*




Thanh Tâm Tuyền

Tiếng nói một người

 

Thanh Tâm Tuyền viết thơ và văn xuôi, hai thứ ấy làm nên con người văn chương và thế giá về con đường nghệ thuật của ông. Thỉnh thoảng, trong các chuyên đề hỏi đáp nhiều người ở tạp chí Sáng Tạo, ông cũng có nói về những vấn đề chung của thơ, của tiểu thuyết, của hội hoạ, và các lĩnh vực nghệ thuật khác. Tuy vậy, nhưng ông lại rất ít khi viết về tác phẩm cụ thể của người khác, ngay cả trong lĩnh vực mà ông có nhiều quan tâm nhất: Thơ. Chính vì thế, bài viết về Trần Lê Nguyễn dưới đây là một trường hợp rất đặc biệt.

talawas

1.

 

Sự thật không bao giờ là sự thật khách quan. Nhớ lấy những kinh nghiệm thường ngày: cùng một điều việc kẻ này nói, làm được, kẻ khác là thấy chói tai chướng mắt. Chỉ có sự giả trá hư ngụy mới đội lốt khách quan, sự thật xuất hiện từ con người và xác minh làm kẻ khác chấp nhận là của người đã dám phát hiện ra nó. Và trong sự mong manh yếu hèn của kiếp người, nhiều kẻ đã phải mang tự do tối hậu duy nhất của một đời là cái chết để bảo đảm cho sự thật của đời mình được thành sự thật với những người khác.

 

Thơ là tiếng thổn thức của con tim, đó là một sự thật tôi tìm thấy lại qua Trần Lê Nguyễn. Suốt tập thơ, Nguyễn chỉ nói về mình, nói rất nhiều về mình, nói quá nhiều về mình bằng thứ ngôn ngữ xô bồ, đôi lúc rối loạn, lảm nhảm, buồn cười. Và con tim Nguyễn phơi bày nguyên hình dáng, một khối thịt bầy nhầy bóp vào nở ra bất tận. Đó là hình ảnh của đời sống.

 

Tiếng nói một người hay tiếng nói một đời, một kiếp?

 

 

2.

 

Trước hết thơ là một nỗ lực tinh khiết hoá thực tại. Các nhà thơ cổ điển đã làm công việc này. Bọn lãng mạn lầm tinh khiết hoá thực tại với ruồng bỏ thực tại, dùng nước mắt, tiếng rên la, sự xúc cảm nhầy nhụa làm vẩn đục thực tại, rồi trốn chạy vào ảo tưởng. Thơ ngày nay cũng là một nỗ lực tinh khiết hoá thực tại từ khởi điểm làm hiện hình nó, cái hình dáng thô sơ đã bị bọn lãng mạn mài nhẵn bằng nước mắt nước mũi.

 

Thơ Nguyễn là cái ánh sáng lộ liễu khô khan chiếu vào thực tại, sự vật nổi lên còn đủ những góc cạnh sần sùi.

 

 

Mỗi lần tôi mượn tiền bạn bè là mấy thằng chó chết chưa hề có con cười hô hố bảo là tôi lại sắp phịa chuyện đến nhà thương thăm con mới đẻ.

 

 

Nếu anh hiểu được rằng người ta vẫn có thể mộng tỉnh thức chẳng cần phải tìm tới giấc ngủ hôn mê, anh sẽ nhận ra Nguyễn đang làm thơ.

 

 

Đêm cưới em, anh sẽ không ghé câu lạc bộ mà vào Snack Bar uống rượu thật say (dĩ nhiên bằng tiền đánh bạc chứ không phải tiền viết văn) rồi không ghé đăng-xinh (dù biết rằng sắp bị đóng cửa) mà đi ngược về đường Duy Tân (một nhà vua cách mạng) hay dọc theo đại lộ Hai Bà Trưng (hai nữ anh hùng dân tộc) tìm gặp một “me” lính Pháp ra đi còn để lại.

 

Để suy ngẫm về cõi đời

và mừng em lấy chồng Mỹ

 

 

Cái thế giới của Nguyễn là thực tế hằng ngày chúng ta đang sống, quay cuồng, hỗn độn, đầy khát vọng. Tại sao cứ đòi hư vô để mơ mộng? Hãy thử mơ mộng như Nguyễn xem sẽ thấy sự kỳ lạ của thế giới ấy.

 

Và thơ là gì? Nếu không phải là sự khám phá mầu nhiệm bằng ngôn ngữ một thế giới vẫn trốn mặt ở quanh. Sự phơi mở ở thơ cho anh cảm giác tràn đầy hạnh phúc, tâm hồn đã nhập được một phần của sự sống bí ẩn còn thiếu sót. Những phút xâu dài như một đời.

 

 

3.

 

Tiếng nói một người là tiếng nói của tình yêu, tình bằng hữu. Trong cô đơn và đêm tối.

 

 

4.

 

Người sắp nói là một người bốn mươi tuổi. Người ta thường làm thơ vào những năm hai mươi. Vào tuổi ấy Nguyễn chỉ còn muốn viết tiểu thuyết, viết kịch. Hắn chỉ thấy cần làm thơ trong vài năm gần đây.

