Khi một vì
thiên thạch trên dãy Kuiper nằm bên mép rìa Thái
Dương Hệ
mang tên người con gái Việt Nam
Nguyễn
Ninh Hòa, Sep 05, 2005
Lời
tòa soạn: Trong những thông báo và trên những trang
quảng cáo cho Đại Nhạc Hội Đêm Cali 2005 (15 tháng 10) và chuyến ủy lạo
Tình Ấm
Mùa Đông 2 (16 tháng 10), ngoài những danh ca, ban nhạc và MC thượng
thặng của
làng ca nhạc hải ngoại như Nam Lộc, Leyna Nguyễn, Lưu Bích, Thủy Tiên,
Minh
Tuyết, Thúy Anh, Hồ Ngọc Như, Lâm Nhật Tiến, Thế Sơn, Tuấn Vũ, Hoàng
Nam, Ngũ
Yên, Nguyên Thảo,… chúng tôi có giới thiệu ba vị khách mời đặc biệt là:
1.
Nữ kỹ thuật gia Lê Duy Loan từ Texas Instrument.
2.
Nữ giáo sư đại học Harvard và thiên văn gia Jane Lưu
3.
Nữ đại úy bác sĩ Cẩm Vân từ chiến hạm Kitty Hawk,
Thái Bình Dương…
Nhiều
độc giả và khán giả muốn tìm hiểu thêm về 3 nữ lưu gốc
Việt này và cũng muốn biết thêm các vị nữ lưu này sẽ làm gì trong đêm
Đại Nhạc
Hội Đêm Cali 2005 và chuyến ủy lạo Tình Ấm Mùa Đông 2 vào ngày 15 tháng
10 tới
tại San Jose do nhật báo Cali Today tổ chức. Để đáp ứng nhu cầu này, từ
số báo
tuần rồi, chúng tôi đã giới thiệu kỹ thuật gia Lê Duy Loan qua bài: “Có
một
người phụ nữ Việt như thế: Lê Duy Loan” và trong tuần này, chúng tôi
xin giới
thiệu đến quý độc giả về cô Jane Lưu.
Cali
Today News -
Từ
thưở nhỏ, tôi đã thả hồn theo câu chuyện “Les Etoiles”
(Các Vì
Sao) của văn hào người Pháp vào thế kỷ 19, có tên là Alphonse Daudet.
Đâu chỉ
có riêng tôi mà có lẽ có rất nhiều độc giả khác đã đọc nhiều lần truyện
này
khoảng 40 năm trước, và tuy đã đọc lâu rồi, thế nhưng câu chuyện mơ
mộng, đẹp
và lãng mạn này vẫn còn kín đáo nằm một nơi nào đó trong ký ức và hôm
nay, tôi
nhớ lại câu chuyện này khi viết về một người phụ nữ Việt có cái tên là
Jane
Lưu.
Câu
chuyện kể về một anh chàng nhà quê mới lớn, có nhiệm vụ
dẫn bò, cừu, dê,… lên núi ăn cỏ trong mùa hè. Và thường thì mỗi ngày
khi chiều
về có một lão quản gia mang thức ăn từ trang trại lên cho anh chàng nhà
quê
chăn cừu này. Nhưng, một hôm, trái tim anh chàng gần như nhảy ra khỏi
lồng ngực
khi anh nhìn thấy một cô thiếu nữ xinh xắn, người mà anh thầm yêu trộm
nhớ từ
lâu, là cô con gái của ông chủ trại, mang thực phẩm lên cho chàng…
Cô
gái nhỏ này bỡ ngỡ trước cảnh trời cao, đất rộng bao la,
nên đã đi lạc và ngõ lời xin lỗi chàng vì đã mang thức ăn đến muộn. Đêm
xuống,
giữa rừng, đầy tiếng chó sói kêu. Nàng không dám về và đã ở lại trên
đồi cùng
chàng chăn cừu diễm phúc này. Đêm đó, nàng ở lại và thả hồn theo các vì
sao, và
đêm khuya dần, nàng ngồi càng sát vào người chàng hơn, vì lạnh…
Câu
chuyện “nhà quê” này thật lãng mạn, hồn nhiên và tuyệt
đẹp, đã làm say đắm bao chàng trai cô gái tuổi ô me thời ấy và có lẽ
đoạn kết
của tác phẩm là đoạn hay nhất, làm cho tôi nhớ nhất.
