nghĩa đau khổ của cõi đời sinh tử lão bịnh, và tìm ra được giải thoát ra khỏi vòng luân hồi, cũng đã từng bị Quỉ ám ảnh. Có người gật gù, phải thực hiện ao ước cuối cùng của một linh hồn trước khi lìa đời….
Tôi không nhớ Thụy Vũ đã ‘quyết định" ra sao, về nhân vật của mình, "chấp nhận luân hồi, anh bước vô", hay là…

Theo tôi, câu chuyện muỗng nước mắm của Thụy Vũ nằm trong dòng văn chương "tâm linh", như một "Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp" của Hồ Hữu Tường. Hay một Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, của Nhất Hạnh.
Ở hải ngoại, chúng ta thấy không khí tâm linh này thấp thoáng ở một số tác giả như Miêng, Phạm Hải Anh…

"Hãy nói về Miền Nam", một người bạn học ở chung phòng tại Harvard nói với Quentin. Một tay người Canada tên là Shreve McCannon vốn tò mò về một vùng đất chẳng ai biết (unknown) vượt bên ngoài Ohio. "Nó ra sao", anh ta hỏi. "Người ta làm gì ở đó? Tại sao người ta sống ở đó. Tại sao người ta sống, vậy đó?"
Nỗi băn khoăn về một miền đất quá bên kia dẫy Trường Sơn, có thời được coi là Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân, nhưng bắt đầu trở thành "unknown", không phải với một người Canada, mà là với chính mình, đó là một ám ảnh viết mở ra Khung Rêu, của Thụy Vũ: 

 "Từ hồi nhỏ, tôi phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở Miền Nam. Nguyên nhân chính của sự suy sụp này thì ai cũng biết: chiến tranh… Khi khởi công viết quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong". 

Khung Rêu, tác phẩm được giải nhì văn học toàn quốc (1970) làm độc giả say mê Faulkner nhận ra trang trại nho nhỏ có tên là Sutpen’s Hundred, lọt thỏm trong Thiên Đàng Giả Tưởng: Xứ Yoknapatawpha (The Yoknapatawpha Country) của ông. Khung Rêu, qua tóm tắt của Vương Trùng Dương, trong bài viết Nguyễn Thị Thụy Vũ Giữa Dòng Đời Nghiệt Ngã:

"Bối cảnh câu chuyện xoay quanh gia đình ông Phủ, điền chủ, quan lại, giai đoạn về hưu. Nhìn bên ngoài gia đình giầu sang nhưng bên trong từ ông Phủ đến con cái chẳng ra gì, con trai có đứa thì chơi bời trụy lạc, đứa thì dốt nát, con gái có đứa lăng loàn, đứa thì thất tình hóa điên, đứa thì ái nam ái nữ. Ông Phủ lắm vợ nhưng đầu óc đầy nhục dục, hãm hiếp người làm trong nhà tuổi bằng con cái… tạo ra thảm kịch, băng hoại của gia đình đến thời suy sụp"

Như trên cho thấy, Thụy Vũ đổ cho chiến tranh gây nên sự suy sụp. Nhưng Faulkner nhìn xa hơn, ông cho rằng sự suy tàn của Miền Nam, là do chính những con người của nó. Như Malcolm Cowley chỉ ra: Miền Nam Sâu Thẳm được cai trị bởi những điền chủ, một số là quí tộc như bộ lạc Sartoris, trong khi một số khác, là dân ở đâu mới tới, như Colonel Sutpen. Cả hai đều cùng chung một mục đích: xây dựng một trật tự xã hội lâu dài, trên một vùng đất họ cướp được từ những người thổ dân da đỏ. Đầu óc thẳng băng, sống theo một qui luật nhất định (fixe code), nhưng "sâu thẳm" ở trong họ, là một ám ảnh tội lỗi, ở trong cách sống của họ, ở trong mơ ước tạo lập thiên đường hạ giới của họ (but there was also an inherent guilt in their "design", their way of life); và chính chế độ nô lệ mà họ bắt dân da đen phải chịu đựng, đã gieo vào mảnh đất một lời nguyền, và từ đó, là Cuộc Nội Chiến. Như trong thư của Faulkner viết cho Cowley, đám con cháu của Sutpen đã coi ông như là một thứ rác ruởi, đồ trôi sông lạc chợ (trash, originless), nhưng lại cảm thấy được an ủi, bởi sự kiện: rằng một người như Sutpen, giấc mơ của họ mới cao làm sao, nhưng chỉ đủ sức mạnh, và sự dẻo dai, để thất bại một cách thật là cao cả (the fact that a man like Sutpen ‘could only have dreamed so high but have had the force and strength to have failed so grandly.) Do đó, không phải do tính tình, mà chính là do số mệnh, mà Sutpen trở thành một nhân vật mang tính biểu tượng của Miền Nam. 

