Anh Môn
Hà Nội là cái quái gì!
Tôi còn Mai Thảo yêu vỡ
Hà Nội khi về
Thanh Tâm Tuyền
Le Grand Maulnes (1913), Mặc
Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác
phẩm, cũng
nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần
Cuối Cùng
Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott
Fitzgerald đã
từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư
cho tôi
hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.
Nhưng
đâu chỉ Anh Môn, mà tác
giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả -
nổi tiếng,
lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ
riêng,
gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất,
The Lost
Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư
vào năm
1911 của Alain-Fournier:
"Tôi
mê điều huyền diệu
chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái
thứ
huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
[I like the marvelous only
when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds
it].
Fowles
viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh
Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc
hơn nhiều,
nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.
Đúng
là ao ước về một độc giả
lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi.
Như thể
họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng
bổ, phạm
thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ
không
phải để sàm sỡ!
Tuy
nhiên, Fowles nói, nếu
độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn “Anh
Môn” của Robert Gibson, trong loại sách
hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp, của nhà xb Grant and Cutler,
London,
1986.
Le
Dur Désir De Durer: Ao ước
cương cứng được trường tồn.
Frédéric
Beigbeder truy tìm
nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ
tiếng
Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi
sao đã
mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng
chẳng bao
giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không
phải một
cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như tác
giả của nó, đã viết
cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour”
[Tôi tìm
tình yêu].
Ở
miền nam, Anh Môn có một vị
trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch [Saint-Exupéry]. Ông bạn của
Gấu tôi,
thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà
anh
chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội! Người tình
mà bạn
tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể của bà xã
của anh,
Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi được tin anh
mất, và
xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở con hẻm đường
Trương
Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận. Cô con gái
lớn đã
lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.
Chị
cho biết, thời gian trước
khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không như những ngày
đó đâu.
Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí mến anh
Hiến. Họ
định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn Chương,
nghĩa là
kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến mất cũng tại một quán cà phê. Chị
bùi
ngùi
nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà mấy
người bạn
để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao.
Họ cuống
lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay
tới bệnh
viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ
về
Hà Nội.
Tôi
hỏi: Anh Hiến có ra Hà
Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi bài thơ, không có. Không
có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ cũng chỉ ở trong
đầu anh
Hiến…
Chuyện
như thế này:
Vào những ngày anh Hiến như
sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ lẩm nhẩm ở trong
đầu, một
bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè mới quen, anh đọc
một,
hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong chưa, anh nói
chưa xong,
chưa được…
Rồi anh
mất, và bài thơ đi
luôn cùng với anh.
Lạ một
điều hỏi mấy anh từng
nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó, chẳng ai nhớ, dù chỉ
một từ,
một hình ảnh….
Nghe
kể lại, tôi biết, anh
nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau,
khi làm
tờ Tập San Văn Chương.
Cũng là
những ngày hai đứa luôn
nói về Thơ,
Và, lẽ
tất nhiên, về Huế.
Và Hà
Nội.
Frédéric
Beigbeder viết:
Có thứ tình kiểu
cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ tình thăng hoa kiểu Stendhal;
Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một chiều (coup de foudre
unilatéral).
Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy! Yêu thì đẹp, nhưng trường
kỳ được
yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như vậy, một người đau
khổ, và
một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ, nghĩa là kẻ đi tìm
tình yêu,
chứ đừng làm một kẻ buồn bực.
Và như
tất cả những cuốn tiểu
thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi một điều thật là ác nghiệt,
rằng,
những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa Lạ của Camus, Ông Hoàng
Nhỏ của
Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond Radiguet, 20 tuổi…
Alain-Fournier,
trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy, ngày 22 tháng
Chín năm
1914.
Fowles đọc Anh Môn hồi còn
trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của riêng mình,
Magus, dưới
bùa chú của Anh Môn [“ảnh hưởng rất nhiều bởi Anh Môn”: very much under
its
influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên]. Hơn thế nữa, ông
hành hương
tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác giả của nó.
“Nói gắn
gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình gần gụi với
Fournier
hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Cũng là
thường tình, theo
ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của một cuốn sách mà
bạn đọc
vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn cay đắng khắc
nghiệt
hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời với mối tình
đầu
tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa chú, bởi
vì, trong
rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ bạn đã từng
say mê,
bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ sao…
Con gái
thấy chó đái cũng
cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn chương mà tới tuổi
đầu đời,
khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của sự vật: thời đại
hoàng kim của
nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans littérature]. Nếu ao ước có
nghĩa là
ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ ra, chính là một trong
những
phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái nhìn chó đái cũng
cười,
vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một dòng nước nong nóng,
hồng
hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng mình đã ra khỏi
tuổi thơ,
và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi qua đi và không
hề trở
lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là cái tuổi mà
chúng ta
biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ mộng, rằng
nước mắt là
bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần tới nó” như
cô viết
trong truyện ngắn Những Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn
gọn: đột nhiên,
chúng
ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn nằm ở ngay
trái tim
của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó [… that the
satisfaction of
the desire is also the death of the desire].
Em cứ
hẹn nhưng em đừng đến…
nhé!
Như
bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như
Hà Nội chẳng bao giờ tới được…
Merde!
NQT