Chuyện
kể rằng… một lúc sau, chàng chăn cừu thấy vai mình
nằng nặng… Một mái tóc thề đã rủ xỏa xuống vai chàng… Nàng công chúa
của ông
chủ trại đã ngủ quên trên vai chàng mục đồng và chàng nín thở ngồi im,
không
dám nhúc nhích, sợ kinh động giấc ngủ của thiên thần…
Chàng
ta ngước lên nhìn ngắm bầu trời, một bầu trời đầy sao
vằng vặc. Chàng nghĩ dường như tối nay sao trên trời dường như sáng hơn
và lấp
lánh hơn, nhưng chàng ta có cảm giác là vì sao sáng nhất và đẹp nhất đã
đi lạc
xuống trần gian và… đậu lại trên vai chàng,…
Và
chàng mong trời đừng bao giờ sáng…
Câu
chuyện đó đi vào tuổi thơ của tôi và các bạn tôi nhè nhẹ
và từ đó, bầu trời đầy sao trở nên quyến rũ vô cùng, nhất là ở những
vùng nhà
quê bạt ngàn đồng ruộng, trên những đồi cao, ở những nơi không có đèn
điện, và
dưới bầu trời đêm đầy sao lấp lánh trong không trung.
Chúng
tôi thường nằm giữa rừng, giữa sân, trên bãi biển,… và
nhìn lên bầu trời để tưởng tượng ra đủ thứ sao: sao đơn như sao hôm,
sao mai,
và sao chùm có sao cái cày, sao rua năm cánh,…
Và
cũng từ thế giới tưởng tượng của tuổi thơ, chúng tôi nhìn
lên bầu trời như nhìn vào bức tranh vân cẩu và tưởng tượng ra đủ thứ
hình sao
kết lại trên trời và nghĩ đến một thế giới trên đó từ cung Quảng, nào
Hằng Nga,
chú Cuội, chú thỏ, nào Ngưu lang, nào Chức Nữ nào dãi ngân hà, nào
giòng nước
mắt của những đôi lứa yêu nhau và chịu cảnh cách xa,…
Cả
một thế giới tuyệt diệu, huyền bí, thân thương, và lãng
mạn trên cao,…
Thế
nhưng, những nhân vật cổ tích ấy đều có xuất phát từ
Trung Hoa, từ Pháp, từ thế giới tưởng tượng của trẻ thơ… và chưa hề có
tên một
người Việt chính cống nào trên thế giới trăng sao ấy, và chính vì thế
khi nghe
trên vành mép của Thái Dương Hệ có tên một vì thiên thạch mang tên một
cô gái
Việt Nam, khiến cho lòng chúng tôi rung động, tò mò, và hiếu kỳ vô cùng…
Và
từ nay, bầu trời này sẽ đẹp hơn, sẽ thân thương hơn biết
bao, sẽ Việt Nam hơn biết bao, khi có một vì thiên thạch mang tên người
con gái
Việt Nam…
Thiên
thạch là gì?
Khi
nghe nói tới chuyện một vì thiên thạch mang tên cô gái
Việt Nam,
có lẽ chúng ta tò mò muốn biết: thiên thạch là gì? Chiết tự ra, thiên
thạch là
tảng đá trên trời, trong vũ trụ.
Theo
Bách Khoa Từ Điển Wikipedia thì thiên thạch là một
thiên thể nhỏ nằm trong Thái Dương Hệ, quay xung quanh mặt trời, giống
như một
hành tinh nhỏ (planetoid). Hầu hết thiên thạch được quan niệm là những
mảnh vụn
vỡ ra trong thời kỳ hình thành thái dương hệ. Một số thiên thạch còn có
cả mặt
trăng quay xung quanh nó và hầu hết thiên thạch nằm trong vùng vành đai
thiên
thạch asteroid belt có quỹ đạo hình bầu dục nằm ở khu vực giữa sao Hoả
Tinh và
Jupiter.
Khám
phá độc đáo và quá quan trọng của Tiến sĩ Jane Lưu
Jane
Lưu là một nhà thiên văn người Mỹ gốc Việt. Cô đến Hoa
Kỳ với tư cách là người tỵ nạn khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm miền Nam
Việt Nam.
Cô học tại
Đại Học Stanford và tốt nghiệp vào năm 1984.
Cô
ta đồng khám phá, phát hiện một thiên thạch đầu tiên
trong dãi Kuiper huyền thoại (có ký hiệu là (15760) 1992 QB) cùng với
người
hướng dẫn của cô là David C. Jewitt. Hai người đồng khám phá chung một
số vì
thiên thạch.