Faulkner thường được coi như là một "ông già nhà quê", với độc giả người Mỹ. Và không phải nước Mỹ, mà là thế giới, đặc biệt là nước Pháp, đã "khám phá" ra ông. Nếu trí nhớ không phản lại người viết, khi ông được Nobel văn chương, tờ NY Times, trong một bài báo đã "cảnh cáo" độc giả nước ngoài: đừng nghĩ rằng ở Mỹ, nơi nào cũng có những thảm kịch loạn luân, thù hận da đen, như trong tiểu thuyết của Faulkner mô tả.

Cuộc Nội Chiến, kết quả của nó, là một nước Mỹ hùng cường ngày nay. Liệu một khi người Mỹ nhẩy vào Miền Nam Việt Nam, họ có mơ tưởng một lập lại lịch sử của chính họ, tại một vùng đất "unknown" nơi đầm lầy nhiệt đới Việt Nam? Và họ đã thất bại một cách thật là cao cả?

Trên đây chỉ là một "giả tưởng", của người viết bài này, nhưng trên thực tế, với tác giả Thụy Vũ, nó là một hy vọng thực sự, nếu chúng ta để ý đến hoàn cảnh gia đình của bà, mà như tác giả Vương Trùng Dương, qua bài viết đã dẫn ở trên:

"Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Nhà văn sống giữa lằn ranh Quốc-Cộng trong gia đình. Vì sống giữa lằn ranh đó, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã gánh chịu bao điều ngộ nhận về khuynh hướng chính trị… thân phụ là nhà thơ Mặc Khải, tác giả Phấn Nội Hương Đồng. Mặc Khải nằm vùng, hoạt động cho Cộng Sản…". Nếu Thụy Vũ cho rằng chiến tranh là duyên do của suy sụp, nhưng bởi vì "sống giữa lằn ranh", bà cũng còn tin tưởng, chiến tranh dưới dạng giải phóng, là khởi đầu một hưng thịnh của nó.

Jennifer Tran

Chú thích:

Người viết xin tóm tắt sơ qua, cái nghiệp của một con thằn lằn. Tác giả của nó, Hồ Hữu Tường, theo người viết, cũng là một thứ đạo gia, xuống núi hành hiệp, qua những vai trò: hiệp sĩ, khi chấp nhận triết lý hành động của một Đệ Tứ, nhà văn, khi viết Phi Lạc, thiền sư, trong Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, và sau cùng, một người dân Miền Nam, như tất cả mọi người, sau 1975.

Câu chuyện Con Thằn Lằn mở ra tại một ngôi chùa hẻo lánh, tại một miền đất xa xôi. Bữa đó, có hai người khách lãng du tình cờ ghé qua. Đúng vào ngày cuối cùng, trước khi quyết định lên giàn hỏa tự thiêu của vị sư trụ trì. Nhân câu chuyện lúc cùng khách, vị sư cho biết, ông đã tụng đủ mấy ngàn lần một bộ kinh, và theo như truyền thuyết, sau khi tụng xong lần cuối cùng vào tối nay, ông sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, và sẽ thành… Phật. Hai ông khách, khi về phòng riêng, nói chuyện với nhau, cho rằng nhà sư đã hiểu lầm ý nghĩa của bộ kinh, hơn nữa còn hiểu sai Phật Giáo, vốn cấm con người tự huỷ mình. Không ngờ khi họ nói chuyện, con thằn lằn trong chùa đã nghe được. Đây là một con thằn lằn đã tu nhiều đời, hiểu được tiếng người. Và nó cũng đã tin tưởng như nhà sư, và cũng tính theo ông lên giàn hoả, sau khi nghe ông tụng xong lần cuối bộ kinh. Thế là con thằn lằn cố tìm cách cứu mình, và cứu vị sư. Bằng cách uống dầu đèn, nó làm cho vị sư không làm sao tụng xong lần thứ… chót của bộ kinh, để lên giàn hoả tự thiêu. Vị sư sau cùng khám phá ra, và tiện tay cầm vồ tụng kinh, ông đập chết con thằn lằn, rồi tụng tiếp, và tự thiêu. Hồn cả hai lên gặp Phật. Phật quở vị sư, tu mà còn đủ sân si, lại còn thêm tội sát sinh, bắt trở lại làm người, tu tiếp. Còn con thằn lằn, Phật giải thích, tuy đã ngộ ra được một phần chân lý, nhưng phương tiện "nuốt dầu" như thế là còn có tính "bạo động", ép buộc, và "ngẫu nhiên". Phật cho phép con thằn lằn được tự chọn nghiệp, trước khi đầu thai, và phải "độ" cho được, tất cả con số chúng sinh đầu thai thành người, từ tro than của "nhục thân" một con thằn lằn, tức là kiếp trước của nó. Như người viết còn nhớ, truyện lần đầu chấm dứt ở đây, nhưng sau đó (trên tờ Văn ở Sài Gòn, sau 1954, trước 1975), tác giả viết thêm, cho con thằn lằn đầu thai, làm một nhà văn hóa.

Liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, là một tiếp nối Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp?

Đây là câu chuyện một vị sư trẻ xuống núi hành hiệp, mang theo một cây gươm, và một cái kiếng chiếu yêu. Nhờ kiếng chiếu yêu, chàng dũng sĩ trong chiếc áo thầy tu đã dùng cây kiếm trừ khử được rất nhiều yêu quái đội lốt người… nhưng dần dần, anh ít sử dụng tới kính chiếu yêu, và do đó, cũng ít phải có dịp rút kiếm ra khỏi vỏ, như thể thiên hạ đã hết cả yêu quái… Rồi tới một ngày kia, nhớ thầy, nhớ chùa, anh trở lại. Cửa chùa ngày anh còn, thường luôn luôn mở rộng, sao nay khép lại, trước anh? Buồn rầu, anh ngồi bên con suối xưa, thấy bóng mình trên dòng nước: một con người mệt mỏi, chán chường… Anh tự dưng có ý định soi một lần bóng mình, trên kiếng chiếu yêu… và rụng rời thấy, một con quỉ trên mặt suối giận dữ nhe nanh…

Không hiểu Hồ Hữu Tường đã từng đọc Nhất Hạnh, và tự hỏi như trên: liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài là một tiếp nối Con Thằn Lằn, và vị dũng sĩ thiền sư đã thất bại, như chính ông đã từng thất bại… ?

Và Nhất Hạnh, đã có lần nào đọc (lại) Cửa Tùng?

JT 





Thứ Năm, ngày 08 tháng 5 năm 2014

Nguyễn Thị Thụy Vũ - "Qua trận gió kinh thiên"

Được cô Nguyễn Tà Cúc gửi cho bài phỏng vấn vừa mới thực hiện với nhà văn NGUYỄN THỊ THỤY VŨ - một tác giả nữ bắt đầu xuất hiện trên văn đàn miền Nam từ những năm 60s trên BÁCH KHOA- cùng thời với một TÚY HỒNG điên "cơn điên tím" rất Huế, một Nguyễn Thị Hoàng chói chang (& rạo rực?!?) nắng hạ của "vòng tay học trò", một NHÃ CA nói chuyện Huế Mậu Thân và "đời sống ôi buồn như cỏ khô"...Nguyễn Thị Thụy Vũ hiện ra với một hình ảnh trần trụi khác, đời sống của một tầng lớp khá đặc biệt trong xã hội miền Nam thời đó - đời sống của gái bán bar - nơi đó không có những chất vấn siêu hình, những suy tư thời cuộc, thân phận... như đã từng bắt gặp đâu đó trong những truyện ngắn, dài của các tác giả nữ cùng thời...mà chỉ là một trần trụi của đời sống & một cách thế sống riêng tây của một "tầng lớp" như thế, nhưng rốt ráo, họ vẫn là những con người, niềm riêng đầy đau đớn, sần sùi lại bị quăng quật vào một phông nền phi lý của chiến tranh - mặc dù trong nhiều truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà chỉ như viết ra những diễn biến thấy ngay trước mắt - nhưng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ về những cái thỏa hiệp (phải có) với đời sống, cái nồng tanh của đời sống thay vì chỉ là những phong hoa tuyết nguyệt, những vuốt ve mơn man... Cách viết ấy, nếu có thể tượng hình, có thể đó là cái đau điếng quật xuống của làn roi, phô bày hết những nhức nhối.
Tuy nhiên, sau cái sự trần trụi ấy (trần trụi của cuộc sống gái bán bar, lấy Tây hay những mảnh đời đặc biệt, nhiều "ẩn ức" khác) - trần trụi từ ngôn ngữ của các nhân vật..cho đến ngôn ngữ xây dựng câu chuyện của tác giả - là một khát khao sống...sống ngay cả trong đống bùn của đời sống mang đến, của thân phận, sống trong những chông chênh của cuộc nội chiến,  (mặc dù nhiều khi là) giành giựt nhau sống, tranh chấp nhau sống....Vượt thoát & sống! Sự phóng túng và nuông chiều chính bản thân trong những khát khao tầm thường, bản năng... buộc mình trôi theo dòng ... làm rúng độc độc giả của miền Nam một thời là như thế...

