*









Đỗ Long Vân:

Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung (5)

 

V. Nghệ thuật kể chuyện trong Kim Dung.

 "Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng…"

 "Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu."

 "Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra."

 "Và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung."

 "Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính…"

 "Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao."

 DLV

 
Nhân loại chỉ đặt để ra những vấn đề nó có thể giải quyết.

 Bí mật của vô sản là cái chết của tư bản.

 Marx

 
Sự tương đối hóa những võ công, người ta thấy, đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thủy của sự xung đột giữa họ. Còn lại một thế giới của bạo động thuần túy. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa Tà và Chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái khác và, như một hậu quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô địch. Sự tương đối hóa của võ công đã dẫn tới sự tương đối hóa những giá trị đạo lý thì, ngược lại, sự tương đối hóa những giá trị đạo lý lại đưa tới sự tương đối hóa những võ công. Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu. Nghĩa là truyện không còn là một cơ hội để chiêm ngưỡng, như một nghi lễ đề cao những giá trị đạo lý, những chiến công của người anh hùng mà để tìm, một cách sơ đẳng hơn, cái hồi hộp của sự trông chờ. Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra.

 Tại cái đang xẩy ra người ta cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất hết ý nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn. Cái bí mật của con đao Đồ Long như thế nào mà làm người ta giết nhau? Ai đã xuống tay giết một lúc mấy mươi mạng người của Long Môn tiêu cục? Không lẽ kẻ đã dùng Kim Cương chỉ lực để tra khảo Dư Đại Nham lại là người của Thiếu Lâm? Nhân vật tài hoa, uyên bác, phóng khoáng ấy sao có thể giết người như không để cho cả võ lâm nguyền rủa? Nhưng có gì trong lúc này không là một câu hỏi! Chúng theo nhau đến dồn dập và nhức nhối. Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau. Cái tài của Kim Dung tuy nhiên sẽ dẫn người ta từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Nghi vấn này chưa được giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là ngay người anh hùng cũng không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên một cái gì. Người anh hùng võ hiệp cổ điển vào đời với một ý chí cố định. Và những giai đoạn trên con đường thẳng dẫn chàng đến sự thực hiện của ý chí ấy. Những biến cố trong Kim Dung trái lại là ngần ấy chỗ quẹo tách chàng xa cái hướng đi thứ nhất của chàng. Và đôi khi như Đoàn Dự, chàng cũng không có ý định nào khác hơn là đi chơi, nhưng tình cờ hết bị lôi vào chuyện lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy mình trở thành một cái gì mà mình không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo chàng vào một Bát quái trận đồ, và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự kiện khả nghi. Xưa tất cả đều có ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải không có nguy hiểm nào đe dọa người anh hùng, nhưng nguy hiểm nào thì cũng có thể gọi tên, nghĩa là có giới định và chỉ có ở ngoài. Một sự kiện giờ trái lại là một cửa ngõ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới đầy ban đêm, đầy bất trắc và những ngõ quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ của mọi vật, tất cả đều có thể xẩy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta tới đâu và cái gì chờ đợi người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, trong cảnh nhá nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như bóng tối, không những trùng điệp ở trước mặt mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh hùng.

 Thế giới ngoại tại đã khả nghi, nhưng có khi ngay thân phận chàng ra sao người anh hùng cũng không chắc chắn. Không phải ngẫu nhiên mà truyện võ hiệp mới thường là truyện của người anh hùng đi tìm mình. Khi thì nôm na như một thiếu niên một hôm nào được biết rằng nó chỉ là một đứa trẻ mồ côi và những người nuôi nó không phải là cha mẹ thực của nó. Khi thì thống thiết như Kiều Phong chợt có người tố cáo rằng chàng không phải là người Hán mà lại mang dòng máu Khiết Đan, nghĩa là của một dân tộc chàng coi như tử thù, và cả sự nghiệp chàng như thế đã dựng trên một điêu trác. Khi thì khôi hài như Thạch Phá Thiên từ nhỏ mang cái tên là Chó Lộn Giống, để lớn lên ra đời ai cũng nhận là người của mình, trong khi ngay chàng cũng không biết chàng là ai. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng không quên Âu Dương Phong luyện võ bị tẩu hỏa nhập ma đến nỗi vừa nghe nói có một tên Âu Dương Phong còn giỏi hơn mình vội đâm bổ đi tìm, gặp ai cũng hỏi, "Ai là Âu Dương Phong?", và, "Ta là ai?" Câu hỏi của ông già lộn đầu ấy tuy nhiên người anh hùng nào trong Kim Dung đã không có lần đặt ra? Không phải họ đều là những người không cha không mẹ. Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính và cả thế giới sa đọa trong một tình trạng báo động thường trực, không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng? Đi tìm mình, người anh hùng cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới. Thế giới Kim Dung là một thế giới đang chờ được định nghĩa và truyện Kim Dung chỉ là truyện của cái nghĩa đang thành. Ấy là truyện tầm-đạo trong phương thức của một truyện trinh thám.