 

Việc làm thơ của Nguyễn chứng nhận lời tiên tri của Lautréamont: Thơ không phải để một người làm mà để mọi người làm. Thơ là sự giải phóng, sự tự do, là quyền của mọi người, không bao giờ là đặc quyền của một bọn thi sĩ đầu bù tóc rối trí tưởng tượng như con gián bay quanh đèn, sự cảm xúc như tiếng động của thùng thiếc.

 

 

5.

 

Thơ Nguyễn kể lể ồn ào nhưng vẫn nghe đâu sự nín lặng trong cùng.

 

Hạt nhân nín lặng, khép kín làm mỗi bài thơ tự đầy đủ, phân biệt thơ Nguyễn với thơ Prévert. Hai bên chỉ giống nhau ở điểm tưởng tượng, mơ mộng cùng thực tại. Còn Prévert đòi hỏi những đối tượng ở ngoài để phóng tới.

 

 

6.

 

Một người sống đến bốn mươi tuổi không làm thơ để mong thành thi sĩ. Thi sĩ! Thi sĩ! Thằng người đó đã tự sát. Tên của chàng bị cướp bị bôi nhọ. Ngày nay còn toàn một bọn nhái giọng người chết. Mấy tên thư lại luồn cúi nịnh hót cũng là thi sĩ. Mấy tên cán bộ làm thơ như những bản thỉnh nguyện xin tha mạng sống, xin thêm quyền lợi. Mấy tên thanh niên hiến thân làm tấm gối ôm trong khuê phòng.

 

Nếu anh đọc thơ Nguyễn, anh nghĩ Nguyễn không phải là thi sĩ, anh nghĩ đúng. Nhưng coi chừng, anh đã bị đầu độc bởi bọn giả danh. Tôi nhắc lại: Thi sĩ đã tự sát. Và anh cũng như Nguyễn cũng như tôi được thừa hưởng cái gia sản của chàng cùng với mọi người, trừ bọn tự nhận là con cháu chàng. Chúng ta phải cướp lại tiếng nói sắp muốn tắt; mỗi người đều được quyền làm thơ như Nguyễn, như làm một hành động giải phóng. Đừng để bọn người nào độc chiếm thơ làm phương tiện áp bức.

 

Một ngày thi sĩ sẽ hồi sinh. Chưa phải bây giờ. Nhưng hãy thổi những hơi thở mới vào mũi chàng, đuổi bớt những uế khí, ám khí, tử khí, đang ướp quanh chàng.

 

 

7.

 

Tiếng nói của Nguyễn chỉ là tiếng nói một người. Một người hèn mọn như loài run dế.

 

Nhưng Nguyễn, như anh, biết rằng một người không có nghĩa là một. Nói một người là nói tới số đông. Mai kia hắn chết đi, cái chết bất cứ trường hợp nào cũng chỉ là sự lịm tắt của một khát vọng, là chết theo người yêu một đời của hắn, những bạn bè gần gũi, những mộng ước đau đớn, tuyệt vọng, nghĩa là một phần thế giới.

 

Đọc mà xem, anh sẽ thấy hắn phải nói trong cô đơn để được gần anh.

 

 

8.

 

Mỗi bài thơ của Nguyễn là một nỗi đầy cô đơn. Nếu tôi nói hắn sống rất vui trong cô đơn, anh sẽ cười tôi. Bởi anh đã khổ vì cô đơn.

 

Thực ra tôi phải nói là hắn bằng lòng trong cô đơn, vì nơi đó hắn được sống với anh, trong cái thế giới lạnh lẽo đáng sợ, hắn được chia sẻ với nhiều người, những người không được gặp nhau. Như hắn và người yêu của hắn:

 

 

Anh đã yêu cùng cực

đến không còn em

............................................

Anh ôm thật chặt khoảng trống căn nhà hoang

như thấy em cả đời trọn vẹn

nửa đêm nào thức giấc

 

 

Như hắn và một người bạn nào:

 

 

Và những đêm nhìn trăng sao

dưới mái hiên nhà dây thép tôi nói với anh

về trời đất về ước vọng hai đứa mình ở đời.

 

 

9.

 

Đây là tiếng nói của một người nối kết những cô đơn.

 

 

10.

 

 

Nửa đêm những người yêu nhau nhảy slow

Kẻ hút “píp” đi một mình bờ đại lộ

vì không ai yêu mình

hay mình không yêu ai

ngậm tẩu như hôn người đàn bà một đời

 

 

Không phải, Nguyễn yêu nhiều người quá và nghĩ nhiều người đang yêu hắn.

 

 

11.

 

… hắn thầm thì, hổn hển, khó nhọc soi sáng những sự thật thầm kín ấy, những sự thật người ta chỉ có thể diễn tả nổi với cố gắng vô biên – những sự thật hết sức tối tăm, hết sức gian nan – nhưng chính với những sự thật ấy, thế giới phải thay đổi toàn diện, một lần cho xong. (Virginia Woolf)

 

 

 

12.

 

Một sự thật nữa, hắn đã sống.