 

Trong bài PV có nhắc đến truyện MUỖNG NƯỚC MẮM (cũng xuất hiện trong tuyển tập NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA 1974 với tên là LÒNG TRẦN) , một sự kiện về VŨ HẠNH, tôi cũng xin cung cấp tài liệu đó trên blog này

{VIÊN LINH gọi Vũ Hạnh là "Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà" trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích] : Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và "thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn." Ở đoạn khác ông ta viết: "Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc."Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ "thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái" [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác”}


-------------------------------------
Lời Người Phỏng Vấn:
Trong mấy nhà văn nữ của Miền Nam trước 1975, người viết muốn đặc biệt phỏng vấn nhà văn Thụy Vũ. Bà tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937, quê ở Vĩnh Long. Bà dạy tiểu học 5 năm trước khi lên Sài Gòn vào năm 1961.
Lên Sài gòn, bà vừa đi học Anh văn vừa đi dạy Anh văn cho các cô bán"snack bar" hay các cô điếm cho lính Mỹ. Bà đoạt giải nhì Bộ Môn Văn - Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn quốc năm 1970 (Người đoạt giải nhất là nhà văn Túy Hồng). Song song với việc sáng tác, bà còn lập nhà xuất bản Hồng Đức và Kẻ Sĩ với nhà thơ Tô Thùy Yên.
Sau 1975, tác phẩm của bà bị cấm toàn diện. Bà đem các con về Lộc Ninh làm rẫy, có lúc làm lơ xe đò để lo cho gia đình. Người viết muốn phỏng vấn bà về hai vấn đề chính: thứ nhất, trường hợp một nhà văn nữ không sợ tai tiếng và thành kiến xã hội, đã giao du với đám phụ nữ cùng khốn nhất của xã hội và thứ hai, thái độ can đảm của bà sau 1975 trước sự đe nẹt công khai của các tay quản giáo văn nghệ. Qua sự dàn xếp của nhà văn Văn Quang người phỏng vấn đã có một cơ hội để tìm biết câu trả lời cho hai thắc mắc ấy.
* Qua Trận Gió Kinh Thiên là nhan đề một tác phẩm của Thụy Vũ.


 






NGUYỄN TÀ CÚC: Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?

NHÀ VĂN THỤY VŨ: Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp (lớp 2)Hội Việt Mỹ. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ đòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.

Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.

Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? "Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách..." Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là "ma cô."

Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. "Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?" - "Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghẹn." Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?

Công - bạn tôi nhanh nhẩu nói: "Bạn dạy i - tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi."

Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng "bồi" lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.

Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.


     Khởi HànhChủ nhiệm, Chủ bút: Viên Linh,Thư ký toà soạn: Nguyễn Tà Cúc
Mua dài hạn: Hoa Kỳ: 50mk, Canada: 65mk,
Âu Á Úc: 90mk một năm;
 Mail, check, money order: NAM NGUYEN,
P.O.BOX 670, Midway City, CA 92655
email: phamcongkh@yahoo.com
NGUYỄN TÀ CÚC: Chị viết rất thật, hết sức thật. Một ưu điểm của văn chương Thụy Vũ là người đọc có thể cảm nhận ngay rằng tác giả đã dựa sự sáng tạo trên những hoàn cảnh thật, nhân vật thật và sử dụng những kinh nghiệm của nhân vật thật ấy để bày họ ra trên những trang giấy, dĩ nhiên là của sự tưởng tượng; nhưng những hình dáng đó, những tâm cảnh đó không là sản phẩm của một sự tưởng tượng quá nghèo nàn đến nỗi tố cáo sự bịa đặt của tác giả. Viết truyện về gái điếm tưởng là dễ nhưng mà rất khó! Tà Cúc từng đọc một cuốn truyện tả tình cảnh của vài cô bán bar rồi làm điếm cho lính Mỹ --cùng đề tài nhân vật với chị-- nhưng chỉ cần đọc những câu đối thoại là người ta biết ngay tác giả của nó chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với các cô làm điểm nên mới "sáng tác" ra những câu đối thoại hay cách suy nghĩ của cái kiểu "Nếu một tiểu thư đi làm gái điếm." Và dĩ nhiên cái kiểu giả tạo đó không tốt đẹp gì cho cả cô tiểu thư lẫn cô làm gái điếm.

THỤY VŨ: Tác phẩm cửa tôi có thể nói là đến 70 phần trăm dựa trên sự thực. Nó thực đến nỗ i một hôm, hồi tôi ở sau đình Phú Thạnh, sau khi cuốn Lao Vào Lửa xuất bản thì có một anh lính mặc đồ rằn ri coi ghê lắm nghe giới thiệu mới chạy tới ôm tôi và hỏi "Phải cô là gái điếm không?"

Tôi đẩy anh ta ra và la lên: "Tôi chỉ viết truyện chớ tôi làm gái điếm hồi nào?!
Anh ta mới nói tôi viết y như thiệt vậy. Nói thiệt chớ hồi đó họ cũng không biết tôi viết về họ đâu nghe. Nếu họ biết chắc họ rầy chết. Có khi tôi vừa ra bài cho họ thì trong khi họ làm bài, tôi ngồi viết về họ. Nhiều lần họ nói với tôi sẽ làm mai cho tôi một anh chàng Mỹ đàng hoàng chớ không phải đám GI như mấy cổ nhưng tôi từ chối. Tôi có thể nói là tôi đã đi tới hầu hết mấy ổ điểm sang nhứt ở Sài gòn. Nơi nào có học trò là nơi đó tôi tới.

