*
Notes

Souvenir

Memoir

1 2














Kỷ Niệm

Borges trong bài viết Những tiền thân của Kafka, đưa ra vấn nạn, theo Gấu, liên quan tới ‘đạo văn’, theo cái nghĩa ‘trái tim của bóng đen’, nghĩa là, ở ‘tận cùng của tận cùng’ của vấn đề: Liệu có văn học, nếu không có đạo văn?
Hay, lương thiện hơn, tao nhã hơn: Liệu có chuyện 'ảnh hưởng'?
Ba búa Trình Giảo Kim mà nhà thơ TTT truyền lại cho GNV liên quan mật thiết đến vấn đề nêu trên.
Búa, hay bài học thứ nhất: Muốn viết văn phải có thầy.
Thầy một cách nào đó, là… tiền thân của một nhà văn!
Riêng về Thầy, theo Gấu có hai loại. Một, là người mà bạn học theo rồi vượt lên, đi xa hơn, đào sâu hơn….
Một, một thứ sư phụ mà bạn biết rằng chẳng bao giờ với tới được.
Nhà văn, thứ tin rằng mình là nhà văn, đều có thầy.
Còn những thứ khác, cũng là nhà văn đấy, đầy rẫy trong thiên hạ, nhưng chỉ viết được một tí ti, một thời gian, là hụt hơi, hoặc dậm chân tại chỗ, hoặc viết thì viết đấy, nhưng chính họ tự biết, giá mà không viết cũng chẳng sao! Có tớ thì chợ cũng thế, mà không có tớ thì chợ vẫn cứ thế!
Dos phán một câu, nhiều người nhắc lắm, nhưng có lẽ ít người nhận ra, đây là một trong ba búa TGK:
« Je me suis contenté de porter à l'extrême ce que vous ne vous êtes jamais aventuré à pousser ne fût-ce que jusqu'à mi-chemin ».
Tạm dịch: Tớ khoái đẩy đến cực điểm, cái chuyện mà thế nhân chỉ dám làm có.. một nửa.
Bất cứ một nhà văn, thứ thực, [“thực”, ít ra, tệ lắm, là với chính mình, khi tin vào chính mình], là phải luôn tâm niệm bài học trên đây của Dos.
Trong quá khứ, làm cái nghề viết tay trái, tức là viết phê bình, điểm sách, sở dĩ Gấu bị chửi, bị coi như.. hủi, ấy là vì, mỗi lần viết, là tìm cách báo động cho tác giả cuốn sách, hãy đẩy đến cực điểm cái điều mà mi chỉ làm được một nửa, ở trong cuốn sách mà Gấu Nhà Văn đang mất công đọc, chỉ vì mi, cho mi chứ không cho Gấu Nhà Văn!
[Ui chao, lại nhớ đến lời khen tặng, ‘rất nhân hậu và cảm động’, của một độc giả: Vị này nhìn thấu "tim đen" của “anh cu Gấu”.]
Hà, hà, hà!