 

Rất có thể ở ngoài đời hắn đã sống giả như chúng ta vậy. Lý do giản dị: cái giả hiện ra trong sự vận động mải miết của sự vật vượt qua mình, hôm nay từ chối hôm qua, và mình vẫn thích ứng tồn tại như không hề có gì xảy ra, tấn thảm kịch biến thành hài kịch. Chúng ta nhìn nhận mọi cảnh ngộ bằng cặp mắt chấp nhận tự nhiên, nỗi bất bình chìm sâu ở đáy thân bị nghiến nát không còn. Khi Nguyễn làm thơ (và nếu anh cũng làm thơ) Nguyễn phát hiện sự sống thực.

 

Và khi đã sống thực người ta sẽ không hài lòng một chút nào trước cảnh ngộ.

 

 

13.

 

Phương,

 

Tập thơ này Nguyễn viết cho em. Em là người yêu của hắn.

 

Bài mở này anh viết hộ em. Anh viết những điều em biết về hắn nhưng không thể diễn được thành lời. Và em sợ nên em xa hắn.

 

Thôi cũng xong. Để cho hắn làm thơ.

 

13 và 14 tháng 8 năm 1962

Thanh Tâm Tuyền

 

 

 

Phụ lục 1

Thơ Trần Lê Nguyễn

(Trích trong Tiếng nói một người)

 

Phương

 

Anh yêu em không ngủ đêm nay

Từ có em

người đàn bà một đêm trở nên vô nghĩa

Hành động của yêu

qua không gian tiếp nối thời gian

như hơi thở có ngưng không bao giờ dứt

phút sống ngập đầy

ý nghĩa lứa đôi tìm thấy

khi em không còn trong tay

Anh đã yêu cùng cực

đến không còn em

sống với màu xanh quá khứ

sương sớm nắng chiều

bông hoa nở giữa hai ngành héo buổi em đi

hơi thở nghẹn ngào

mi khép ứa dòng nước mắt

Anh ôm thật chặt khoảng trống căn nhà hoang

như thấy em cả đời trọn vẹn

nửa đêm nào thức giấc

 

Anh chả bao giờ có em

chỉ có bốn mắt nhìn nhau một chiều súng đạn

Em có nhớ ra anh

Anh có nhớ ra em

Đường nắng không một bóng dừa

một ngã ba hoang vắng

Anh chả bao giờ có em

chỉ có một đêm chớm lạnh

mưa trên sông

nghe tiếng thở dài của kẻ chung đôi

cùng tiếng thở dài của người cô độc

Anh chả có em nụ cười

chỉ có em nước mắt

Anh muốn giết em để đừng thấy lệ em rơi

để đừng bao giờ em bỏ đi

đừng bao giờ em tìm tới

 

Tiếng em kêu thất thanh đêm nào

anh nghe chính lời anh hấp hối

Tại sao anh yêu em

Tại sao em yêu anh

Tình yêu rất hiếm một con đường xanh

rất nhiều những con đường lội

Em có nhớ những chiều ngoại ô

buổi sáng ngồi xe thổ mộ

tiệm nước bên dây quan tài

hàng cây trong nghĩa địa

Anh nhớ em gục vào vai anh ướt

nước mắt mặn của môi

chua chua miếng thơm em đem qua nhà giữa trưa rất nắng

Có một hôm anh khen em đẹp

người ta sung sướng nép đầu vào ngực tôi

Em ơi em ơi em ơi em ơi

anh yêu em không thể nào ngủ được.

1957

 

 

Ám ảnh

 

Tôi làm bài thơ giản dị

đến không còn thơ

để gửi anh nhớ ngày gặp gỡ

 

Trận đói bốn mươi lăm

đồng quê hết gạo chạy về thành phố

Từng đoàn rũ trên đường

chết không kịp chôn

đổ chung một hố

Đàn quạ đen tím cả hoàng hôn

Chị cướp cơm em

Mẹ bịt mũi con cho hết bú

Những chiếc xe bò người kéo đầy thây

bao chiều cửa ô lớp lớp đợi đây

Tôi làm bài thơ bầm vết máu

những người Nhật trói đầy nắng tháng năm

Tôi đi cùng anh

buổi chiều vĩ đại

Hà Nội băm sáu phố phường

tung năm cửa ô

Cách mạng mùa thu Tháng Tám

Đêm kịch nhà hát lớn

tôi đọc thơ cho anh bẻ song tù

sáng mai về quê thấy không còn bố

- Thầy tôi ai bắt.

