*






Simone de Beauvoir: Tinh thần không có giới tính.

(L’esprit n’a pas de sexe)


Như bạn đọc đã biết, bà Aung San Suu Kyi, Nobel Hoà Bình hiện đang đơn thương độc mã chiến đấu với tập đoàn quân phiệt Miến, đòi cho được quyền tự do đi lại ngay trên quê hương xứ sở của bà. Nhân cuộc xuống đường của bà, Jennifer tôi xin được cống hiến độc giả một số dữ kiện về những bậc nữ lưu nổi danh của thế kỷ 20.

Thế kỷ 20 có ba vị "nữ thần" của riêng nó, đó là Simone de Beauvoir, Hannah Arendt và Simone Weil. George Steiner tự hỏi, cho tới nay, liệu có một triết tưởng nào (a philosophic imagination), ở trong số những bậc nữ lưu, xứng đáng để kế bên của Simone Weil? Ông tin rằng, người ta phải có một chiều sâu tâm lý của Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới hiểu nổi Weil. Hai nỗi đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ của con quái vật nhà máy, và thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ Đông Dương.

Hannah Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của thế kỷ hung bạo, trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị.

Còn Simone de Beauvoir?


Những năm tháng của S. de Beauvoir thực sự bắt đầu cùng với sự xuất hiện tác phẩm Giới Tính Thứ Nhì (Le Deuxième Sexe), vào năm 1949. Và nó bắt đầu một cách thật là thê thảm!

Ngay khi những trích đoạn của cuốn sách, được đăng tải trên báo chí, nó, và tác giả của nó, đã bị tấn công tàn bạo, bởi cả phe ta lẫn phe địch, tức cực hữu, đám trưởng giả đầu có sạn (bien-pensant bourgeoisie), và Cộng Sản. Nhưng đây là một vấn đề xưa như trái đất, từ khi Chúa lấy cái xương sườn của Adam, để tạo ra một toà thiên nhiên là bà Eve.

Đây là vấn đề liên quan tới nữ quyền.

So với Pháp, Anh Quốc lại tỏ ra thức thời hơn, đối với nữ quyền. Ở Anh, ngưỡi phụ nữ có quyền đi bầu, là vào năm 1944. Theo Sylvie Chaperon, tác giả cuốn sách viết về Simone de Beauvoir (Những năm tháng của S. de Beauvoir 1945-1970, nhà xb Fayard, Paris), sở dĩ phụ nữ Anh được may mắn hơn phụ nữ Pháp, đó là do Ca-tô giáo ở Pháp nghiệt ngã hơn, đối với phái nữ, so với những xứ sở đa số người dân theo đạo Protestant ở Tây Bắc Âu Châu.

Trở lại với Giới Tính Thứ Nhì, và thái độ của giới trí thức Tây hồi đó. Người thì cho rằng, nó tạo sốc, trong khi một số khác thì coi, đây là những tia sáng mới mẻ soi chiếu vào một cõi tối tăm, ẩm ướt, nơi chốn mà nhà văn người Mỹ, Henry Miller, đã từng cho rằng, đó là cánh cửa mở ra mọi siêu hình học, và tôn giáo, và cũng là nơi Thượng Đế thường xuyên trú ngụ, hay ẩn náu! "Hiện sinh" như Camus, mà còn than phiền, bà làm cho lũ đàn ông như là những thằng khùng, đồ dở hơi (she had simply made men look foolish). Còn nhà văn lão thành Francois Mauriac không chịu nổi chuyện bà cứ thế xài tỉnh bơ, những "thuật ngữ" của giới cầm dao, cầm kéo chuyên môn mổ xẻ cơ thể con người (F. Mauriac disliked her fearless use of anatomical terms). Nhưng hàng ngàn những phụ nữ bình thường đã biết ơn de Beauvoir – một bậc nữ lưu trí thức lạnh lùng, không chồng, không con, quá nửa đời người vẫn chưa có một nơi ăn chốn ở. Nhờ bà mà họ đã được giải phóng ra khỏi gánh nặng chết chóc của những định kiến, và lối sống khuất phục nam giới. Ngay tuần lễ đầu khi sách được xuất bản, đã bán được 22 ngàn cuốn, và trở thành một tác phẩm quan trọng nhất của thế kỷ 20, viết về vấn đề nữ quyền.