 Như trong truyện trinh thám, thoạt tiên người ta chỉ thấy những sự kiện lẻ, bất ngờ và khó hiểu. Tất cả thoạt tiên chỉ có giá trị như những manh mối của một bí mật cần phải truy tầm, như những di tích của một quá khứ phải xây dựng lại, như những mảnh vụn của một toàn thể phải khám phá dần dần. Người ta ngạc nhiên trước những gì đang xẩy ra đến từ cái đã xẩy ra, và công việc giờ, như trong truyện trinh thám, là đi ngược từ hiện tại đến quá khứ, từ kết quả đến nguyên nhân, từ xúc động đến giải thích. Nhưng trước hết phải có xúc động. Những biến cố phải làm người ta ngạc nhiên và gây sự tò mò. Của Ưng Vương chẳng hạn, thoạt tiên người ta chỉ biết một tiếng hú kinh dị giữa trời chiều và những xác chết ông để lại sau một cuộc giết người thần tốc. Nhưng thế cũng đủ để tiếng dội tâm lý trong độc giả còn vọng mãi. Và người ta phải chịu rằng Kim Dung, mỗi lần giới thiệu một nhân vật quan trọng là ông biết sửa soạn những điều kiện để sự xuất hiện của nhân vật ấy đạt tới mức công hiệu tối đa. Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng. Có những nhân vật không có gì để cho người ta nhớ hơn là cách xuất hiện đột ngột lần đầu tiên của họ. Tại một khi đã định nghĩa thì, như một sự kiện đã được giải thích, nhân vật như đã chết và không còn tác dụng tiểu thuyết nào nữa. Nhưng còn là một nghi vấn, còn làm người ta thắc mắc và trông chờ thì nhân vật vẫn còn sống và người ta hiểu tại sao người anh hùng trong Kim Dung chỉ có thể là người anh hùng tập sự, người anh hùng đi tìm mình, người anh hùng chưa thành anh hùng. Các nhân vật khác cũng thế, thoạt tiên người ta chỉ biết có một nửa: khi thì như một người dị thường, tính khí ngang nhiên, võ công trác tuyệt, nhưng thân phận như chìm trong một dĩ vãng xa xôi và thần bí; khi thì như một cái tên truyền tụng trong giang hồ, người ta chỉ nhắc đến trong sự tôn kính và sợ hãi, nhưng chưa ai được thấy mặt bao giờ. Cũng có khi người ta có thể khám phá rằng con người dị thường mà cứ mỗi lần xuất hiện là gây cho người ta một nghi vấn ấy, là cái nhân vật danh chấn võ lâm mà người ta náo nức trông chờ, chỉ là một, cũng như Kim Hoa bà bà, nào ai ngờ, chính là một nhân vật của Minh Giáo đã từ lâu biệt tăm chỉ để lưu trong trí nhớ mọi người cái tên rực rỡ là Tỷ Sam Long Vương. Nhưng tất cả nghệ thuật kể truyện trong lúc này là trì hoãn đến mức tối đa cái giờ xác định căn cước của nhân vật. Mộ Dung Phục có mặt nhất khi người ta chỉ biết chàng như một tiếng đồn trong võ lâm. Sự có mặt trong sự vắng mặt ấy là tất cả sức mạnh của truyện. Nó là nơi của nghi vấn, của trông chờ và mọi sự có thể. Nghĩa là của mọi sự bất ngờ.

 Ai ngờ rằng Mộ Dung Phục, vẫn trong một phong độ phong nhã, thoáng chốc có thể trở thành một kẻ giết người không gớm tay, rằng sự thùy mị của Chu Chỉ Nhược lại sửa soạn cho những tham vọng, những tuyệt vọng và những ác độc khôn lường, rằng tất cả những ân cần của Trương Linh chỉ là một kế hoạch trong một âm mưu dài hạn để cướp con đao Đồ Long. Các nhân vật, người ta chỉ biết cái vai trò của họ, và đùng một cái, họ xuất hiện dưới bộ mặt mà người ta không chờ đợi. Ấy có thể là một mặt nạ khác và cũng có thể là một con người thực chôn vùi trong tâm khảm chợt được một biến cố nào làm tỉnh giấc như Tạ Tốn nghe tiếng khóc của một đứa trẻ thơ mà tìm thấy sự sáng sủa của lương tri. Nhưng cũng có khi, như trong cơn túy sát của Mộ Dung, người ta chứng kiến một đột biến tâm lý.