- Cách mạng cần có trại giam

Giọng anh lạnh

Mặt anh đanh

Tôi lặng người cay đắng

Nước sông Hồng thôi đỏ phù sa

nước sông Hồng màu đỏ chiến khu Phú Thọ

anh không dùng đạn

lưỡi lê

trôi sông

Máu anh Việt Quốc hòa nước sông Hồng

Tôi thôi làm kịch

son hậu trường như máu tanh tanh

tôi đi giết giặc để quên thấy anh

 

Tôi vào Quảng Ngãi nghe tiếng mõ khuya

thấy rợn hồn trẻ thơ chết chưa kịp đẻ

Diệt mầm phản động mai sau

mã tấu

anh chém cả con lẫn mẹ

Sóng gào bãi biển Tam Quang

dừa xanh hoang tàn thánh thất

một xóm Cao Đài cùng khóc

cha

chồng

anh

con

chết một ngày

một giờ

anh chôn sống chung một hố

 

Ba lô tháng năm kháng chiến

tôi đi trên những nẻo cùng

lạc loài làm tên phi đảng

mấy lần biên giới qua sông

Tôi vô tới mũi Cà Mau

nghe các anh dân chủ

thời Nguyễn Bình

xác nhận lòng kinh

nghe các anh Đệ tứ

xương bóng rừng cao su mông mênh

 

Tôi muốn viết cho anh

bài thơ không bằng chữ máu

tôi muốn viết cho anh

bằng những tâm tình

tôi muốn viết cho anh

như thuở ban đầu chiến đấu

 

Tôi tìm lại về sân khấu

có đêm khi bức màn buông

tiếng gõ ba hồi xuống ván

nghe như vồ đập áo quan.

1957

 

 

Khi yêu em

 

Của O.T.

 

 

Tôi bán quê hương lúc con một nửa

Người đàn bà Việt Nam đuổi tôi khỏi tròng mắt đen

của đôi mắt bồ câu

đôi mắt dao cau

Đục màu hạt dẻ

hay xanh chân trời xa

là đôi mắt xứ người chân tình nên phản bội

tôi gặp Berlin

Paris ở thủ đô tôi

thủ đô thiếu một hồ gươm lịch sử

một thư viện trên đường Trường Thi

Như em không quê hương

lấy kinh thành người làm kinh thành mình

ra đời ở Trung Âu

cư ngụ bên hồ Leman trời Thụy Sĩ

 

Tôi đọc người “Nga-La-Tư”

thấy nàng thiếu nữ

khi chết cho chiến thắng

hôn anh chiến hữu gửi lại người yêu

Và người nữ chiến sĩ “Thông Hành Giả”

không nhận thư tình

bàn tay run run mở tung nút áo

Vết sẹo hành hình in ngực

- bàn tay kéo cao cổ áo đi mưa anh đồng chí một đêm sương mù

Thần tượng ấy giết người yêu bé nhỏ

đau bệnh lao quê tôi ở miền Bắc

Lá thư cuối cùng một hồn người

tôi không được đọc chỉ nghe kể lại

ngày cách mạng thành công

 

Cách mạng đưa con người tới đâu

chỉ biết anh gặp em không hề chờ đợi

Anh nghe nàng tiên hát bài hát tiếng Nga

có tuyết có gác chuông

buồn chia cách khi vừa gặp gỡ

Anh yêu gió tung mái tóc

để tay anh lùa trong tóc em

Anh thù bóng đêm che sâu màu mắt

chỉ thấy hư ảo một màu nhớ nhung

Hư ảo như tay em trong tay anh

như tình chúng ta

của thời đại không còn được yêu được chết

của thời đại chỉ gặp nhau xa nhau

Nên em chỉ cho anh một nửa bàn tay

Nên anh không dám hôn môi em

như sợ truyền nhiễm bệnh lao

dù anh chưa hề hôn một lần

người yêu chờ chết bệnh lao miền Bắc

Anh cảm ơn sự tàn bạo cho chúng ta gặp nhau

Anh cảm ơn em cho anh sống lại tuổi hai mươi

có một lần trong đời

anh quên sống chạy theo cách mạng

đi bắt bóng những dáng hình

bỏ quên người yêu chết mười sáu tuổi

không một cành hoa trắng cắm lên mồ

Những trận mưa bom đồng minh trên quê hương anh

Những tờ truyền đơn rơi trên lòng đồng bào anh câm nín

 

Em cho anh sống những gì anh chưa sống

không thể thiếu trong một đời người

Anh không muốn nghĩ đấy là lý tưởng em đang đi tìm

dù có một ngày nào nở hoa

Anh sống với hình ảnh em

Nhìn nghiêng lạnh và buồn như tượng

Với giọng em hát nhỏ khi không đành nói lên lời

Với căn phòng lữ quán cô đơn

Với chiếc ban-công từng lầu ba dưới bóng me cổ thụ phố Sài Gòn

giống như dưới bóng cây hạt dẻ thành Prague

chiếc ban-công em gục xuống tay một mặt phút không đành khóc

Và tiếng cửa cầu thang máy đóng lại gần sáng một đêm nào

 

Em buồn ra riết trước ngày em đi

và bảo anh nói quá một lần sự thật

Em trách anh đến với em quá mau

Anh biết làm sao

khi không thể níu thời gian ngừng lại

Vì anh gặp em như tự bao giờ

qua năm tháng dài đấu tranh

người nữ cán bộ cô đơn cười vui chiến đấu

Vì em đến và em đi

Anh muốn Việt Nam đón em với tất cả ân tình

Người ta không sống cùng tài liệu mà bằng kỷ niệm

 

Em đi chấm cuối hàng người trên sân bay

Bao-lơn phi cảng một mình anh đứng lặng

Hai đứa cùng giơ tay –

Bàn tay giơ lần thứ nhất – lần đầu tiên – ở cửa lữ quán Sài Gòn

Bàn tay dơ lần thứ hai – lần cuối cùng – ở trường bay Tân Sơn Nhất

 