Mỗi
năm, vào muà hè, và trong cả chục năm như thế, cô Jane
Lưu bay về Hawaii 3 tuần lễ và không giống như những người đi nghỉ mát
đâu, vì
bạn không bao giờ nhìn thấy cô ngồi trên bờ biển nhăm nhi mai-tais đâu.
Mỗi
đêm, cô leo lên đỉnh núi lữa đã tắt, ở độ cao 14,000 bộ trên mực nước
biển, để
quan sát các vì sao, tìm kiếm các vì sao trên trời, qua thiên văn kính
cực mạnh
trên đỉnh ngọn núi lữa đã tắt. Và khi mặt trời thức dậy ở phía Đông,
thì cô
xuống núi và trở về trại, và tại đó, cô phân tích các dữ kiện được khám
phá
trong đêm qua và rồi chìm vào giấc ngủ, để khi mặt trời lặn, lại tiếp
tục leo
lên núi tìm kiếm những ngôi sao, những vì thiên thạch trên thế giới vũ
trụ còn
quá nhiều điều kỳ bí.
Cô
thật nhẫn nại và đam mê công việc. 10 năm liên tiếp, cô
làm như thế. Và cuối cùng, một phần thưởng lớn đã đến với cô vào năm
1992, khi
cô khám phá ra một thiên thạch, đầy đá và băng đá quay xung quanh mặt
trời ở
ngay bờ mép của thái dương hệ, nơi tiếp xúc giữa thái dương hệ của
chúng ta và
vũ trụ bên ngoài.
Khám
phá này rất quan trọng vì nó không chỉ là kết thúc chuyện
huyền thoại về dãy Kuiper Belt mà còn tạo ra một hướng mới trong việc
giải
thích và chứng minh sự hình thành thái dương hệ của chúng ta.
Thiên
thạch mà cô Jane Lưu phát hiện là thiên thạch đầu tiên
trong dãy Kuiper (Kuiper Belt) – một vùng không gian chứa đầy những
mảnh vụn
thiên thể được xem là những mảnh vụn khi thái dương hệ của chúng ta
hình thành.
Vào
năm 1951, một nhà thiên văn người Mỹ gốc Hoà Lan đã đưa
ra một gỉa thuyết rất quan trọng là có một dãy vật chất nằm bên ngoài
hành tinh
xa nhất trong thái dương hệ của chúng ta. Giả thuyết này có tên của ông
ta là
Kuiper Belt. Thế nhưng, trong vài năm, chẳng có mấy ai quan tâm đến giả
thuyết
Kuiper Belt này.
Thế
nhưng, giả thuyết Kuiper Belt này lại hấp dẫn cô gái
Việt Nam
vào năm 1987, lúc đó là sinh viên năm thứ nhất cao học tại viện đại học
MIT. Cô
Jane Lưu kể lại: “Lúc ấy, mọi người nói với chúng tôi là Kuiper Belt là
một ý
tưởng hoang đường (hokey idea), và chính vì thế, chúng tôi không được
hỗ trợ,
giúp đỡ cho việc tìm kiếm Kuiper Belt”. Cô ta và vị cố vấn của cô ta là
David
Jewitt đã tự bỏ tiền túi ra để đài thọ cho công việc nghiên cứu này
trong thời
kỳ khởi đầu.
Và
họ, Jane Lưu và David Jewitt, đã chứng minh cho những kẻ
hoài nghi đối với giả thuyết Kuiper Belt là sai lầm. Sau khi hai nhà
thiên văn
trên, trong đó có người con gái Việt Jane Lưu, đồng khám phá ra thiên
thạch đầu
tiên trong dãy Kuiper Belt thì các nhà thiên văn khác và những nhà khoa
học
khác bắt đầu lao vào công cuộc săn tìm các thiên thể và sự hình thành
của
Kuiper Belt, mà từ đó, tạo ra những ý tưởng mới giải thích sự hình
thành của
thái dương hệ của chúng ta. Cho đến nay, trên 60 thiên thạch đã được
khám phá
trong dãi Kuiper Belt, nhưng các nhà thiên văn và khoa học gia ước đoán
có tới
khoảng 70 ngàn thiên thạch trong dãy Kuiper Belt này.