 Cái bất ngờ, theo định nghĩa tầm thường nhất là cái không ai chờ đợi. Khi thì thê thảm như cái chết của A Chu dưới tay người nàng yêu. Khi thì khôi hài như cảnh một đại ma đầu như Nam Hải Ngạc Thần phải lạy Đoàn Dự, một thư sinh trói gà không chặt, làm thầy. Cũng có khi nó chỉ là một bất ngờ thuần túy, không có giá trị nào khác hơn là sự nên thơ như khi người ta khám phá ra rằng Côn Luân Tam Thánh không phải là ba người mà chỉ có một, rằng đứa ăn mày nhem nhuốc làm bạn cùng Quách Tĩnh là một người con gái đẹp giả trai; rằng Âu Dương Phong, vì học một võ công chép lộn mà trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Lẽ dĩ nhiên cũng có những bất ngờ giả tạo để thỏa mãn nhu cầu xúc động của người đọc, để thêm số dòng và số trang, để thêm đà cho một câu chuyện đã đến chỗ sa lầy. Và cũng có những bất ngờ được sửa soạn hơn để giải quyết một tình thế đã tới chỗ bế tắc.

 Cái bế tắc ấy, người ta thừa đoán, cũng là một bế tắc được sửa soạn. Tác giả cố tình đưa câu chuyện đến một chỗ nghẽn để, khi ấy, mới tung ra một nhân vật mới, một phát giác mới làm tình thế đảo ngược, và câu chuyện lại tiếp tục theo một hướng mới. Khi người ta không chờ gì nữa, khi những nguy hiểm tưởng đã qua khỏi, khi mối hy vọng đã tàn lụi thì tất cả xẩy ra đúng như người ta đã chờ, đúng như người ta đã sợ, đúng như người ta đã mong. Ấy là một thứ bất ngờ bậc hai. Khi Vô Kỵ yên trí rằng mưu kế của vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã thành công và họ đã thoát khỏi tay Kim Hoa bà bà để chỉ còn có việc cùng nhau xây hạnh phúc đến mãn kiếp thì chàng khám phá ra xác chết của họ treo trên một cành cây; khi sau không biết bao nhiêu ngày theo đuổi, Đoàn Dự lấy được tình yêu của Vương Ngọc Yến, người ta đã thở dài nhẹ nhõm thì tin đâu sét đánh, điều mà người ta nghi ngại được chứng thực: Vương Ngọc Yến là con của Đoàn Chính Thuần và là em khác mẹ của Đoàn Dự, và thế là hai người không thể lấy nhau. Sự bất ngờ khi ấy đến như một sự thiếu: cái mà người ta tưởng thế nào cũng xẩy ra lại không xẩy ra. Nhưng giữa lúc người ta đang tuyệt vọng không biết câu chuyện sẽ ra sao thì, đùng một cái, lại có tin rằng Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là của Đoàn Diên Khánh, người đáng lẽ trị vì nước Đại Lý và vẫn lưu vong chờ cơ hội cướp lại ngai vàng. Cái tin ấy lại đảo ngược một lần nữa. Nó trả lại Vương Ngọc Yến cho Đoàn Dự. Hơn thế nữa, cái ngai vàng nước Đại Lý, chàng trở nên người thừa kế xứng đáng nhất. Tất cả sau cùng đều xẩy ra theo thông lệ: người anh hùng sẽ lấy vợ và làm vua. Người ta có thể nghĩ rằng để đi đến kết luận cổ điển ấy có lẽ Kim Dung không cần phải bày ra nhiều chuyện như thế. Nhưng nếu không như thế, nếu không phải trải qua một cơn tuyệt vọng thì cái kết luận ấy còn giả tạo tới đâu? Tới sau một sự bế tắc cố ý thì sự giả tạo ấy lại xuất hiện như một chứng cớ của cái tài biến hóa của tác giả. Giả tạo một ít thì hỏng. Nhưng giả tạo hơn một ít nữa thì Kim Dung lại trả cho sự bất ngờ cái nên thơ của nó.

 Sự thật thì ông có thể để yên cho Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và kế vị Đoàn Chính Thuần làm vua mà không ai thấy gì là trái cựa, và những tình thế kế tiếp đảo ngược ở phút chót, thoạt tiên, vừa có vẻ thừa và quá lôi thôi. Nhưng truyện không phải chỉ là truyện của Đoàn Dự. Không có những sự đảo ngược tình thế ấy thì nhân vật Đoàn Diên Khánh người ta biết xếp vào đâu? Hình như nhân vật mà người ta vẫn chỉ biết như ác tinh của nhà họ Đoàn tới đó mới tìm ra lý do cho vai trò của nó là để trả cho Đoàn Dự cùng một lúc, cả tình yêu và ngai vàng. Và cái kết luận mà người ta tưởng là dàn xếp ở phút chót ấy, giờ, người ta mới biết rằng với nhân vật Đoàn Diên Khánh nó đã được định từ những trang đầu. Cảm tưởng sau cùng của người ta là một tổ chức cực kỳ chặt chẽ không để gì xảy ra một cách tình cờ, và trong ấy cái bất ngờ chỉ là đáp thuyết thích hợp nhất cho một tình thế tưởng không thể nào gỡ nổi. Người ta cho rằng đáp thuyết ấy là bất ngờ. Nhưng bất ngờ nhất phải chăng là khi người ta thấy rằng cái bất ngờ ấy đã được sửa soạn từ lâu? Khi trông thấy Tiểu Siêu lần đầu thì Phạm Dao chợt giật mình. Nhưng cái giật mình nhỏ nhoi ấy gần như không ai buồn chú ý, báo hiệu kết cục của truyện kể khi Tiểu Siêu được nhận ra là con của Kim Hoa bà bà, và khi ấy người ta mới hiểu tại sao trước những sứ giả của Minh Giáo, nàng phải méo mặt giả làm một đứa con gái xấu xí. Ấy chỉ là một trong những thí dụ của cách bố cục kỹ lưỡng của truyện Kim Dung. Như tất cả các truyện viết đăng từng số một, trong Kim Dung không ngớt xẩy ra những biến cố khả nghi và bất ngờ. Nhưng điều làm truyện của ông vượt xa những truyện cùng loại là trong khi những tác giả khác như thất lạc giữa những sự kiện mà họ thả sức tung ra cho đầy trang giấy để sau cùng không ai biết kết luận ra sao thì trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng.