Áo em hồng đẹp nhất

Mắt em buồn đẹp nhất những người ra đi

Con chim hiếm bay

Buổi sáng không vui như chiều đã đến

Em hiện ở góc trời nào

không một chữ

không một tấm hình bưu thiếp

Tôi không muốn nghĩ

em đi tìm lãnh tụ đã dẵm lên hoa cỏ bên đường

Tôi muốn nghĩ

em sẽ là người đàn bà hiền hậu

có chồng có con

một đứa con gái hai đứa con trai

như em hằng mơ ước

Tôi đào ngũ khỏi lòng dân tộc một ngày nào đây

Biết rồi sẽ nhớ đôi mắt bồ câu

đôi mắt dao cau

Tôi gói hình ảnh người đàn bà Việt Nam làm hành lý lên đường

Tôi sẽ không bao giờ tìm em

như bây giờ không viết một dòng thư

chỉ làm bài thơ giấy giáp

Hai đứa yêu nhau rất nhiều để không quên nhau

để thôi nhớ làm lịch sử

 

Có con bướm trắng vừa đậu trên tóc em

Có bông hoa trắng mới nở trem mồ người yêu chết mười sáu tuổi

 

Có cách mạng nào thành công

Có tình yêu nào tan vỡ

7-1959

 

 

Sài Gòn mưa

 

Đế giày tôi lủng hai bên

Những chiều Sài Gòn mùa mưa như chiều nay

tôi đi bằng gót qua nhiều lề đường đọng nước

Đĩa nhạc quay tròn quay tròn

âm thanh nổi

Tờ báo buổi chiều loan tin chiến sự xứ Lào

 

Mưa lại rơi

như tháng bảy mưa rơi ngoài Bắc

Hà Nội không còn

Sáng qua tôi gặp cô gái Hàng Ngang

Ngoài kia đâu còn Hà Nội

Có những người chết đi

mất xác bên cầu Kiệu

con đường hành quân thuở trước vắt qua Dốc Mỏ

gặp mộ người nữ cứu thương

“Thái-mortier” Tây bắn ở Tuy Hòa chết không hay đâu còn Hà Nội

 

Tôi trú mưa đầu phố

Giày tôi vào nước từ lâu

Gió tạt quán rượu góc đường Charner thuở trước

Ly rượu anh thủy thủ trên đất liền

Người đàn bà Pháp chờ Taxi cô độc

Không là đây Paris

Sao tin chiến sự Vientiane làm nhớ thương Hà Nội

Sao Hà Nội nhắc những người chết đi

Tôi đi nhận lá thư không đến chiều nay

sao lại gặp Sài Gòn mưa như tháng bảy trời mưa xứ Bắc

 

 

Đất nước tôi tình duyên tôi

 

Của V.L.

 

 

Đường Tự Do mọc lên nhiều Snack-Bar

Một chiếc chen thêm vào bên chỗ trú chân của những nhà văn hoá văn nghệ xứ mình

 

Giữa hiện trạng ấy anh nghe tin em lấy chồng

Một đồng đô-la giá chợ đen ăn chín mươi đồng Việt Nam

Anh ước mong em lấy chồng Mỹ vì tình

một chuyện tình như phim Mỹ chúng ta thường xem

một chiến sĩ (cấp tá) bỏ vợ vì cuộc chiến tranh Cao Ly

gặp người con gái Hàng Đào di cư mang tật nguyền máy bay Tây hồi giặc

em bơ vơ sau bao cuộc tình duyên

như người đàn ông ngoại quốc cô độc xứ người sau một đoạn đời

một tình duyên rất cha con

một hôn nhân rất anh em

 

Anh vui và buồn cùng em như của chính anh

Khi bỏ nghề viết kịch (đánh máy hai mươi trang rưỡi diễn đúng bốn mươi lăm phút, hai tháng sau được 300đ bản quyền tác giả) để đi đánh bạc quên đời

Anh đã vừa viết, vừa đóng vừa đạo diễn cuốn phim Rizamer

Kịch tác gia giải thưởng văn chương toàn quốc của em như vậy đào đâu ra tiền cưới vợ nuôi con

chưa kể về mặt tinh thần

có xứng đáng với em một người con gái muốn thấy đời cao đẹp

Cho nên anh mừng hay tin em lấy chồng

lấy chồng trống trơn

vì anh nghĩ đây là một chuyện khác biệt

hoàn toàn tự do

hoàn toàn bình đẳng

không phải vấn đề đồng đô-la U.S. bên cạnh đồng bạc V.N.

em lấy chồng có cưới xin theo lễ nghi xứ mình

xóa được vết đen môi “kỹ nghệ” thời xưa

viết được một chuyện tình quốc tế

 

Đêm cưới em anh sẽ không ghé câu lạc bộ mà vào Snack-Bar uống rượu thật say

(dĩ nhiên bằng tiền đánh bạc, không phải tiền viết văn)

rồi không ghé đăng-xinh (dù biết rằng sắp bị đóng cửa) mà đi ngược về đường Duy Tân (một nhà vua cách mạng) hay dọc theo đại lộ Hai Bà Trưng (hai nữ anh hùng dân tộc) tìm gặp một “me” lính Pháp ra đi còn để lại

để suy ngẫm về cõi đời

và mừng em lấy chồng Mỹ

để anh còn được là đàn ông của nước Việt Nam

nay có đàn bà lấy chồng khác nước.