Cuộc
săn tìm những bí ẩn trong dãy Kuiper Belt trở thành một
cuộc săn tìm kho báu trong vũ trụ mà trong đó tên tuổi của người “thợ
săn” tiền
phong Jane Lưu là một tên tuổi lớn, bởi vì Kuiper Belt đang ẩn chứa
những dấu
vết bí mật của nguồn gốc hình thành thái dương hệ của chúng ta. Một ví
dụ cho
nhận xét này là hành tinh Pluto (Diêm Vương Tinh, hành tinh thứ 9 tính
từ mặt
trời) thật nhỏ và được cấu trúc bằng đá và nó hoàn toàn khác hẳn với
những hành
tinh lân cận, to đùng và bằng khí hơi như Neptune (Hải Vương tinh, hành
tinh
thứ 8 tính từ mặt trời) và Jupiter (Mộc Tinh, hành tinh thứ 5 tính từ
mặt
trời). Chính vì thế, hiện nay, các nhà thiên văn tin là thật ra Pluto
có thể
cũng chỉ là một vì thiên thạch quá khổ trong dãy Kuiper Belt mà thôi.
Cô Jane
Lưu nói: “Chúng tôi đã phát hiện có hàng triệu thiên thạch ngoài đó,
bên mép
rià thái dương hệ, trong dãy Kuiper Belt, giống như hành tinh Pluto
vậy.” Cô
Jane Lưu nói thêm: “Khám phá này hoàn toàn thay đổi nhận thức của chúng
ta định
nghĩa hành tinh là gì…”
Khám
phá của cô Jane Lưu về sự hiện hữu của Kuiper Belt mà
trước đó bị hoài nghi là rất quan trọng, mang tính chất cách mạng, bởi
nó làm
thay đổi nhận thức về: Thế nào là hành tinh, về sự hình thành thái
dương hệ, về
thế giới vật chất xung quanh và ngoại vi thái dương hệ,…
Khám
phá của cô gái Việt thật là tuyệt vời, đi vào lịch sử
của những phát hiện lớn của nhân loại.
Như
trên đã nói, ngoài những phát hiện chung với đồng
nghiệp, Jane Lưu còn phát hiện riêng cho mình, chỉ mình cô thôi vì
thiên thạch
khác trong dãy Kuiper, và chính vì thế vì thiên thạch đó mang tên cô,
tên “5430
Lưu” (The asteroid 5430 Luu is named in her honour). Và cô ta đã được
tặng danh
hiệu Annie J. Cannon Award in Astronomy vào năm 1991,
Cô
là một giáo sư đại học, nhưng nay đã bỏ nghề, và hiện
đang làm việc tại Lincoln Laboratory (Phòng thí nghiệm Lincoln) tại
viện đại học MIT.
Ngoài
sức hấp dẫn của vũ trụ, cô Jane Lưu còn bị một sức thu
hút khác là du lịch đến các vùng xa đất lạ trên hành tinh của chúng ta
(xin đọc
bài phỏng vấn cũng trong số báo này của Cali Today) như cô từng đi trên
những
con đường đất đến Tây Tạng, Nepal, Mongolia (Mông Cổ), Madagasca,…
Và
vào ngày 15 tháng 10 tới, cô gái Việt huyền thoại ấy, cô
gái có cái tên được đặt cho vì thiên thạch, cô gái đã chứng minh dãy
Kuiper
Belt là có thật chứ không phải là ý tưởng hoang đường, cô gái góp phần
quan
trọng cho thế giới nhận thức lại sự hình thành thái dương hệ, sẽ có mặt
trong
đêm Đại Nhạc hội Đêm Cali 2005 và trong chuyến đi Tình Ấm Muà Đông 2
vào ngày
sau đó tại San Jose. Cô rất bận rộn, cũng như Lê Duy Loan, nhưng cố
gắng để đến
San Jose để cùng các bạn trẻ San Jose thắp lên ngọn lữa thương yêu và
tôn kính
thế hệ cha anh, vì nếu không có tình yêu vô bờ bến, sự hy sinh vô bờ
bến của
thế hệ phụ huynh, thì những đóa hoa trẻ người Việt tại hải ngoại sẽ khó
thể trổ
hoa, kết trái, thành danh,… như ngày hôm nay.
Trong
ý nghĩ đó, khoa học gia Lê Duy Loan, thiên văn gia
Jane Lưu, và nữ đại úy bác sĩ Cẩm Vân từ hạm đội Kitty Hawk Thái Bình
Dương, nữ
xướng ngôn viên CBS Leyna Nguyễn,… sẽ bay về San Jose để cùng những
người trẻ
khác tri ân thế hệ sinh thành vì không có mồ hôi, tình yêu và sự hy
sinh của
thế hệ trước,… thì khó thể nào có được một thế hệ tuyệt vời của người
Việt trẻ
hải ngoại như hiện nay…
Jane
Lưu như một vì sao lạ sẽ bay về San Jose trong suy tưởng và tình cảm
ấy.
Nguyễn
Ninh Hòa
20
câu hỏi dành cho Jane Lưu.