Kafka và những người đi trước ông
Jorge Luis Borges

Tôi đã có lần tính làm một nghiên cứu những tiền thân của Kafka. Thoạt đầu, tôi coi ông một mình trong cõi ngôn từ như loài phượng hoàng, nhưng lật vài trang, tôi lại có ý nghĩ, có thể nhận ra giọng nói của ông, hay những cung cách, ngón nghề của ông, ở những bản viết từ những dòng văn chương, thế này thế khác, thời này thời nọ. Tôi ghi lại một chút ở đây, theo kiểu biên niên.
Đầu tiên là nghịch lý Zenon, chống lại sự chuyển động. Một vật chuyển động ở A (Aristotle tuyên bố) không thể tới B, bởi vì trước hết, nó phải vượt nửa khoảng cách giữa hai điểm, và trước đó, nửa của một nửa, và trước đó, nửa của "nửa của một nửa"; cứ như thế cho tới vô cùng; bài toán này y hệt như trong "Lâu Đài"; và vật chuyển động, mũi tên và Achilles là những nhân vật Kafka đầu tiên trong văn chương.
Trong bản viết thứ nhì may mắn sao nằm trước tôi, sự tương tự không phải ở dạng, mà là giọng kể. Một ẩn dụ của Han Yu, người viết thơ xuôi thế kỷ thứ 9, được in lại trong cuốn sách đáng yêu của Margouliès, Tuyển tập văn chương Trung-hoa với phần dẫn giải (1948).
Huyền hoặc, trầm lắng, là đoạn tôi đánh dấu: "Ai cũng thừa nhận kỳ lân là một linh vật mang đến điềm lành, điều này đã được nói rõ trong mọi cuốn thơ ca, biên niên, tiểu sử có minh họa, và nhiều bản viết khác mà uy tín của chúng không cần bàn cãi. Ngay cả trẻ con và đàn bà nhà quê cũng biết kỳ lân tạo điềm tốt. Nhưng con vật này lại không hề hiện diện giữa đám thú vật nuôi quanh nhà, thật khó thấy, nó không để vướng mình vào bảng phân loại. Nó không như con ngựa, con bò, con chó sói, hay con nai. Trong những điều kiện như thế, chúng ta có thể đối mặt với kỳ lân, và không biết một cách chắc chắn, con gì đây. Chúng ta biết, con vật như thế đó có tên là con ngựa, con vật có những cái sừng như vậy là con bò. Nhưng chúng ta không biết kỳ lân như thế nào."(1)
Bản văn thứ ba từ một nguồn dễ dự đoán hơn nhiều: những bài viết của Kierkegaard. Tinh anh đồng điệu giữa cả hai người viết là một điều ai cũng nhận ra. Điều chưa được nói tới, như tôi cho tới lúc này hiểu được, đó là sự kiện, Kierkegaard, như Kafka, viết nhiều ngụ ngôn tôn giáo, về những đề tài trưởng giả, đương đại. Lowrie, trong cuốn Kierkegaard của ông, (Oxford University, 1938), đã chuyển ngữ hai trong số đó. Một là câu chuyện một người làm bạc giả, dưới sự kiểm soát gắt gao, đếm giấy bạc trong Ngân hàng Anh; cùng một đường hướng như vậy, Thượng Đế sẽ không tin tưởng Kierkegaard, và đã giao cho ông một nhiệm vụ để hoàn thành, chính bởi vì, Người biết ông ta vốn thân quen với cái xấu.
Đề tài câu chuyện ngụ ngôn kia là về những chuyến thám hiểm Bắc Cực. Qua giới tăng lữ, những vị trưởng lão Đan Mạch tuyên bố, việc tham dự vào những chuyến thám hiểm như thế có lợi cho hạnh phúc đời đời của linh hồn. Tuy nhiên họ thừa nhận, thật khó, và có lẽ thật vô phương, tới được điểm Cực, và không phải tất cả mọi người, ai cũng có thể đảm nhận cuộc phiêu lưu. Sau cùng, họ đi đến thông báo, bất cứ một chuyến đi nào - từ Đan Mạch tới London, chúng ta cứ nói vậy - trên chuyến tầu chạy theo giờ giấc thường lệ - đều được coi là một chuyến thám hiểm Bắc Cực.
Diễn dịch thứ tư ở đây, tôi tìm thấy trong bài thơ của Browning, "Lo sợ và Ngại ngùng", được xuất bản năm 1876. Một người đàn ông có, hoặc anh ta tin tưởng có, một người bạn nổi tiếng. Chẳng bao giờ anh ta gặp bạn, sự thể là, cho tới nay, người bạn chưa từng giúp đỡ anh ta, tuy bao câu chuyện đã được kể, về những nét quý phái, phong nhã số một của người bạn, bao thư từ thực sự của người bạn chạy lòng vòng đâu đó. Rồi có người tỏ ra nghi ngờ về những điều này, và những chuyên viên khảo tự tuyên bố, những lá thư là bịa đặt. Người đàn ông, trong dòng thơ chót, hỏi: "Và phải chăng, người bạn này là... Thượng Đế?"
Những ghi nhận của tôi còn hai câu chuyện. Một là từ Chuyện không vui (Histoires Déobligeantes), của Léon Bloy, về một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà. Câu chuyện kia nhan đề "Carcassonne" và là tác phẩm của Lord Dunsany. Một quân đội bách chiến bách thắng, gồm những chiến sĩ, rời tòa lâu đài vô định, chinh phục những vương quốc, nhìn thấy những quái vật, vét kiệt những sa mạc, những núi non, nhưng họ chẳng bao giờ tới được Carcassonne, mặc dù có lần họ đã thoáng nhìn thấy, từ xa. (Câu chuyện này, như người ta dễ dàng nhận ra, là đảo ngược triệt để của câu chuyện trên; trong câu chuyện thứ nhất, là thành phố không thể bị bứng khỏi, còn trong chuyện thứ nhì, chẳng bao giờ tới được.)
Nếu tôi không lầm, những mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái nào. Sự kiện thứ nhì này có ý nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka chưa từng viết một dòng, chúng ta sẽ không nhận ra tính chất này; nói một cách khác, chúng chưa hề hiện hữu. Bài thơ "Fears and Scruples" của Browning tiên liệu tác phẩm của Kafka, nhưng cái đọc Kafka của chúng ta rõ ràng làm sắc bén, và làm sai lệch cái đọc bài thơ. Browning đã không đọc nó như bây giờ chúng ta đọc.
Trong tự vựng của những nhà phê bình, từ "tiền thân" (precursor) không thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai. (2).
Trong tương quan này, điều không quan trọng, đó là đặc nét, hay đa nét, của những người trong cuộc. Tính tiền thân của những huyền thoại tối tăm và những định chế tàn bạo, ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít chất Kafka hơn, nếu so với Browning và Lord Dunsany.