 Nhưng trong sự mạch lạc ấy, ẩn sau những nghi vấn rối như tơ vò, người ta có gặp gì hơn là một đặc tính của truyện trinh thám? Như trong truyện trinh thám, công việc là tìm cho một số sự kiện khó hiểu mối tương quan thống nhất và giải thích chúng. Ấy là công việc Hoàng Dung đã làm, khi từ những tang chứng để lại trên Đào Hoa Đảo mà tang chứng nào cũng kết án cha nàng, nàng phải xây dựng lại diễn biến vụ thảm sát đã xẩy ra và truy định thủ phạm đích thực. Trên một quy mô lớn hơn thì truyện Đồ Long sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu lý tán. Người ta thấy suốt cuốn truyện xuất hiện thường xuyên những nhân vật mới và cảm tưởng của người ta là đứng trước một trí tưởng tượng không có gì kiềm chế. Ngần ấy nhân vật tuy nhiên sau đều được phát giác là những nhân vật thất lạc của Minh Giáo và người ta sẽ không ngạc nhiên nếu, khi chức vụ của ai cũng được trả cho nấy rồi, thì truyện coi như đã gần xong. Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hoá học. Mỗi lần khám phá ra một chất mới thì người ta cũng khám phá ra rằng cái chất ấy đã có một ô dành sẵn cho nó trong cái bảng Mendéléev. Ngược lại thì mỗi ô để trống lại đòi sự khám phá ra một chất mới để bù vào. Những nhân vật trong truyện Đồ Long cũng thế, như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo và diễn tiến của truyện, tuần tự theo sự xuất hiện của họ sẽ trả lại cho Minh Giáo bộ mặt nguyên thủy của nó, nghĩa là, dẫn người ta đến một tình trạng có trước của thế giới. Nói tóm lại thì, như trong truyện trinh thám, cái gì mà theo người anh hùng, người ta khám phá ra là một dĩ vãng. Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện. Nếu những biến cố của truyện võ hiệp cổ điển nối tiếp nhau theo một đường thẳng thì truyện Đồ Long được viết theo một vòng tròn. Ấy là một thứ Bát Quái trận đồ: người ta đi bao nhiêu sau cùng trở về chỗ cũ, và sự phức tạp của nó ẩn một sự mạch lạc căn bản. Không phải ngẫu nhiên mà giữa truyện Kim Dung đã bày những trận đồ của Hoàng Dược Sư như một thách đố ám ảnh. Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao.

 Cái nên thơ ấy, người ta sẽ gặp lại trong cách Kim Dung xếp những nhân vật thành từng bộ. Có những bộ ba như A Chu, A Bích, A Tỷ, mỗi người mang một mầu áo; có những bộ tứ như Long Vương, Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương, mỗi người lấy một linh vật làm danh hiệu có những bộ năm như Đông tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, mỗi người xưng bá một phương, và lẽ dĩ nhiên cũng có những bộ bẩy hoặc tám nữa. Sau cùng phải kể đến Quang Minh Lưỡng Sứ, người tên Tiêu, người tên Dao, như sinh ra để cùng đồng hành và được võ lâm xưng tụng là Tiêu Dao nhị tiên. Một điều đặc biệt trong những bộ nhân vật ấy là Bộ có trước nhân vật. Mỗi Bộ thoạt tiên là lược đồ của một guồng máy mà những cơ quan là những nhân vật chờ được sáng tạo. Nhưng một khi những cơ quan đã lập, nghĩa là những nhân vật đã có những chức vụ đang chờ đợi họ thì Bộ, tùy theo những chuyển động riêng của mỗi người, sẽ như một guồng máy có một nhịp chuyển động riêng của nó. Ngược lại thì sự chuyển động của Bộ cũng làm nhân vật chuyển động theo. Nhân vật làm ra Bộ, Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa của nó. Ấy là một chức vụ, một địa vị, một mầu sắc. Tâm lý nhân vật mất quan trọng, và có lẽ Kim Dung, sau khi đã xác định nhân vật như một chiều sâu, sẽ tiến đến một quan niệm về nhân vật giống truyện võ hiệp cổ điển, nhưng được khai thác một cách ý thức và có hệ thống hơn. Sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ. Có những nhân vật tâm lý không có gì đặc sắc nhưng thuộc một Bộ lại có một sự có mặt khác thường Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật chỉ để lại một số hiệu. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức! Và trong truyện ông, Cái Bang, Minh Giáo, Thiếu Lâm, nghĩa là những môn phái có tổ chức to lớn, chặt chẽ, và phức tạp thường giữ một vai trò đôi khi còn quan trọng hơn người anh hùng. Sự phức tạp ấy tuy nhiên Kim Dung không giới hạn vào một môn phái mà đã cho nó kích thước của một thế giới. Ấy là tất cả cái mênh mông của võ lâm trong cảnh ly tán, đa sắc và phồn tạp của nó mà theo người anh hùng người ta sẽ khám phá ra. Người anh hùng không chỉ khám phá ra một thế giới. Cái gì chàng sẽ làm sống lại là cả một giai đoạn của lịch sử võ lâm, và chính trong lịch sử ấy mà chàng sẽ tìm ra lý do đã làm cho võ lâm ly tán, nghĩa là sự mạch lạc trong cảnh ly tán ấy của võ lâm, để sau cùng trả lại cho võ lâm sự thống nhất của nó.