NGUYỄN TÀ CÚC:: Cảm tưởng nào mạnh mẽ nhất mà chị Thụy Vũ còn giữ được sau mấy chục năm dạy họ? Chị có nghĩ về số phận đàn bà nói chung khi dạy họ hhông?

THỤY VŨ: Mấy chục năm đã qua, chị hỏi về cảm tưởng mạnh mẽ nhất, có lẽ tôi không thể nhớ nổi rõ ràng. Nhưng dường như những hình ảnh của những cô gái bán bar đó còn vương vấn trong tôi. Nỗi đau âm thầm của họ giấu kín sau những son phấn lòe loẹt và những tiếng cười, những câu chuyện hoang toàng, tôi tưởng như chính những thứ đó đang phá nát tâm hồn họ, đang như cái xe đang lao dốc. Tôi thầm thương họ, thông cảm với họ và cũng chẳng biết làm sao hơn.

Mỗi người một hoàn cảnh, cái điểm chung chính là nỗi nghèo khổ đã dồn họ vào con đường cùng. Cũng như bây giờ, rất nhiều cô gái quê ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cô gái được gia đình đưa lên Thành phố Sài Gòn để "tuyển vợ" cho mấy chú Đài Loan, Đại Hàn hoặc đi Singapore làm đủ nghề kiếm sống.

Tàn nhẫn hơn, ở những vùng sát biên giới Trung Quốc, chẳng thiếu gì chuyện những cô gái quê nghèo đó tự nguyện hoặc bị lừa bán sang Trung Quốc lưu lạc vào những ổ điếm, lấy những ông chồng già bệnh hoạn, làm việc như nô lệ... Phải chăng đó là thân phận hay số phận của phụ nữ nghèo Việt Nam? Tôi tự hỏi như thế và biết đến bao giờ xã hội mới có được một đời sống công bằng cho phụ nữ VN nói chung?

NGUYỄN TÀ CÚC: Cũng lạ là hồi đó những năm 60 mà chị dám sống như vậy, dám đi cùng, nô khắp h~lách sạn như vậy. Chị ở với ai, không sợ ba má la sao? Tà Cúc nhớ là ngay chính gia đình Tà Cúc đây, tối tối là đóng sập cửa lại, báo hại cứ trốn nhà đi chơi. Mà tóc thì không được uốn, không được son phấn nhiều...

THỤY VŨ: Có chớ. Bà má tôi cứ sợ tôi hư nhưng tôi nói tôi viết về gái điếm chớ có làm điếm đâu. Hồi tôi mới lên Sài gòn thì tôi ở chung với Hồ Trường An, em tôi. Nó thua tôi một tuổi, bằng tuổi Viên Linh đó. Tôi viết mấy truyện bị ông già la quá vì lấy cảm hứng từ nhân vật trong gia đình ra mà viết đó chớ.

NGUYỄN TÀ CÚC: Nói về chuyện người thật, việc thật, Tà Cúc nhớ lại là hồi đọc truyện ngắn "Lòng Trần" (tức là truyện "Muỗng nước mắm") của chị, Tà Cúc thích quá và tự nhủ là nếu mai sau dù có bao giờ mà gặp tác giả thì sẽ hỏi coi là tại sao mà bà ấy biết được cái thèm "nước mắm" của một người ăn chay. Nhân vật chính trong truyện bà cô Năm Thàng. Anh Hồ Trường An tóm tắt cốt truyện như sau:

"Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế. Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm.

Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo quấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng...

Tà Cúc muốn hỏi chị là chị có ăn chay hay không mà sao tả cái thèm nước mắm này hay quá. Vì thiệt tình, có khi người ta thèm nước mắm thôi chứ không thèm thịt cá gì hết.

THỤY VŨ: À, chuyện này bắt nguồn từ cuộc đời cô ruột của tôi do ba tôi kể lại. Dĩ nhiên là 30 phần trăm còn lại thì là hư cấu. Phần tôi, hồi đó tôi không có ăn chay. Mới ăn chay có bốn năm nay thôi, Tà Cúc à.

NGUYỄN TÀ CÚC: Nói về cuộc đời, về cuộc đời thiệt và cuộc đời trên sân khấu hát bội, Tà Cúc lại nhớ chuyện sau 1975.
Anh Hồ Trường An có thuật lại như sau:
- "Gần ngày mãn khóa, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến bị hai nhà văn Cộng sản là Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Sáng và các ông cán bộ cục R là Sáu Lăng, Hai Khuynh, Phan Đắc Lập cùng các nhà văn nằm vùng như Vũ Hạnh, Thế Nguyên mời lên văn phòng...