11-5-1959

 

 

Đã đi còn đi

 

cho Cung

 

 

Đã đi chân không thuở mười sáu vào đời

trong lò than đá mỏ Vàng Danh

ánh đèn đất ma chơi soi đường hầm địa ngục

Tình anh thợ mỏ yêu chị Nhà Sàng

thân thiết như goòng than

từ một lò đang phá

kéo ra Uông Bí ra “boo” Rơ Đông

xuống những con tàu đại dương ăn than

dọc theo mạn Đông Triều Hòn Gai Cẩm Phả

Còn thấy hố mắt không hồn buổi tan tầm

Mỗi lần sập lò bao xác chết đen thui

chôn một đời min mỏ

 

Tôi nhớ Vàng Danh linh hồn bé nhỏ

nhớ thường bạn đeo mìn

những đường “tơơi” cực nhọc

tiếng còi tầm xé ruột

ngọn roi song xua thợ đi làm

đá cắt gan bàn chân lạnh buốt

 

Hai mươi mấy năm rồi tuổi trẻ vui tin

nguyên vẹn tờ truyền đơn đòi cơm áo

Hai mươi mấy năm rồi

tôi đã đi thêm đoạn đường kháng chiến

với dép vỏ xe hơi Bình Trị Thiên

tôi đã đi thêm đoạn đường di cư

với đôi giày đế lủng

Tôi thấm mệt chiều nay nhớ anh người bạn đeo mìn thuở nhỏ

 

Anh còn sống hay đã chết

được thấy đổi đời chưa

đèn đất anh dùng có bao lưới thép phòng ghi-du khỏi nổ

còn có nạn ngập lò

Muốn gì đi nắm cơm anh ăn vẫn toàn than bụi

vẫn toàn mồ hôi

mồ hôi của thợ mỏ hay của anh hùng công nhân cũng vẫn chỉ là mồ hôi

nhiều chất mặn.

 

Như tôi vẫn còn phải đi

gọi là đi tìm tự do

tôi hiểu nghĩa hai tiếng ấy trong xà lim hẹp

qua những ngày thiếu ăn

những lần trốn tiền nhà chủ phố

và thấm mệt vẫn còn phải đi

để chạy những thiên đàng đóng hộp

 

tôi nhớ ngày đầu đi mỏ

lũ loong-toong Tây ức hiếp cướp mất tích-kê

anh đưa tôi ra chợ ăn cơm cởi áo thay tiền trả

và những đêm nhìn trăng sao

dưới mái hiên nhà dây thép tôi nói với anh về trời đất

về ước vọng hai đứa mình ở đời.

Có bao giờ không nhỉ

con anh và con tôi

chúng sẽ gặp nhau tình cờ như chúng ta đã gặp nhau

ở bến Sáu Kho

ở trường Đại học Sài Gòn

hay ở một quê hương nào khác nữa.

14-7-1957

 

 

Khuôn mặt

 

Không thấy nổi khuôn mặt người yêu

buổi chiều bệnh cái chết kéo về khoảng trời xanh ấu thơ

 

Em hư ảo trăng mùa hạ cũ

em không còn em

chiếc áo hở tay bầy đom đóm hoa dạ lai hương

em còn không em

đôi má hồng người bệnh mùa xuân

em không còn em

bông hoa không nở trên mồ con gái chết mười sáu tuổi

 

Không thấy nổi khuôn mặt bạn bè

buổi sáng gục bên đường đói khát

mặt trời hết bình minh

Chúng mày ở nơi đâu

cuộc sống mang đầy ung nhọt

một đứa gục xuống súng chửa rời tay

một đứa bước lên miệng còn thơm sữa

Bây giờ mùa xuân không còn

từng đứa lui vào dĩ vãng

chị ngã bên đường xác em nằm đây

mày vội chết đi, mặc tao còn sống

Khi mặt trời chỉ là nắng cháy

kẻ bại trận đi một mình

bàn tay ngửa xin một hơi nước lạnh

 

Không thấy nổi khuôn mặt mình

một lần sống sót

những ngày không người yêu bạn bè

khuôn mặt ban đêm tiếng kèn già nua thảm thiết

Tìm lại quê hương đã mất

chiều lập đông vườn cải hoa vàng

bóng mẹ già phơi áo

khuôn mặt vỡ tan từng mảnh vụn

như bàn tay mở lựu đạn

liệng ngay khuôn mặt mình

1963

 

 

Sám hối

 

Tôi chưa hề sống 24 tiếng đồng hồ với một người đàn bà

chỉ một đêm

nửa đêm

khoảng khắc trời mưa tại tiệm cà-phê nhìn chiều hè phố

hay dài một cuốn phim

xem lại buổi trưa nắng gắt

một đàn bà

những đàn bà

của một lần gặp gỡ

của cả một đời

Tôi không nhớ hết tên họ dù không hề quên một người

đôi ba lần nghe ai nói muốn có con với tôi

Những đứa con

chắc có trai có gái

có đứa sống đứa bỏ đi

để không một đứa bên mình

người về già hay thương máu mủ

 