(Dịch từ bản Anh ngữ của James E. Irby, trong tập Mê cung, Labyrinths, nhà xb A New Directions Book).
Chú thích của tác giả:
(1). Sự không thừa nhận những linh vật và cái chết có tính lăng nhục, hoặc như là tai nạn, của chúng ở nơi tay con người, là những đề tài truyền thống của văn chương Trung Hoa. Xin coi chương chót cuốn sách của Jung, Tâm lý học và Thuật luyện kim, Psychologie und Alchemie (Zurich, 1944), trong có hai minh họa ngồ ngộ.
(2). Xin coi T. S. Eliot: Quan điểm, Points of View (1941), pp. 25-26.\
NQT chuyển ngữ

Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.

Đây là câu mà TTT chỉ cho Gấu, búa thứ nhất trong ba búa TGK: Mi phải kiếm ra ông thầy của mi nếu muốn trở thành nhà văn.
Gặp Faulkner, biết ngay đây là sư phụ của Gấu!
*
Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó:
Đệ tử kiếm ra sư phụ. Không phải sư phụ kiếm ra đệ tử.

*

Hay là sự xuất hiện của một cuốn sách như thế đã kéo theo cùng với nó sự xuất hiện của một lớp độc giả như thế? Trong một vài trường hợp, chính học trò khám phá ra những tay thầy. Phải chăng đó cũng là trường hợp của "bậc thầy" TTT?

Câu trên, trong bài viết về TTT, vào năm 1973, trong số Văn đặc biệt về ông, chứng tỏ, Gấu khám phá ra Borges, khi chưa đọc, chưa hề biết có một Borges!

Cũng là một giai thoại tuyệt vời về GNV!

Kỷ Niệm

*

Ông không tin vào huyền thoại nhà văn, và còn nghi ngờ tớ mà cũng là nhà văn ư?
Il ne croyait pas au mythe de l'écrivain, il doutait lui-même d’être un écrivain.
Trong sự từ chối lớn văn chương như nó đang phô ra, có sự báng bổ cần thiết, bắt buộc.
Il y a, dans ce grand refus de la littérature telle qu'elle se fait, quelque chose d'une profanation nécaissaire 


Trên tờ NYRB số mới nhất, May 13, 2010, Adam Thirlwell, điểm cuốn Verses and Versions: Three Centuries of Russian Poetry [tạm dịch: Thơ vần và bản văn: Ba thế kỷ thơ Nga], do Nabokov tuyển và dịch, nhà xb Harcourt, 441 trang, 40 đô Mẽo], mở ra bài viết của mình bằng một ‘anecdote’, giai thoại, thật thú vị:
Vào ngày May 28, 1940, hai vợ chồng Nabokov và ông con trai tới New York, một người bà con, theo lịch trình sẽ đón họ. Do lầm lẫn về thời gian, chẳng có ai đón, và phải dùng tắc xi. Tới nơi, nhìn đồng hồ thấy ghi 90, bà vợ Vera đau xót quá, chìa tờ 100 đô độc nhất mà họ mang từ Âu Châu. Ông tài xế lắc đầu nói, 96 xu, làm sao tớ… thối?