 ***

 Ghi chú:

 "Chiến thắng" của Kim Dung ở Việt Nam, theo tôi, không có nghĩa là nhà nước Cộng Sản, và nhất là những nhà văn của họ đã nhận ra giá trị của ông, và nói theo Đỗ Long Vân: nghi vấn này – việc in lại những tác phẩm đã một thời bị coi là đồi trụy, trong đó có chưởng Kim Dung - người đời sau sẽ giải quyết.

 Nhưng ít ra, có một nhận xét thật tuyệt vời về chưởng Kim Dung, của một tác giả ở trong nước, qua bài viết của Vương Trí Nhàn. Đó là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, "một nhà hoạt động sân khấu nhưng lại rất mê văn học, và cũng mê chưởng, mới đây kể với tôi rằng ông đã phải suy nghĩ nhiều, khi có lần nghe một người lái xe nhận xét: Đọc chưởng của Kim Dung, thấy cái gì cũng bịa, song cuối cùng lại thực, trong khi xem vở kịch của anh A. đọc truyện của anh B. viết bây giờ, biết thêm nhiều chi tiết thực mà toàn bộ cứ như giả khượt." (Vương Trí Nhàn: "Ngoài trời lại có trời", in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", nhà xb Văn Học, Hà Nội).

 Một "chân lý văn chương" mà lại do một anh lái xe đưa ra thì thật tuyệt vời!

 Trên tờ Điểm Sách Paris (The Paris Review interviews, Writers at Work, 6th Series), khi được hỏi bắt đầu viết như thế nào, Gabriel Garcia Marquez cho biết, khi học đại học Bogota, những bạn bè mới quen biết ở đây đã giới thiệu ông một số nhà văn đương thời. "Một đêm, một người bạn cho tôi mượn tập truyện ngắn của Franz Kafka. Khi về nơi trọ, tôi mở ra, bắt đầu đọc ‘Hóa Thân’, và dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra khỏi giường. (The first line almost knocked me off the bed). Tôi quá đỗi ngạc nhiên. Dòng đầu như sau: ‘Buổi sáng đó, Gregor Samsa thức giấc và thấy mình biến thành một con bọ ở trên giường.’ Khi tôi đọc dòng đó, tôi nói với tôi, mình chưa từng gặp một con người nào được phép viết một điều như vậy. Nếu biết, tôi đã khởi sự viết từ đời nảo đời nào rồi."

 Nhận xét của anh chàng lái xe và của nhà văn Nobel văn chương, theo tôi, có một chút gì "tâm đầu ý hợp".

 Nếu độc giả nào đã từng đọc "Cội Rễ Nhà Trời" (Les Racines du ciel) của nhà văn người Pháp Romain Gary, chắc nhận ra một điều: chuyện phịa. Làm gì có một thằng khùng chui rúc mãi tít nơi rừng sâu nước độc, ở tận trái tim của bóng đen, là xứ Phi Châu, để bảo vệ loài voi, sợ nó bị diệt chủng, là hết cột chống trời, là trời sập! Nhưng càng đọc, càng chỉ thấy "sự thực, và sự thực mà thôi", bởi vì cái nhân vật chính ở trong đó còn "người hơn tất cả mọi người", và cuộc chiến đấu tuy bịa đặt, tuy vô vọng đó, bất cứ một con người nào cũng mong được dự phần. Đây cũng là "thiên chức" của nhà văn, nếu anh ta có được một thiên chức, theo Beckett, khi ông định nghĩa, nhà văn là một kẻ bị kết án phải thất bại, "Hãy thua, thua nữa, thua cho bảnh" (Fail, fail again, fail better).