Tôi gặp con tôi một trưa về thăm đầu đường sống

những nàng Sáu Nhỏ

Những nàng tôi gọi là nữ chiến sĩ ân tình

Tất nhiên má của con tôi cũng là nữ chiến sĩ

Và dĩ nhiên không thể rõ ai là cha

Má nó bảo con ra đời thiếu tháng

cho đúng ngày anh bố mạch lô đi biển trở về

Đến đây tôi muốn mở một cái ngoặc đơn

nói về những đôi vợ chồng rất là thương yêu rất là hoà thuận

nhưng đồng lương chồng không đủ sở hụi gia đình

nên anh đi mần

em cũng phải đi làm

Tôi nói rất là thương yêu nhau mới chịu được một chuyện như rứa ở đời

 

(Lạy Chúa đã để anh mạch lô tin là con ra đời thiếu tháng)

vì dù rất là thương yêu

gã thủy thủ không thể kham được việc người gái chơi lại có con với một kẻ khác ngoài anh

nên thay cho sự hòa thuận

phải là án mạng

vì dù là ghé bất cứ bến bờ nào

anh cũng chỉ có một quê hương

và nếu là nghề nghiệp bắt buộc

không yêu thì có con sao được)

Nghe kể vậy tôi lặng thinh nhìn

đứa nhỏ cười

(tôi vốn hay cười với bất cứ trẻ thơ nào)

muốn thấy một chút gì tôi ở nó

 

Chuyện không đâu ấy làm tôi thức đêm nay

dù không phải đây là lần đầu

(mỗi lần tôi mượn tiền bạn bè là mấy thằng chó chưa hề có con cười hô hố bảo là tôi lại sắp phịa chuyện đến nhà thương thăm con mới đẻ)

Không phải nghĩ tôi cảm thấy rõ ràng sự thật

sự thật còn thực hơn hai với hai là bốn

sáng đẹp hơn mọi thứ chủ nghĩa tôi đã đi tìm hay người ta sắp giới thiệu với tôi

một sự thực đơn giản không rõ có biết nhưng ai cũng làm

riêng tôi không hay quá nửa đời người tiêu toàn bạc giả

 

Nhớ lại mối tình lớn

(yêu người ấy từ thủa mười lăm

yêu người ấy qua gia đình đổ vỡ)

tôi nghĩ đến mấy trăm người ta nhờ bác sĩ xoá giùm kỷ niệm

và tác phẩm văn chương toàn quốc từng đem vinh quang cho đời cầm bút

nếu đặt bên miệng cười con tôi

chắc không hơn chồng giấy lộn

 

Lần đầu tiên tôi cầu nguyện thành khẩn ở đời

Con tôi vì là con gái nên không thể giống tôi

nhưng chính vì là con gái nên xin đừng bao giờ còn là má nó.

21-5-1962

 

 

Có em hay không có em

 

Anh giã biệt em và phi trường và trời xanh và mây mù và quê hương mình khuôn mặt rỗ nham nhở bom đạn. Anh nhìn xuống từ trời cao mũi súng nào ngước lên từ chiến khu lẩn khuất. Bữa ăn “Hầm Rượu” ấy mùa thu cũ châu bản nào xa xưa. Có phải châu Lương Sơn? Cách mạng màu đỏ máu cô bé nhìn cha ngơ ngác vết chém khôn rời. Thầy anh qua đời băng đạn tiểu liên ngọt xớt bàn tay lạnh nảy cò người lính Bắc Phi đen. Sơn Tây kế cận Hòa Bình sát bên Hà Đông như buồn đau em gần gũi tủi nhục anh niềm đau khổ chung đất nước. Tám mươi năm đã qua. Và còn bao nhiêu năm nữa?

 

Bữa ấy trời xanh cao. Anh hẹn em nơi phòng triển lãm. Và anh rủ em đi mua búp bê khi đứa bạn nói có bày bán ở lề đường. Anh không mua được – dù là một thứ búp bê bày bán ở lề đường – vì con đẹp nhất không còn nữa. Bao giờ anh cũng chỉ là người đến chậm. Rồi hai đứa đi ăn và má em ửng đỏ vì rượu chát như màu cánh hồng trên tay. Ra về anh ngừng lại bên quán hoa muốn mua tặng em một bông hồng khi ngoảnh lại đã thấy em đi mất. Anh bước theo và không bao giờ bắt kịp. Rồi trời mưa. Không hiểu vì sao trời hay mưa vào rất nhiều ngày trong đời anh? Và từ đấy là giận hờn xa lánh. Tại sao? Tại sao anh không được coi em như một người em gái? Các em gái anh ở ngoài miền Bắc và ngoài ấy mưa bom như giờ đây tại sao anh không được phép coi em như một người em gái?