Tôi thích nhất là câu châm
ngôn này “Vĩ nhân là do 1 phần trăm thiên phú và 99% là do đổ mồ hôi!”
Cali
Today News – Tòa soạn Cali Today giới thiệu đến quý độc giả một bài
phỏng vấn
trên báo Mỹ về thiên văn gia Jane Lưu như dưới đây.
1.
Là một nhà thiên văn học, công việc của cô là gì?
-
Tôi là nhà thiên văn chuyên về quan sát và thu thập các dữ
kiện với một kính viễn vọng. Có hai loại nhà khoa học về thiên văn,
loại đề ra
các lý thuyết và loại đi điền dã với các dụng cụ, như kính viễn vọng.
Cả hai
đều cho phân tích các dữ kiện và cho in các thành tựu của mình thành
sách sau
đó. Tôi thuộc vào loại thứ hai.
2.
Như vậy thì cô phải luôn luôn nhìn lên các vì sao?
-
Cũng nhiều, nhưng không nhiều hơn một người bình thường
đâu. Hồi nhỏ tôi cũng hay ngắm sao trời, nhưng nào có dụng cụ gì đâu.
Sau này
khi thăm viếng Viện Jet Propulsion Laboratory, tôi tình cờ thấy các bức
ảnh do
phi thuyền Voyager chụp, tôi nói: “Wow, có người đi làm chuyện chụp
ảnh, nghiên
cứu như thế này như một nghề sao?”. Thế là từ đó tôi… bước chân vào
nghề đó.
3.
Tuổi thơ của cô ở đâu và cô thích làm gì lúc còn nhỏ?
-
Tôi lớn lên ở miền Nam VN và làm những chuyện như mọi đứa
bé gái khác. Tôi vui đùa cùng chúng bạn. Tôi thích đi học lắm, được làm
bài tập
là niềm vui lớn.
Cha
tôi dạy chúng tôi tiếng Pháp và tôi cũng thích tiếng
Pháp lắm. Trong một thời gian dài, VN là thuộc địa của Pháp vì thế mà
cha tôi
thông thạo Pháp văn. Tôi được gửi đi học ở một trường Tây với sự nâng
đỡ của
cha mình. Tôi thích mấy bài học ở trường Tây lắm, cũng như mấy bài tập
ở nhà
vậy.
4.
Gia đình cô có mấy anh chị em?
-
Tôi có 2 người em và 1 bà chị. Tất cả chúng tôi đều được
sinh ra ở miền Nam VN.
5.
Tại sao gia đình cô rời khỏi VN? Lúc đó cô bao nhiêu
tuổi?
-
Khi chiến tranh chấm dứt tôi được 12 tuổi và lúc đó cha
tôi là thông dịch viên của quân đội Hoa Kỳ, nghĩa là giúp đỡ cho các
người quân
nhân Mỹ và VN hiểu nhau. Vì cái nghề của cha tôi, nếu chúng tôi mà
không tìm
cách thoát ra khỏi nước sau năm 1975 là có rắc rối to. Ai cũng tìm cách
thoát
thân. Cha tôi biết là chúng tôi phải ra đi. Một hôm, ông về bảo: “Chúng
ta phải
ra phi trường”. Trong lúc chúng tôi ngồi đợi trong nhiều ngày liền thì
cha tôi
đi tìm người quen để tìm cách di tản. Cuối cùng sau vài ngày, cha tôi
biết có
một chiếc vận tải cơ sắp ra đi. Chúng tôi cố gắng lên chuyến bay đó.
Thật là
may, vài bữa sau chúng tôi đi được. Ban đêm chúng tôi phải lang thang
đâu đó ở
phi trường vì đâu có được về nhà.
6.
Cảm giác bỏ lại quê nhà lúc đó ra sao?
-
Cũng buồn, nhưng rất vui. Hồi đó còn nhỏ nào có biết nguy
hiểm là gì đâu. Cha mẹ chúng tôi cũng có nói gì đâu. Bỏ lại bạn bè và
người
thân thì cũng đâu vui gì. Mỗi đứa có cái túi nhỏ đựng quần áo. Tôi cố
nhét vào
cái hộp viết chì màu mà tôi thích nhất mà không dám nói cho mẹ biết, sợ
bị la.
Tôi thích hộp viết chì màu đó lắm!
7.
Cô phải sống trong trại tị nạn bao lâu? Cả nhà có sống
chung với nhau không?