Thế rồi, tác giả bắt qua Brodsky, với câu phán trứ danh của ông:
Nếu có gì tốt trong cái sự lưu vong, thì đó là, nó dậy cho con người ta sự nhún nhường.
Brodsky viết năm 1987, 15 năm sau khi rời Liên Xô.
"If there is anything good about exile, it is that it teaches one humility’.

Câu trên, GNV đọc, ngay những ngày mới bỏ chạy được ra hải ngoại, tiếng Anh tiếng U thì cũng làng nhàng, đọc thì cũng ba nháng, thành, lưu vong dậy ta bài học: sự tủi nhục! [“humility” thành “humilié”, tiếng Tây, có nghĩa là bị sỉ nhục!]
Sau này, ngẫm lại GNV ngộ ra là, câu hiểu sai đó, mới là câu đúng, đối với GNV!
Chính vì thế, nên đọc ra như thế!

Cái tiệm chuyên bán sách báo tiếng Tây, nằm trên con phố bảnh nhất, tại khu phố bảnh nhất Toronto, Gấu biết nó lần thứ nhất khi mới qua đây, qua một tay bà con của tay biếm gia số 1 hải ngoại, ông này Gấu biết, là qua vợ chồng cô bạn giới thiệu, cô bạn là cái cô học Văn Khoa, trong Kiếp Khác, truyện ngắn có tới 3, 4 ấn bản khác nhau, mới đây thôi, Gấu được một ông bạn ở trong nước kiếm được, và gửi cho số Văn có in truyện ngắn đó lần đầu tiên, khác xa cái bản in trong tập truyện ngắn Những Ngày Ở Sài Gòn, lại càng khác xa, cái bản viết lại, khi gặp lại cô bạn tại xứ lạnh, ô hô, không phải, cái bản viết ở trại tị nạn, khi quá nhớ cô!
Hà, hà!
Câu văn trên, là từ Faulkner mà ra.

Cái tay Lộc, làm UPI, khi đó đó, gọi là văn ‘bè rau muống’.
Cũng một tay Bắc Kít di cư.
Nếu không, biết chó gì tới rau muống!

GNV qua đây là 1994. Bây giờ 2010. Trong ngần ấy năm, tới tiệm trên không biết bao nhiêu lần, không hề biết, ở gần ngay đó, trong một passage giống như passage Eden ở Sài Gòn ngày nào, có một tiệm chuyên cho muớn những cuốn phim cổ lỗ sĩ, thời Gấu mới lớn, và mê chúng như điên, khi còn Sài Gòn. Nào là Touchez pas au Grisbi, trong có bản Jazz nổi tiếng, chơi bằng khẩu cầm, có thể cây khẩu cầm này, sau được TTT mượn, đưa cho Kiệt thổi, cho Oanh nghe, trong Một Chủ Nhật Khác, bởi vì cái thời đó, tất cả bọn chúng tôi, trong có ông, đều mê Jazz như điên, Smoking my sad cigarette, Oh, let me go lover, Touchez pas au Grisby….

Nói tóm lại là, vào những ngày sắp đi xa, Gấu lại được sống lại Những Ngày Ở Sài Gòn, tại Sài Gòn (1)
Đúng là cái dấu báo sắp đi xa!

(1) 

POEMS (1905-1915)

THE CITY

You said: 'I'll go to another land, I'll go to another sea.
Another city will be found, a better one than this.
My every effort is doomed by destiny
and my heart - like a dead man - lies buried.
How long will my mind languish in such decay?
Wherever I turn my eyes, wherever I look,
the blackened ruins of my life I see here,
where so many years I've lived and wasted and ruined.'

Any new lands you will not find; you'll find no other seas.
The city will be following you. In the same streets
you'll wander. And in the same neighborhoods you'll age,
and in these same houses you will grow grey.
Always in this same city you'll arrive. For elsewhere - do no
hope-
there is no ship for you, there is no road.
Just as you've wasted your life here,
in this tiny niche, in the entire world you've ruined it.
C.P. Cavafy

Sài Gòn

Bạn nói: “Tớ sẽ đi tới một biển trời khác,
Và sẽ kiếm thấy một Sài Gòn khác, bảnh hơn Sài Gòn này.”
Mọi cố gắng của tớ thì đều bị số phận trù ẻo
Và trái tim của tớ – như một người chết – bị chôn vùi.
Tớ còn phải nức nở than van bao lâu nữa, trong cái thành phố thối rữa như thế này?
Nhìn đi đâu, về hướng nào,
Thì cũng vẫn những điêu tàn đen đủi, là cuộc đời của tớ mà tớ nhìn thấy,
Ở một nơi trong bao tháng năm, tớ hoang phế đời mình."