 

Giáng sinh năm nay không có lễ nửa đêm và anh vẫn một mình đến trước cửa Vương Cung Thánh Đường vào mười hai giờ đúng. Có tiếng súng nào từ đâu vọng đến không em?

27-12-1966

 

(Nguyệt san Vấn Đề, số 1 tháng 4-1967, từ trang 66 đến 93. Chủ nhiệm/sáng lập: Vũ Công Trực. Chủ biên: Vũ Khắc Khoan. Thư ký toà soạn: Thanh Tâm Tuyền. Địa chỉ: 129 Lê Văn Duyệt, Sài Gòn. Giấy phép số 6068 TBTTCH BCI 2-12-1966. Số K.D. 484/21/3137 B.T.T.C.H.. In xong ngày 22-3-1967 tại nhà in Vạn Hạnh. Giá 40 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.)

 

 

 

Phụ lục 2

Thơ Trần Lê Nguyễn

 

Màu đen

 

Anh đến đêm qua

sáng nay không tìm em

đợi chiều về nắng không soi màu mắt

anh gặp em hoàng hôn

có ngày tàn nào không thắm

Hai đứa sẽ ra sao

khi tình yêu không có sáng mai

chỉ có trưa nắng trên bờ biển vắng

Có lẽ em sẽ không nhìn anh

anh không nói với em

như mặt trời không trối trăng trên rặng núi phía tây

Anh phiêu lưu giữa màu mắt xứ người

để sẽ thấy chiều nay mắt em đen nhất

Nước mắt không nhoà được màu đen

Nụ cười không phai được màu đen

Màu đen về chiều đen nhất những màu đen

 

Anh nghĩ màu đen chết

một chiều lang thang gặp chồng em hè phố

Chồng em cười vô tội

như không có chuyện gì

dù đứng trước anh một thây ma biết nói

 

Thủ phạm bao giờ chẳng là vô tội

Anh là quan toà lên án tử hình chính anh

Trốn tránh vào màu xanh

(những màu xanh chồng lên nhau)

vẫn thấy một màu đen ám ảnh

Nụ cười chồng em là sức phá hoại hiền từ

Thơ anh là vết mai đào huyệt

Chúng ta vốn yêu ai có nụ cười vui hơn kẻ chôn người chết

Có thực em sống với nỗi buồn bên trong niềm vui bên ngoài

Anh biết con gái em càng lớn mắt càng đen hơn mẹ

 

Anh giảm khinh cho mình một lần tự tử

vì trong đời đã có một lần yêu

như anh yêu em

như trời yêu biển

dù lòng em như người đi nghỉ mát mùa hè

không bao giờ nhớ biển mùa mưa

Vì hồn anh là bãi cát

hơn một lần nát vết chân

hơn một lần phẳng lại

Vì anh sinh ra để sống với màu đen

khi biển không sao hoà với mây thành màu duy nhất

ngôi sao là em dù không còn soi đời anh

anh vẫn sống với màu đen

màu đen con mắt

màu đen cuộc đời

như thấy không được quyền yêu màu đen cõi chết.

 

 

Nước biển

 

Tôi yêu người đàn bà không còn muốn thấy mặt tôi

như không thể chán ghét mình tội lỗi

Tại sao em không viết cho anh một lời dịu nhẹ

Nước biển mặn từ ngày yêu nhau

Kiếm đâu một dòng nước ngọt

Anh không đành phản bội chính anh

như em vẫn trung thành với em

Anh là quán em nghỉ chân đoạn đường cháy nắng

cho qua chuyện ngoại tình

trái cấm người đàn bà nào không hái

 

Nếu vứt được tình yêu như người ta thay áo tắm

áo dài em vẫn trắng tinh anh

vẫn đoan trang màu đen thầm lặng

trọn nghĩa với chồng

trọn tình với con

và coi anh như một tên khốn nạn

 

Anh không muốn nhớ

người đàn bà một lần đòi chung sống

(yêu người ấy từ thuở mười lăm

yêu người ấy qua gia đình đổ vỡ)

anh thấy những song sắt ngăn đôi

anh nghe tiếng xiềng xích kêu than

anh sợ đứa nhỏ phải nhìn kẻ đàn ông không phải cha sống bên má nó

Anh đã muốn làm tên khốn nạn

dù không được ai yêu như em yêu anh

dù biết mất em anh mất cả đời trọn vẹn

 

Anh làm thơ thấy nguyện ước thực hiện giữa đời

vui sướng và đau xót

Khi mặt trời mọc với em

đêm tối đến cùng anh

giữa màu đen đi yêu rất nhiều phản bội

không một ngôi sao soi đường

Tại sao em không viết cho anh lấy một lời dịu ngọt

Nước biển mặn chát từ ngày quen nhau

 

Tôi yêu người đàn bà không còn muốn thấy mặt tôi

Như không thể chán ghét chính mình tội lỗi.

Nguồn: Tạp chí Sáng Tạo, bộ mới, số 6, ra tháng 12-1960 và 1-1961, trích từ trang 95 đến 98. Chủ nhiệm: Mai Thảo. Quản lý: Đặng Lê Kim. Trình bày: Duy Thanh. Toà soạn và trị sự: 133B Ký Con, Sài Gòn. Giá: 15đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.