Cả ba Long, Vũ, Tiến bị chỉ định làm bài tự phê tự kiểm... Thụy Vũ bước lên "giàn hỏa" trước hết. Nhưng để trả lời câu hạch tội của Bùi Đức Ái trong văn phòng, chị tôi nói:
"Anh Bùi Đức Ái đã hỏi tôi động lực nào đẩy tôi viết văn đồi trụy, dù tôi viết về gái điếm có khuynh hướng tốt. Tôi xin thưa, không ai bắt buộc tôi cả." [...] Thụy Vũ điềm nhiên, sắc mặt nguội như tảng bánh đúc: "Thưa toàn toàn không. Tôi tự do sáng tác. Sở dĩ tôi viết khiêu dâm táo bạo là vì mãi tới 28 tuổi, tôi muộn chồng, xấu xí và không được anh chàng nào ngó ngàng tới và tôi bị ẩn ức sinh lý"[...]

"... Trong buổi học sau, tôi dọn chỗ để ngồi gần hai ông anh tiểu thuyết gia hiền lành của tôi là Trọng Nguyên và Thanh Thủy. Họ cùng ngồi một dãy với chị Vinh, anh Nhật Tiến và chị Đỗ Phương Khanh. Họ xếp tôi ngồi gần chị Đỗ. Tôi cứ ngủ gục hoài làm anh Trọng Nguyên cứ gọi từng chập" "- Mày cứ ngủ hoài, họ để ý mày đó."


   Nhà văn Đỗ Phương Khanh
Vào cái hôm một nhà văn nữ làm màn tự phê tự kiểm, thấy đương sự vật vã van xin cộng sản cho mình cầm bút trở lại, chị Đỗ Phương Khanh(1) đứng dậy dõng dặc: "- Cô muốn xin viết lại thì nên xin cho riêng cô, đừng xin cho chúng tôi làm gì."

Cũng trong buổi hôm đó, có tên cán bộ cộng sản tên Mai Quốc Liên(2), dù là kẻ dự thính, nhưng hắn đã khinh miệt bảo phe cầm bút loại trên: "- Xin các anh chị đừng tiếc rẻ cái văn nghệ miền Nam nữa. Đó là thứ văn nghệ chợ trời, hiện đem bán sold chẳng ai mua."

Lập tức, chị Đỗ Phương Khanh đứng lên: "- Anh Liên! Anh nhân danh ai mà nói câu ấy? [...] Chị vừa thét vừa khóc nức nở, làm cơn buồn ngủ tôi tan biến đâu mất..." (Hồ Trường An, Giai thoại hồng - Hồi ký văn nghệ, trang 302, 324-325)

Đó là Thụy Vũ trong "Khoá bồi dưỡng chính trị" cho văn nghệ sĩ Miền Nam trong mùa hè năm 1976 tại Sài Gòn. Đó là lúc Miền Bắc gửi ngay nhiều cán bộ cao cấp vào Nam để mở màn công cuộc thanh trừng và "cải tạo" văn nghệ sĩ Miền Nam. Nhà văn Nhật Tiến cũng xác nhận thái độ đàn áp thô bạo gần như man rợ của đám người cũng mệnh danh cầm bút này qua một đoạn tường thuật về Khóa bồi dưỡng đó:

- "Mai Quốc Liên tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng 'miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!' Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Hòa Bình, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi.

Đỗ Phương Khanh đã đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:
'Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa...'

Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đã vội vã tuyên bố nghỉ giải lao vì bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.

Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đã tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. Còn tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói: 'Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học'. (Nhà văn Vũ Hạnh hiện còn sinh sống ở Sài Gòn)..." (Nhật Tiến, "Cuối cùng thì ông Mai Quốc Liên đã công nhận miền Nam có văn hóa")

Phản ứng của (các) chị (và các anh) lúc ấy thực là can đảm. Phản ứng đó cho thấy cái tương lai là họ sẽ không bao giờ đàn áp được văn nghệ sĩ Miền Nam như họ đã làm tại Miền Bắc, thí dụ như họ đã làm với nhóm Nhân Văn - Giai phẩm.

THỤY VŨ: Khi tôi trả lời rằng tôi vì khủng hoảng sinh lý nên viết văn "đồi trụy" để trả lời cho họ việc họ kết án tôi là tôi viết văn "đồi trụy" rồi đi xuống thì chị Nguyễn Thị Vinh ôm tôi khóc:"Ôi em không biết gì về Cộng sản hết!" Nhưng sao tôi không sợ. Trước đó, họ biểu tôi nghĩ sao thì cứ nói, nhưng nói trong phạm vi ở đây chứ ra ngoài mà nói thì họ "không bảo đảm an ninh"cho tôi được. Tôi mới hỏi lại là "Mấy anh có bảo đảm được không? Còn tôi thì tôi sẽ không nói dối." Sau khi phát biểu phần tôi thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng bầy tỏ là ông rất thích cái cách của "dân Nam Kỳ nghĩ sao nói vậy."