 "Sự kiện" Đoàn Dự uống rượu rồi vận Lục Mạch Thần Kiếm cho rượu theo mấy đầu ngón tay chảy ra ngoài thì bố ai mà tin được, nhưng bất cứ một người nữ nào cũng có thể hy sinh cho người tình của mình như A Chu, và hình như đây chính là "thiên chức" của nàng, một khi Thượng Đế đã ban cho nàng một "cơ may" gặp được chàng!

 "Cội Rễ Nhà Trời" được coi là cuốn "tiểu thuyết sinh thái" đầu tiên, khi cái từ "sinh thái" chưa được biết tới, khi thảm họa môi sinh còn là chuyện "bịa khướt". Thú thật, bản thân người viết cũng không làm sao chịu nổi hình thức văn chương có tên là "tiểu thuyết tài liệu" (roman documentaire). Và càng sợ hơn nữa, thứ tiểu thuyết tư tưởng! Còn nhớ có lần được nghe một nhà văn hải ngoại "tâm sự", cứ mỗi lần ông muốn để cho nhân vật của mình nói lên một tư tưởng gì đó, là thấy như ngường ngượng! Có vẻ như nhân vật tiểu thuyết mũi tẹt không chịu nổi món này!

 Mũi tẹt hay không tẹt, thì cũng "mắm sốt" (même chose). Không phải là không có tiểu thuyết tư tưởng, nhưng thứ này hiếm. Đâu có phải ai cũng có thể viết được những tác phẩm như của Musil hoặc Thomas Mann, hay một "Bóng Đêm Giữa Ban Ngày" (Koestler), với những nhân vật từ đời thực bước thẳng sang tiểu thuyết, như những nhận định của G. Steiner: "Nhưng vâng, đó có thể là ý thức hệ. Tôi may được quen Arthur Koestler, biết được cái điều: ai mà chẳng dám đánh đổi tất cả, nếu viết được một tác phẩm như là Bóng Đêm Giữa Ban Ngày: một trong những hành động tối thượng của tư tưởng. Đối với tôi, đây là một trường hợp biên cương [giữa văn học và ý hệ]. Nó sẽ vẫn còn được đọc, không chỉ vì Gletkin và Rubashov là những nhân vật giả tưởng, mà còn vì những tranh luận về chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Marx, về sự tra tấn, và khủng bố: đâu là bản chất của sự dấn thân tới chết, với ý hệ? Đâu là bản chất của dối trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là một cuốn sách giầu có. Koestler đưa vô, khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó không nghèo nàn như là một kịch bản về ý hệ." (Trả lời phỏng vấn của tờ Điểm sách Paris).

 Và đây cũng là lý do Kundera coi "1984" của Orwell không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là chính trị giả danh văn chương. Ông cho rằng lỗi ở tác giả, đã quá "nghiêm trọng" khi viết văn. Ông khuyên, "đừng nghiêm trọng, cho dù đang viết về những chuyện chết người."

 Nhìn rộng ra một chút nữa, nhà văn, một khi muốn "nhân danh", (hoặc muốn nhét vào miệng nhân vật mình một tư tưởng nào đó), là hỏng! Hỏng ở đây, một phần nào đó, không mắc mớ gì đến tài năng của người viết, đề tài người đó chọn… mà chính là do người viết đã tự trói, hoặc đã thui chột trí tưởng tượng của mình, rồi mới bắt đầu loay hoay tìm cách viết văn!

 Có một câu chuyện ngụ ngôn, về một con hổ muốn biết trí khôn của con người ra sao, đã chịu cho người cày ruộng trói lại, khi nghe người này nói, "trí khôn tao để ở nhà". Một khi bạn muốn "chụp một cái mũ cho văn chương", như vậy là đã "cố tình" bỏ quên trí khôn ở nhà! Trong trường hợp đó, tốt nhất là để cho hổ ăn thịt, cả trâu lẫn người!

 Mô phỏng Kim Dung, chúng ta có thể nói, có hai bí kíp Cửu Âm chân kinh: một, từ ảo qua thực (tiểu thuyết) và một, từ thực qua ảo (tiểu thuyết dởm). Có điều, với Kim Dung, tập luyện thứ nào thì cũng đưa đến kết quả.

 Nói rõ hơn, có tư tưởng, và là thứ xịn, ở trong chưởng Kim Dung,

 ***

 Cũng cùng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta để ý tới những lời phẩm bình Lê Minh Hà, của Y Ban, một nữ tác giả ở trong nước, trong một dịp ngao du hải ngoại. Nếu bỏ qua cụm từ "nhà văn gì gì đó", những nhận xét còn lại của Y Ban, theo tôi, có điều gì hết sức chân thực, và là do cách đọc, cách hiểu văn chương của bà; nói rộng ra, của đa số nhà văn ở trong nước.

 Y Ban coi những truyện của Lê Minh Hà giống như của những học sinh tập viết văn. Và những truyện như thế "chẳng tải gì cả".

