*





















 
 

*

Con chim giận dữ

Một con kên kên đợp chân tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1 phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1 dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.

Kafka: The Vulture (1)


Le poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

« Franz Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ... ]. Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal ou Soren Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au cours desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens kafkaien de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa mort, écrivit John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka incarne un aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment d'anxiété et de haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. » Le sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la modernité ...
Si vous êtes, comme K. dans Le Chateau, un « imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage au monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de honte et même de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car il s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il était vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre dans l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est l'embarras qui a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou bien ... ou bien?

Steiner viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng hồ, có thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của mình với cái tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con đẻ cái, ăn ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được John Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho “Toàn Tập Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân 1 sắc thái của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng, của cái gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao xuyến, và thù hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó dịu đi được”.
Tình cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại tính!

Tuyệt!

Nếu bạn, như K. trong Lâu Đài, một tên "bợm" giả làm 1 người khác, giấu mặt bạn, trước mọi người, đằng sau cái mặt nạ, bạn có thể cảm nhận ra được cái tình cảm tủi hổ, và luôn cả, phạm tội... K. là bậc thầy trong cái trò đánh lừa mình, mù lòa về mình, nhưng Kafka, không. Chính là trong cái bực bội như thế, ông bèn lôi Ou bien... ou bien ra đọc lại.
*

Saul Friedlander
[Kafka]:
Le poète de la honte et de la culpabilité

Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

Kafka n'était pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait des métaphores et des associations inattendues, il racontait des histoires, il était poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles soient directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur, mais ces allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas une foi religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.

Kafka không phải là người xây dựng lý thuyết hay hệ thống: ông đi theo những giấc mộng, tạo ẩn dụ, kết hợp bất ngờ, kể chuyện, là nhà thơ. Cách viết của ông - thường viện tới những ám dụ tôn giáo (trực tiếp hoặc gián tiếp, Ky tô hay Do thái) – có thể gây lầm lẫn, nhưng những ám dụ này thường được trộn với tếu táo, hài hước, và không hàm ngụ một niềm tin tôn giáo. Tự bản chất, yếu tính, Kafka là 1 nhà thơ của chính sự xáo trộn của mình.

Suốt đời, Kaka chống lại những phiều nhiễu, xáo trộn, troubles, chúng xâm nhập cuộc sống thường nhật của ông, và hơn thế nữa, sự tưởng tượng của ông. Những vấn đề này, những khó khăn này, đưa tới một sự tra hỏi, đúng hơn, biến thành một ám ảnh, mà Nhật Ký, thư từ trao đổi, (và, gián tiếp, những giả tưởng) cho thấy. Thí dụ, entry đề ngày 18 Tháng Chạp 1922, Kafka, biết rất rõ về tình trạng sức khoẻ của mình, trở nên tệ quá nhanh, viết: Nghỉ ngơi thôi. Hôm qua Hoặc làhoặc là [“Resté couché. Hier Ou bien… ou bien] Cái entry này gây phiền, trên rất nhiều mặt.
Trong Ou bien… ou bien, Kierkegaard toan tính nghiên cứu hai cách sống khác nhau, của chính cuộc đời của ông, một, mĩ học; một, đạo đức. Theo thư gửi bạn, Max Brod, đề ngày 20 Tháng Giêng 1918, Kafka bắt đầu đọc tiểu luận của Kierkegaard, nói trên, vào thời kỳ này. Ông không khoái tập đầu (cuộc đời mĩ học), trong có Nhật Ký Của Kẻ Quyến Rũ, “Journal d’un séducteur”, và vào giữa tháng Ba, 1918, ông viết cho Max Brod: Tôi quá tởm nó (Je ne peux toujours pas lire le premier volume de Ou bien.. ou bien sans répugnance). Tuy nhiên, đúng năm năm sau, trong khi sức khỏe càng thêm tồi tệ, Kafka lại lôi Ou bien… ou bien ra đọc lại.  Không biết phản ứng của ông ra sao, lần đọc lại này, tuy nhiên, chúng ta không thể không tự hỏi, liệu cái nhìn nước đôi của Kierkegaard ảnh hưởng, về mặt đạo đức, đối với Kafka, một vấn đề ông không làm sao giải quyết, trong suốt cuộc đời dòng dã?

Steiner viết, Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du péché originel… Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une petite poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l’état d’être déchus]

Thì cũng như….  GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác Bắc Kít! Đây là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!