-
Khoảng 1 tháng hay 1 tháng rưỡi gì đó. Cũng khá lạ và đặc
biêït vì… chả có chuyện gì làm ngoài chuyện chờ đợi. Không có trường
học gì
hết. Tôi cảm thấy sống trong trại rất an toàn nhưng kỳ cục là không có
làm gì
hết. Có nhiều người tìm cách ra trại nhưng khó lắm, vì đa số họ không
nói được
tiếng Anh và không có nghề nghiệp gì. Dì của tôi sống ở Kentucky vì dì
lấy một ngưới lính Mỹ. Nghe
chúng tôi thoát được, dì bèn tìm cách đến thăm. Có chương trình là ai
có thân
nhân sẽ được bảo lãnh ra đi. Chúng tôi khá may mắn là sống chung với
nhau cho
đến ngày đi Mỹ, có người phải bị tách ra đó.
8.
Học tiếng Anh có khó không? Cô có bạn bè không?
-
Cũng dễ thôi vì tôi đã có vốn tiếng Pháp nên tôi cũng học
nhanh lắm, nhưng chúng tôi quả thật là mấy đứa nhóc đầu tiên đi học ở Kentucky mà lại
không
sinh đẻ ở đây. Mấy đứa nhóc khác toàn là dân Mỹ, chỉ có chị em chúng
tôi là con
nít ngoại quốc mà thôi.
9.
Môn nào cô thích trong trường? Môn nào chuẩn bị cho nghề
nghiệp của cô?
-
Tôi học khá giỏi. Có lẽ tôi thích toán và môn viết nhất.
Giỏi toán có lợi lắm, nhất là sau này nếu bạn muốn đi vào ngành khoa
học. Nhưng
nếu làm việc trong phòng thí nghiệm thì bạn cũng không cần giỏi toán
làm chi.
Toán chỉ giúp ích cho nhà khoa học thuần lý mà thôi, chứ không giúp
nhiều cho
nhà khoa học thực nghiệm. Nếu bạn là một nhà khoa học kiểu như địa
chất học
hay sinh học thực nghiệm thì toán không cần đâu. Bạn biết không, không
cần giỏi
toán bạn vẫn có thể là một nhà khoa học giỏi mà.
10.
Môn nào có vẻ khó nhất? Có giống như ở VN không?
-
Không có môn nào khó lắm đâu. Ở Mỹ môn nào cũng dễ. Hệ
thống giáo dục ở VN khắc nghiệt hơn vì dựa vào của người Pháp nên
chuyện học
thuộc lòng là quan trọng. Ngay từ tiểu học hay mẫu giáo là đã có một
đống bài
tập về nhà làm rồi! Học ở trường Mỹ dễ hơn nhiều, vì chỉ yêu cầu học
sinh hiểu
chứ không phải nhớ thuộc lòng. Vì thế tôi nghĩ giáo dục kiểu Mỹ hay hơn.
11.
Cô đã làm được cái gì mà cô cho là lớn lao nhất?
-
Có thể là khi cùng với Dave Jewitt, tôi và các bạn khám
phá ra vành đai Kuiper Belt, phải mất tới 5 năm! Ai cũng hỏi tôi là làm
sao
khám phá ra được vành đai này, chỉ hoài công thôi, vì nó đâu có thực!
Vậy mà
cuối cùng cũng tìm ra. Đó là thành tựu khá nhất của tôi, nếu tính theo
kiểu nói
thuần tuý khoa học. Tôi nghĩ là mình có nhiều may mắn, tôi đã du lịch ở
nhiều
nơi và “đáp xuống trúng ngay chỗ mà mính thích”. Cùng với sự kiên trì
và nhiều
may mắn, bạn có thể làm được nhiều chuyện đó. Chúng tôi đến Mỹ như
những người
tị nạn. Chúng tôi đâu có tiền của gì đâu, nhưng tôi cũng cố gắng làm
được nhiều
chuyện. Tôi chưa có cái passport vậy mà tôi đi du ngoạn được đấy.
Tôi
thích phiêu lưu, như đi Nepal chẳng hạn. Tôi không
có một
đồng xu nhưng gặp một phụ nữ đang làm việc cho USAID (Cơ Quan giúp Phát
Triển
Quốc Tế). Cô ta nói: “Nếu tình cờ cô có đi trong khu vực của tôi thì
nhớ ghé
thăm tôi nhé. Cô có thể ở lại với tôi đấy.” Tôi nói: “OK” và tìm cách
có tiền.
Tôi nghĩ chỉ có tiền máy bay là quan trọng thôi rồi sau đó là tự lo
được. Khi
đến nơi, tôi tìm các công việc tình nguyện và tìm ra Viện “Save the
Children”.