NGUYỄN TÀ CÚC: Có lẽ chị không sợ dù trong tình cảnh "đằng đằng sát khí" ấy vì họ đã xúc phạm đến tác phẩm -tức là linh hồn là cốt tủy của con người chị. Họ có thể làm người ta sợ khi họ hăm dọa phần thể xác nhưng khi xúc phạm tới cốt tủy của một con người, ở đây là tác phẩm của một nhà văn thì nhà văn đó sẵn sàng chết cho cái cốt tủy ấy sống.

Cho nên, phải nói Tà Cúc rất tiếc khi phải chứng kiến cảnh một nhà văn cũng có tiếng của Miền Nam mà bao lâu nay lại quyết định im lặng trước sự xấc xược của những "anh gù tại nhà thờ Đức Bà" (3) tới tác phẩm của mình. Nếu mà tới thời buổi này, đám dân ngu khu đen vẫn còn phải chạy đôn chạy đáo lên tiếng bênh vực cho các anh nhà văn - mà lẽ ra phải là ngược lại - thì không có gì đáng để các anh nhà văn đó tự hãnh diện hay đáng được người khác vinh danh ca ngợi cả (4). Chính phủ Việt Nam có cho xuất bản tác phẩm nào của chị chưa?

THỤY VŨ: Chưa. Cách đây không lâu, họ có xin tôi truyện ngắn "Muỗng nước mắm" mà Tà Cúc nhắc đó để in trong một tạp chí nhưng tôi không cho họ đăng. Sách của tôi còn bị cấm toàn diện.

NGUYỄN TÀ CÚC: Sau cùng, nếu chị được làm lại từ đầu, chị có chọn làm nhà văn không?

THỤY VŨ: Không, giữa làm nhà văn và được là một người vợ hạnh phúc thì tôi chọn hạnh phúc.

NGUYỄN TÀ CÚC: Tác giả Thụy Vũ có thể không muốn làm nhà văn nhưng độc giả Nguyễn Tà Cúc lại muốn chị cứ là nhà văn để được đọc những tác phẩm hoặc là nghệ thuật hoặc là phản ảnh một phần xã hội Miền Nam bấy giờ. Cảm ơn chị đã nói chuyện với Tà Cúc và cảm ơn anh Văn Quang đã dàn xếp cho hai chị em có dịp hàn huyên.

Sài Gòn - California, ngày 19.3.2014


Nguyễn Tà Cúc

(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)

Chú thích:

(1) ĐỖ PHƯƠNG KHANH (bà Nhật Tiến) sinh tại Nam Định, xuất hiện lần đầu với truyện ngắn Đi Mua Giầy trên Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, bà qua cộng tác với tạp chí Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh với nhiều truyện ngắn khác, sau xuất bản thành tập truyện Hương Thu do Đông Phương ấn hành. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, bà về làm quản lý cơ sở ấn loát Hồng Lam ở Sài Gòn do Linh Mục Cao Văn Luận làm Giám Đốc.

Đầu thập niên 70, bà giữ vai trò quản lý trị sự cho tuần báo Thiếu Nhi đồng thời phụ trách trang Vườn Hồng và sinh hoạt với Gia Đình Thiếu Nhi là một tập hợp độc giả của tuần báo này cho tới năm 1975. Cũng trong thời gian này, Đỗ Phương Khanh phụ trách trang nhi đồng cho nhật báo Hòa Bình với bút hiệu Mai Loan và là người phụ trách trang Phụ Nữ của nhật báo Dân Chủ cho tới năm 1975. Bà cũng là giám đốc vườn trẻ Anh Vũ, một cơ sở mẫu giáo chuyên dạy trẻ em theo phương pháp Montessori từ năm 1973 tới 1975. Tại Hoa Kỳ, bà dịch những tài liệu về Bảo Vệ Loài Vật và những câu chuyện của J. Krishnamurti với những bút hiệu Danny Việt, Vy Khanh ..., đồng thời biên soạn "Chương trình tìm hiểu Phật pháp Tuệ Đăng" phát thanh hằng tuần trên Little Saigon Radio và Hồn Việt TV với bút hiệu Liên Hương. Bà hiện cư ngụ tại Nam California.
(http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/trang-chinh/)

(2) Mai Quốc Liên nguyên quán tại Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam, là giám đốc Trung tâm Quốc học, giáo sư đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh v.v. Ông cũng là người viết tựa và đỡ đầu cho bộ Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác - một người từng có mặt trong buổi họp đó, sau vượt biển sang Hoa Kỳ làm chủ nhiệm chủ bút báo Văn Học. Khi bộ truyện này được nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998 tại Sài gòn. Thật không đáng tiếc: một người bị mắng như thế mà không có phản ứng thì sự quay về nhờ vả kẻ mắng mình cũng không có gì là lạ.