Nhưng de Beauvoir đã chọn một thời điểm xấu để xuất bản cuốn sách (1949), theo như Angelica Goodden, người điểm cuốn sách của S. Chaperon viết về những năm tháng của S. de Beauvoir, trên tờ TLS số May 19, 2000. Một phần là do chính giới Pháp những năm sau khi chiến tranh vừa chấm dứt, là thuộc về những gia đình có tư tưởng cố hữu, và một phần, Cuộc Chiến Lạnh leo thang đã dập tắt mọi tư tưởng cấp tiến. Tuy nhiên những ý tưởng về nam nữ bình quyền, nhờ cuộc chiến mà bùng nổ lên (phần lớn là do đàn ông đi ra trận hết, đàn bà ở nhà phải cáng đáng mọi chuyện, còn hữu hiệu hơn là mấy đấng mày râu), thật khó mà dập tắt hoàn toàn. Thực tế là, đàn bà Pháp vẫn bị đàn áp, bởi những định chế mà họ đã phục vụ. Nhà nước còn luôn luôn khuyến khích mấy bà ở nhà trông nom nhà cửa con cái, để "việc lớn" cho đàn ông lo! Thu nhập lớn nhất, là thuộc về những gia đình chồng đi làm, vợ ở nhà trông hai đứa con. De Gaulle cho rằng, giống đực giống cái, mỗi giống có một nơi chốn và một vai trò của riêng nó (each sex had its own place and role), đã từ chối ban cho phụ nữ việc làm trong chính quyền của ông. Tư tưởng "tinh thần không có giới tính" có thể đã được biết tới nhiều, từ thế kỷ 17, nhưng trên thực tế, trong một chế độ phụ hệ, người phụ nữ luôn luôn được coi là "Kẻ Khác". Mặc dù khẳng định nổi tiếng của Simone de Beauvoir, "người ta không sinh ra, nhưng mà là trở nên" (one is not born, but becomes), người đàn bà, vẫn bị coi như là một sức mạnh không giống ai (unusual force).

Nhiều người coi dục tính (sexuality) là mặt trận quan trọng số một trong vấn đề nữ quyền. Giới Tính Thứ Nhì coi giải phóng dục tính là một "sine qua non" (vấn đề sinh tử, không thể bỏ qua được). Độc giả đã nhận ra thông điệp của Simone de Beauvoir, và những năm tháng vinh quang (the glory years) bắt đầu từ giữa thập niên 1950, tiếp tục mãi tới năm 1970. Bà được coi như là một nữ tiên tri, trong xứ sở của bà, là nước Pháp. Hiện nay, Simone de Beauvoir vẫn được coi như là một trong những vị lãnh đạo của phong trào nam nữ bình quyền trên toàn thế giới, mặc dù không phải tất cả những gì mà bà "tiên tri" ở trong Giới Tính Thứ Nhì, đã hoàn toàn đúng, nhất là sự tấn công của bà đối với nữ tính "thiết yếu" ("essential" femininity), nay đã bị đả phá bởi những tác phẩm của Francoise d’Eaubonne (Mặc cảm Diane, Le Complexe de Diane, 1951), hay của Suzanne Lilar (Ngộ nhận về giới tính thứ nhì, Le Malentendu du deuxième sexe, 1969).


Timothy Garton Ash, trong bài viết Cái Đẹp và Con Thú, trên tờ NYR May 25, 2000, cho rằng, ở Miến Điện, không phải giản dị chỉ là một chế độ độc tài quân sự (military dictatorship) mà là quân trị (army-state), giống như đảng trị ở những xứ Cộng Sản. Sĩ quan quân đội lấp ló ở phía sau, và kiểm soát mọi cơ chế, và luôn cả cuộc sống hàng ngày của người dân. Chỗ nào cũng thấy lính. Chi phí quốc phòng, lương lính… chiếm 40% chi phí quốc gia. Ngay cả cơ quan Hồng Thập Tự cũng là một tổ chức bán quân sự. Cơ quan tương tự như Bộ Chính Trị Trung Ương của Đảng CS, do quân đội lập ra, có tên là Hội Đồng Luật Pháp và Ổn Định Trật Tự Nhà Nước (State Law and Order Restoration Council), hay SLORC. Ngay cả cái tên này cũng gợi nên mùi thú! (It even sounds like a beast). Nó gây một ảnh hưởng xấu ở Tây Phương, bởi vậy sau đó, mấy ông tướng đã đổi tên là Hội Đồng Hoà Bình và Phát Triển Nhà Nước (State Peace and Development Council), nhưng những phần tử chống đối nhà nước thì cứ tên cũ mà xài.