Họ nói: “OK, cô dạy học được không? Chúng tôi sẽ chở cô đến làng chúng
tôi, cô
có thể tá túc ở đó và có thể dạy học.” Tôi bằng lòng. Tôi dạy ở đó được
đâu 1
tháng rồi cơ hội chợt đến là do Tây Tạng mở cửa biên giới giữa Tây Tạng
và Nepal.
Bạn phải
chộp ngay cơ hội này vì không có nhiều đâu. Các tình nguyện viên của
Peace
Corps được lắm. Họ nói, khi tôi tìm tới họ: “Ô chúng tôi sắp đi đây…”
Tôi nói:
“Chà, tôi đi theo quý vị được không?” Họ nói “được là cái chắc”. Tôi
đâu phải
là thành viên của họ đâu, vậy mà tôi đi bất cứ nơi nào mà họ đi và
trong suốt
mùa hè đó tôi đi khắp Tây Tạng và Nepal.
Tôi chỉ có may mắn thôi, nhiều may mắn. Thí dụ như “đáp
xuống” nghề thiên văn học chỉ từ một lần đi thăm Jet Propulsion
Laboratory là
đủ. Tôi đâu có biết người ta có thể kiếm sống như một nghề là thiên văn
học.
Hết xẩy, tôi nhào vô liền. Suốt đời đúng là tôi gặp may.
Tôi
nghĩ nhẫn nại sẽ đưa bạn đi xa. Có may mắn và nhẫn nại,
bạn sẽ tiến bộ ghê lắm. Tôi thu xếp có được một cuộc sống hấp dẫn, tôi
đi
nhiều, tính tôi vốn thích như thế và tôi cũng làm được chuyện tốt đẹp ở
môn
thiên văn.
12.
Gia đình cô nghĩ sao về việc làm của cô?
-
Cha mẹ tôi có biết gì về khoa học đâu, vì thế khi tôi có
bằng tiến sĩ, họ rất hãnh diện, họ nghĩ là tôi đã thành danh rồi, nhất
là khi
tên tôi xuất hiện trên các tạp chí, báo chí và đôi khi cả trên TV nữa.
Họ không
hiểu nhiều về chuyện tôi làm nhưng họ nghĩ chuyện tôi làm chắc phải
“good”
lắm!
13.
Cô đã đi thăm nước nào? Cô thích nơi nào nhất?
-
Tôi du lịch nhiều lắm, đến Nepal và Tây Tạng, đi khắp nơi
ở châu Âu, có qua Đức nữa, Đông Đức đấy, trước khi Bức Tường Bá Linh
sụp đổ. Có
khi đi du lịch mà lại không có passport, thật đấy, khi đó, bạn phải đối
phó với
đủ mọi thứ. Người Đông Đức đâu có ưa chuyện này. Chúng tôi đi du lịch
theo
trường học từ Tây Đức sang Đông Đức, nhiều lần lắm. Đối với người khác
thì
không sao, nhưng đối với tôi là “có sao” đấy. Lúc đó tôi đang học ở Đại
Học
Stanford. Đi theo thầy cô sang Đông Đức. Thầy cô thường để tôi sau
cùng, vì hễ
tới phiên tôi trình giấy tờ là có chuyện. Không sao, tôi lo được mà.
Tôi làm
sao ư? Đi về Mỹ ư? Hỏng có chuyện đó đâu!
14.
Cô gặp chồng cô ở đâu vậy?
-
Chồng tôi, anh Ronnie là một nhà thiên văn. Ảnh chuyên
nghiên cứu các thiên hà. Chúng tôi gặp nhau ở một đại học ở Hòa Lan gọi
là Đại
học Leiden,
rất nổi tiếng, ở đó có phân khoa về thiên văn cổ nhất Châu Âu.
15.
Cô làm gì ở Hòa Lan?
-
Người Hòa Lan nổi tiếng là những nhà khoa học về thiên
văn. Công trình nghiên cứu của họ tốt đẹp lắm. Tôi nạp đơn xin dạy ở đó
và được
nhận. Tôi dạy bằng Anh ngữ vì tiếng Hòa Lan của tôi không giỏi. Sinh
viên hỏi
tôi bằng tiếng Hòa Lan và tôi trả lời bằng tiếng Anh. Thu xếp như thế
cũng ổn
thỏa cho đôi bên. Tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế bắt buộc cho ngành
thiên văn
nên các nhà thiên văn Hòa Lan đều biết Anh ngữ.
16.
Cô thích làm cái gì ngoài thiên nhiên?