Bạn sẽ chẳng tìm thấy một biển trời mới mẻ nào đâu, nghèo mà ham!
Sài Gòn sẽ tò tò bám theo bạn, như một con đỉa đói!
Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao (1) nào con hẻm 72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ, nào Xóm Ken bên kia Thủ Thiêm
Vẫn những chòm xóm đó mà bạn cứ thế mà mòn mỏi, tàn tạ đi
Mớ tóc xam xám, rồi muối tiêu, rồi bàng bạc, rồi trắng toát!
Vẫn Sài Gòn mà bạn sẽ tới!
 Ui chao đừng hy vọng, đừng trông mong,
Chẳng có tầu, mà cũng chẳng có đường.
Như bạn tàn tạ cuộc đời của bạn, ở đây.
Ở Sài Gòn-Toronto này!

*

Cuốn sách Gấu dịch, cuối cùng, trước khi đứt phim, là một cuốn sách đen, série noire, của James Hadley Chase, lấy bối cảnh Sài Gòn, có cái tên na ná như Pas d'Orchidées pour Miss Blandish (1938) cũng của J.H. Chase, đã từng được Hoàng Hải Thuỷ phóng tác thành Trong vòng tay du đãng. Cuốn này là từ Giáo Đuờng của Faulkner bước thẳng qua!
Đúng như vậy. Nhưng chỉ đến khi Gấu đọc đuợc điều này trên một số báo Le Magazine Littéraire, thì mới nhận ra, tếu thế.

Gấu đã từng nhìn thấy bản kẽm của bản dịch cuốn 'cuối cùng' này, do tay Quyên Di thầu. QD trước 1975 cũng có một tờ báo, có order Gấu viết mấy bài, cùng làm chung với ông Nhàn, nhà xb Vàng Son. Gấu quen anh do cùng làm tờ báo Thiếu Nhi của ông Nhàn, anh hình như cùng băng với Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Mai, Từ Kế Tường. Sau 1975, anh có tí việc làm ở tờ Công An, dưới quyền một tay ký giả nằm vùng nổi lắm, tự dưng Gấu quên mẹ mất tên, ồ, nhớ ra rồi Huỳnh Bá Thành!
Nhờ QD mà Gấu có dịp yết kiến HBT, tại tờ Công An. Cú gặp hụt này cũng thú vị lắm.

Sau cuốn cuối cùng trên, tới bi giờ, là cuốn bắt đầu: Istanbul!

*
Số báo này có quá nhiều bài tuyệt cú mèo. Bài về Giáo Đường, của Faulkner, khui ra một chi tiết thật thú vị: Cuốn Pas d'Orchidées pour Miss Blandish (1938) của J.H. Chase, đã từng được Hoàng Hải Thuỷ phóng tác thành Trong vòng tay du đãng, là từ Giáo Đuờng bước thẳng qua. Cái từ tiểu thuyết đen, roman noir, của Tây không thể nào dịch qua tiếng Mẽo, vì sẽ bị lầm, "đen là da đen", nhưng có một từ thật là bảnh thế nó, đó là "hard boiled", dur à cure, khó nấu cho sôi, cho chín. Cha đẻ của từ này, là Raymond Chandler, cũng một hoàng đế tiểu thuyết đen!
Bài viết về Chandler của nữ hoàng trinh thám Mẽo, Patricia Highsmith cũng tuyệt. Rồi bài trả lời phỏng vấn của Simenon, trong đó, ông phán, số 1 thế kỷ 19 là Gogol, số 1 thế kỷ 20 là Faulkner, và cho biết, cứ mỗi lần viết xong một cuốn tiểu thuyết là mất mẹ nó hơn 5 kí lô, và gần một tháng ăn trả bữa mới bù lại được!
Bài trò chuyện với tân nữ hoàng trinh thám Tây Fred Vargas cũng tuyệt luôn: "Tôi chơi trò thanh tẩy" ["Je joue le jeu de la catharsis"].
Viết trinh thám mà là thanh tẩy!
Bài nào cũng muốn dịch cống hiến độc giả Tin Văn, trong khi bận lo dọn Kít!
Chán thật!
Mệt thật!
*
Nhưng mà , em mệt thật đấy!