 Đúng như vậy! Những truyện ngắn của Lê Minh Hà chẳng tải gì cả, và đây là một điều thật là tuyệt vời! Bởi vì bà đã phải đợi cuộc chiến qua đi, rồi lại đợi, đợi mòn đợi mỏi, cho đến khi không thể đợi được nữa, đành thoát ra ngoài, chỉ để viết những câu chuyện vặt vãnh, "chẳng tải gì cả", về một miền đất. Bạn có bao giờ để ý đến những cánh hoa, sau một trận mưa, đã cố sửa soạn lại nhan sắc, cố giấu những vết thương trên mình, và lại mỉm cười như chẳng có chuyện gì xẩy ra?

 "Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi": tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ… Liệu những cánh hoa như vậy có "tải" được không, và những tiếng vọng, có "nghe" được không?

 Thành thử những "gì gì đó", nào là, sau một thời văn chương vết thương, tới một thời văn chương vết rạn, sau phản kháng tới ly khai, sau chống cộng tới hợp lưu… là toàn những chuyện giả danh văn chương ráo trọi!

 Vẫn trong "Kim Dung tác phẩm và dư luận", Vũ Hạnh khi được hỏi, về những nhận định trước đây, khi còn nằm vùng, và bây giờ, đối với chưởng Kim Dung, ông cho rằng đây chỉ là một thứ "para-littérature", trước đây ông chống, vì nó làm ru ngủ thanh niên trong lòng địch, bây giờ, ta cho in nhưng phải kiểm soát.

[Tôi sẽ trở lại với văn chương phải kiểm soát, trong một dịp tới].

 ***

 "Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì… tội nghiệp quá."

 Câu văn trên, trích từ "Một Thời Gió Bụi", tập truyện ngắn của Nguyễn Khải (nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 1993). Tác giả không định nói về một miền đất, mà là một khí hậu văn chương, khi so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N.

 "Một Thời Gió Bụi" mở ra bằng câu chuyện một làng làm cói. Thuở lẫm liệt, "vào thập niên 1970 có năm họ thu được 9 triệu tiền hàng. Tiền thu đã nhiều mà làm cói lại dễ hơn trồng lúa. Một lần cấy mống cói thu hoạch từ bẩy đến mười năm… Mọi người tin rằng sự ổn định ấy là bất di bất dịch… Vậy mà cái yên tĩnh bây giờ [không còn lo chiến tranh], cái mở ra của bây giờ… đang dồn xã anh hùng vào ngõ cụt…". Thế rồi tác giả bèn quay qua chuyện viết văn, "cũng như những người làm cói, tôi tin tưởng cái nghề viết của bọn tôi sẽ không có gì thay đổi, sẽ mãi mãi vẫn như thế. Nền văn học trong tương lai là nền văn học xã hội chủ nghĩa, làm sao nghi ngờ được… Vậy mà bỗng chốc… bỗng chốc bản thảo đưa tới nhà xuất bản từ nửa năm bị trả lại. Tại sao vậy? -Anh viết chính trị quá, cao siêu quá, bạn đọc sẽ khó mua. –Bạn đọc nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà! –Bạn đọc quen thuộc của anh đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua sách."

 "Nhưng người có tiền là những người đang làm việc, họ còn trẻ, rất trẻ. Hãy viết cho tuổi trẻ đi! Khốn nỗi cái tuổi trẻ hôm nay với tuổi trẻ của bọn tôi lại khác nhau quá nhiều vì thời thế đã thay đổi… Chân lý vĩnh cửu không còn nữa… Tiêu chuẩn bây giờ là tiền. Nó là bản vị của mọi giá trị. Chẳng hạn một nhà văn mà không kiếm ra tiền là nhà văn tồi… Nên ví thân phận anh nhà văn với ai nhỉ? Chắc là phải xếp dưới thầy cúng với thầy bói. Nghề này đang hái ra tiền, vì còn rất cần thiết cho những cái mộng tỉ phú. Chỉ có thể so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N mà thôi. Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì… tội nghiệp quá!"

 Ấy chỉ vì "chân lý vĩnh cửu không còn nữa!"

 ***

 Bất cứ một so sánh nào cũng khập khễnh. Đôi khi khập khễnh "cần thiết" hơn cân đối, hoàn chỉnh, ít ra là trong trường hợp ở đây.

 Người viết đã từng nghe "hơn một nhà văn" ở trong nước chê Nguyễn Tuân. "Những tùy bút sau này của ông dở quá! Thua xa Võ Phiến!", một nhà văn ở trong nước đã nói với tôi như vậy. Anh kể, kỷ niệm lần đầu đụng đầu với văn chương miền nam trước 1975, "Tôi đọc câu thơ của Nguyên Sa, hình như là thế này, ‘Sáng hôm nay Nga buồn như một con mèo ốm…’, và sướng điên lên. Làm sao ở miền bắc lại có một câu thơ ngu ngơ dại khờ tuyệt vời đến như vậy! Làm thơ như thế thì còn quá phản động!"