-
Tôi thích chạy, đạp xe và bơi lội. Trong một ngày mà chơi
3 môn phối hợp như thế thì thích lắm.
17.
Hiện nay cô đang làm gì?
-Tôi
đang chế tạo dụng cụ cho một Lab tên là “Lincoln Labs”,
một chi nhánh nghiên cứu của Viện MIT. Tôi làm việc trong ngành chế tạo
dụng cụ
cho vệ tinh. Tôi không còn quan sát bầu trời nữa, nhưng nếu sau này có
dịp, tôi
sẽ quay lại ngành thiên văn. Tôi hết dạy học rồi. Tôi muốn quay về Mỹ
sống. Đó
là lý do chính đấy. Tôi không muốn ganh đua nữa đâu. Làm việc khoa học
hàn lâm
mệt lắm vì phải có tài chính cung cấp mới đi đây đi đó được. Không có
học bổng
là chả có làm gì được. Bây giờ tôi thảnh thơi hơn, không còn trách
nhiệm lớn
nữa. Tôi không muốn leo lên nấc thang danh vọng. Làm việc như hiện nay
cũng thú
lắm rồi. Nhiều người tưởng tôi “khùng” khi bỏ chức giáo sư, nhưng tôi
lại thấy
hạnh phúc.
18.
Cô có hobbies gì không?
-Tôi
thích âm nhạc, nhất là đàn cello khi còn ở trung học,
hiện tôi vẫn chơi đàn cello. Hồi xưa tôi đã thích đàn này, nhưng nhà
tôi
nghèo, tiền đâu mua đàn. Phải đi dạy đại học mới có tiền chơi đàn này
đấy. Tôi
cũng thích đọc sách, nhất là sách việc thật và người thật, thú vị lắm!
Trong
cuộc sống luôn luôn có chuyện hay ho để làm. Tôi không còn đi du lịch
nhiều
nữa, nhưng sau này tôi sẽ đi trở lại. Tôi không bao giờ nghĩ là mình
ngưng việc
khám phá những mới lạ của thế gian đâu!
19.
Cô có nghĩ là giỏi ngoại ngữ đã giúp cho cô nhiều không?
-
Nhiều lắm, nó giúp tôi vào được các đại học lừng danh. Khi
mới đến Mỹ, nhờ giỏi ngoại ngữ, tôi mới học nhảy lớp được. Rồi tôi vào
Stanford. Đặc biệt khi du lịch, giỏi nhiều thứ tiếng có lợi lắm, nhưng
nên học
ngoại ngữ khi còn nhỏ vì tụi nhỏ học dễ biết bao! Khi đã là người lớn,
bạn cũng
có thể còn học được, nhưng học được bao nhiêu là do trình độ ngoại ngữ
của bạn
đấy. Có người học ngoại ngữ giỏi hơn người kia.
20.
Cô có lời khuyên nào cho giới trẻ?
-
Hãy nhẫn nại, đó là bước đầu chắc chắn đưa tới thành công.
Thông minh thì tốt nhưng đâu phải ai cũng thông minh đâu, nhưng nếu bạn
kiên nhẫn,
bạn sẽ tiến rất xa. Khi bạn đã chú tâm vào cái gì rồi, thích cái gì rồi
là bạn
không “buông ra” được nữa đâu. Và thình lình sáng kiến sẽ bật ra. Có
người có
sáng kiến thường xuyên, còn bạn, khi nẩy sinh ra ý gì, bạn có thể lựa
chọn tiến
tới luôn hay đợi ở đó.
-
Ông đồng nghiệp Dave Jewitt chỉ cho tôi thấy: “Cô biết đấy
thiên hạ thích chữ “xuất sắc” lắm. Họ thích tôn thờ anh hùng và nói “Ô,
cái ông
nhà thiên văn này là xuất sắc đó nghe. Không phải, ông ta chỉ yêu thích
cái ông
ta đang làm. Tất cả chỉ có thế.”
-
Nếu bạn thích cái gì, bạn sẽ nghĩ ngợi thường xuyên tới
nó, ân cần với nó, rồi một ngày ý nghĩ thiên tài sẽ bật ra trong óc
bạn. Bạn mà
nhẫn nại và kiên trì với công trình của mình, bạn sẽ sáng tạo ra cái gì
đó. Bạn
mà mê say là bạn đã đi được nữa đoạn đường rồi đó. Tôi thích nhất là
câu châm
ngôn này “vĩ nhân là do 1 phần trăm thiên phú và 99% là do đổ mồ hôi!”
[Cali Today].
|