(3) Chữ của Viên Linh chỉ Vũ Hạnh trong bài viết "Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà" đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sáchcủa Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và "thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn." Ở đoạn khác ông ta viết: "Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc."Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ "thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái" [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác. Ít nhất ông ta cũng che mắt được hai ông Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền, chủ tịch và TTK hội Bút Việt, để cứu ông ta ra khỏi tù, rồi còn dùng tờ báo của hội để hoạt động cho cộng sản trong nhiều năm.

(4) Lạ lùng hơn nữa là cái thái độ im lặng khả nghi ấy kèm thêm cái sự thực là mấy tác giả được cho in lại nhiều tác phẩm sau 1975 thì được tung hô vạn tuế ầm ầm trong khi sự can đảm của những phụ nữ như Thụy Vũ, như Đỗ Phương Khanh v.v... trong lúc đổi đời với loại tòa án nhân dân với những kẻ vô văn hóa như Mai Quốc Liên thì hầu như không nói tới. Điều phi lý ở đây là, nếu một tác giả Miền Nam cho phép các nhà xuất bản của chính phủ tái bản tác phẩm trước 1975 để vừa có danh vừa có tiền tác quyền, như trường hợp nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì khi bị tấn công, anh (hay chị) phải chịu trách nhiệm, chứ không thể ngồi chờ người khác lên tiếng cho mình trong khi các "người khác" vẫn bị cấm xuất bản hay tái bản. Dĩ nhiên, không ai có thể phán xét ai (người viết không có lời bàn nào về sự im lặng của Dương Nghiễm Mậu tại đây, trong bài phỏng vấn này) nhưng nói chung, đời nào lại có chuyện dễ dàng mà oái oăm như thế: anh vừa được nhà nước -- cái nguồn đàn áp dân ngu khu đen và đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 -- cho phép tái-xuất bản rồi anh lại mong hay đợi cái đám nạn nhân bị đàn áp -- đám dân ngu khu đen và nhất là đám đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 vẫn còn bị cấm tái bản hay xuất bản -- phí giấy và phí chữ bênh vực cho anh khi anh bị quản giáo văn nghệ tấn công?!

• Oái oăm hơn nữa là nếu cứ im lặng đi thì cũng là một nhẽ, đằng này lại có kẻ viết bài cả gan gán cho sự im lặng đó những danh hiệu cao quý do anh ta đoán ra để choàng những vòng hoa hâm mộ lẽ ra chỉ dành cho người tuẫn tiết vì đã dám lên tiếng! Sự thực là nếu ai cũng im lặng hết thì người Miền Nam lấy gì để chứng minh là họ đã không đầu hàng, không quy xuống? Và tiếp tục không quy xuống dù đã phải tiếp tục trả cái giá rất đắt cho đời văn của họ cho tới nay? Như Thụy Vũ? Và như bao nhiêu tác giả khác nữa?

• Chú thích thêm của Thày Cò Ca Hát:

1. Cách đây 7, 8 năm, một văn hữu từ V.N. hỏi chúng tôi có phải tờ Khởi Hành trước 75 từng bị tịch thu vì đã đăng bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Duy sau đó phổ nhạc không? (Bài thơ đó có những. câu như "anh trở về dang dở đời em"). Không hề có chuyện đó và Khởi Hành không bao giờ bị tịch thu vì bất cứ nguyên do gì. Tôi có hỏi: Tại sao giờ này các anh muốn rêu rao là hồi VNCH thơ văn các anh bị tịch thu, để làm gì? Có phải các anh muốn đánh tiếng cho chế độ hiện hành tin rằng hồi xưa sáng tác của các anh bị tịch thu, vì các anh chống VNCH đấy chứ? Các anh cần đến nỗi phải bịa ra chuyện không có là Khởi Hành bị tịch thu vì đăng thơ anh.

2. Chuyện tương tự mới xảy ra một hai tháng nay: một nhà văn ở miền gió cát mới viết một bài bênh vực bạn mình, rằng bạn mình từng viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh hồi đầu năm 75 rằng "nhất quyết ở lại, không chạy theo Mỹ, vì không làm chó săn cho chủ." Giờ này (2014)anh rêu rao là hồi 1975 anh đã tuyên bố không di tản là nhằm ý gì? Để chứng tỏ với chế độ hiện hành là anh có công, anh từng có lòng "ở lại với cách mạng" từ 1975 chăng? Anh cứ yên tâm, lòng anh ra sao người ta đều biết cả.