Tác giả Ash là bạn đồng học của chồng bà Suu, Michael Aris. Ông chồng đã mất vì bịnh ung thư vào tháng Ba năm 1999. Bà vợ được nhà nước quân đội cho phép tự do đi thăm chồng, nhưng đừng trở về nhé! Thế là bà đành chịu thua! Ông chồng xin được tới chết bên vợ, nhưng nhà nước quân đội Miến lắc đầu. Qua ông chồng, Ash hiểu được một điều, những quan tâm lớn lao nhất của bà vợ, là những phần tử ly khai, những thành phần chống đối ở trong nước sẽ thực hiện được đường lối thay đổi một cách hoà bình (diễn tiến hoà bình, đúng là món đảng ta sợ!), giống như ở Trung Âu (Central Europe). Trong chuyến đi Miến Điện, tác giả Ash đã gặp bà Suu. Một trong những đam mê của bà là văn chương. Những tác giả bà ưa thích là Jane Austen, Dickens, và, không thể tránh được: Kipling, nhà văn người Anh chuyên viết về những xứ sở thuộc địa. Một nhà văn "thực dân", nhưng lạ một điều, bằng sự thất thường, ngẫu hứng của một thiên tài, đã nắm bắt được tinh thần của xứ sở này, trong bài "ballad" Mandalay, mặc dù ông này chỉ rong chơi Miến Điện có vài ngày, và chưa từng đi tới Mandalay. Hai vợ chồng đã đặt tên cậu út của họ là Kim, tên nhân vật chính của một cuốn tiểu thuyết của Kipling.

Hầu hết thời gian Ash và bà Suu gặp gỡ, là nói về chính trị. Giống như Vaclav Havel, người đã đề cử bà lãnh giải thưởng Nobel Hoà Bình, bà Suu tin rằng, chính trị đã tóm lấy bà(she insists that she had politics thrust upon her). Tuy nhiên theo Ash, mặc dù là một nhà viết kịch ly khai, Havel có máu chính trị ở trong người (a natural politician). Đã từng có dịp nói chuyện với ông, Ash nhận ra cả một chiến thuật chính trị ở nơi con người này. Còn bà Suu, tác giả bài viết không tin tưởng một chút nào, về một đường lối chính trị "nhất quán" ở bà. Bà có một "niềm tin", về một hệ thống chính trị mới, mà Miến Điện cần, nhưng lại "mơ mơ hồ hồ", về chuyện, làm cách nào để thực hiện nó. Những người chỉ trích bà, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đã cho rằng bà quá cứng rắn (inflexible), không khoan nhượng (intransigent). Nhưng Ash, qua cuộc nói chuyện, nhận ra một điều, bà nhìn ra sự cần thiết của một giải pháp dung hòa, nếu người ta mong muốn một sự chuyển biến không dựa trên bạo lực. Với một người theo Đạo Phật, đây là điểm quyết định. Và nó bắt đầu bằng một sự kiện: chế độ phải công nhận những kết quả của cuộc bầu cử vào tháng Năm 1990. Tuy nhiên, bà than thở, thời gian cho một giải pháp dung hoà chưa tới, và bây giờ cần phải tạo áp lực hơn nữa, may ra mới đạt được thành quả.


Trong bài phỏng vấn Dương Thu Hương, về thương ước Việt Mỹ, bà cho biết:

-Đối với tôi, đây là một sự kiện tốt đẹp cho dân chúng lầm than của chúng ta… Về mặt người Việt mà nói, thì tôi nghĩ người Việt nào còn thương sáu mươi mấy triệu nông dân ở đây thì cũng chắc phải mừng vì bản hiệp định Mỹ Việt. Về mặt khác, tôi cũng nói với một người bất đồng chính kiến thuộc thế hệ đàn anh rằng, nếu như chỉ vì chúng ta thôi thì tôi muốn Hoa Kỳ cấm vận cho đến tận lúc nào cái chính quyền này nó sụp đổ…

Chúng ta tự hỏi: Liệu có thể coi bản thương ước như là một "compromise", như bà Suu đã từng mong ước, trong một diễn tiến hoà bình, cho Việt Nam?

Jennifer Tran