 Ấy là tôi diễn ý của tôi, khi nhìn anh bồi hồi với "nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang" (thơ Thanh Tâm Tuyền): thì cứ coi như anh lần đầu tương tư Nga, và tiện thể, tương tư câu thơ đi, có chết ai!

 Tôi lạc đề như vậy, là để nói ra điều này: không thể có một thứ văn chương lẫm liệt, và nếu có một thứ văn chương lẫm liệt, thì cái hậu quả tội nghiệp bây giờ là tất nhiên!

 Và nếu Nguyễn Tuân sau này dở quá, cũng là lẽ tất nhiên, theo nghĩa, có thể ông thừa sức để viết hay hơn, thừa sức kiếm ra những đề tài xứng với ông hơn, nhưng ông biết rất rõ: viết hay là bỏ mẹ!

 Bởi vì hãy nhớ lại câu cảnh cáo của Adorno: Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là … "tội nghiệp"! (ông dùng chữ "dã man").

 Hay là mượn ngay một câu chuyện ngụ ngôn của Đông phương, về một con chó chuyên săn hùm beo, bị đánh què chân, chỉ để dùng vào việc săn chuột! Ở đây, Nguyễn Tuân đánh què chính mình, tự tay ném tác phẩm của mình vào thùng rác, vì sợ rằng sau này thiên hạ sẽ hỏi, tại sao một thời đại khốn kiếp như thế mà lại có một thằng viết văn hay như vậy?

 Liệu có thể coi nhà văn đó hèn nhát? Và cái thái độ chê bai Nguyễn Tuân, có phải do quá ghen với tài năng của ông, hay là vì họ Nguyễn phải đợi ba trăm năm sau mới tìm được kẻ khóc mình?

 Liệu chúng ta có thể đi đến một kết luận vội vã: lẫm liệt cho lắm vào, bây giờ tội nghiệp cho đáng kiếp!

 ***

 Cũng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta đọc truyện ngắn "Huyền thoại phố phường" của Nguyễn Huy Thiệp.

 Đây là một câu chuyện mô phỏng "Con đầm bích" của Pushkin. Nghe nói ở trong nước có người "quá ghen" hoặc "quá ngu" đến độ chê họ Nguyễn là đạo văn! Bản thân tôi, lần đầu đọc truyện này, cũng ngạc nhiên, tự hỏi tại sao Nguyễn Huy Thiệp "viết lại" Pushkin, bằng cách đẩy cái không khí huyền hoặc của "Con đầm bích"ù - bạn đọc chắc còn nhớ cảnh tượng "nụ cười" của bà đầm già "bước ra khỏi lá bài" khiến tay sĩ quan phát điên… - vào trong "thực tại" phố phường?

 Một cách nào đó, Nguyễn Huy Thiệp đã nhận ra nhu cầu phải viết khác đi, nếu không muốn làm nhục văn chương, nghệ thuật. Nên nhớ, một khi văn chương phải hạ mình xuống để làm những công chuyện như "phản kháng, ly khai, chống cộng, hợp lưu, giao lưu hoà giải…" một cách nào đó, nó đã bị tổn thương, hoặc đã tự đánh què chính nó, và nếu văn chương có một lương tâm, chắc là nó cũng cảm thấy hổ thẹn! Theo nghĩa đó, Cao Hành Kiện đã cho rằng, đây chỉ là chuyện tri âm tri kỷ mà thôi. Cũng vẫn theo nghĩa đó, những người chê thơ Nguyễn Chí Thiện (không phải là thơ!), đáng lẽ họ phải đặt ngược vấn đề và tự hỏi, nếu Nguyễn Chí Thiện ở trong tù mà còn làm thơ thì… tội nghiệp thực!

 Đây chính là lý do tại sao, khi thiên hạ khen "Bác sĩ Zhivago" của Pasternak, Nabokov đã "bực mình", qua một số câu trả lời phỏng vấn mà người viết trích dịch sau đây.

 Khi được hỏi, ông tiên đoán ra sao, về sức khoẻ của văn chương Nga, Nabokov trả lời:

 Thật khó mà có một câu trả lời giản dị cho một câu hỏi như thế. Vấn đề là, không có một chính quyền nào, cho dù thông minh tới đâu, nhân bản tới đâu, có thể đẻ ra những nghệ sĩ lớn; ngược lại, một chính quyền tồi tệ nào cũng dư sức để mà hành hạ, làm tình làm tội, và hơn thế nữa, bách hại, làm thịt nghệ sĩ. Nên nhớ điều này, vì nó thật là quan trọng: chỉ đám thiếu thẩm mỹ (philistins), mắt mù tai điếc trước nghệ thuật, mới ăn nên làm ra trong mọi chế độ. Bởi vậy tôi chẳng có thể nào tiên đoán gì hết, nhưng hy vọng, lẽ dĩ nhiên, rồi chế độ công an trị ở Liên xô sụp dần rồi biến mất. Trong khi chờ đợi, tôi lấy làm thương hại cho mấy tên ngu đần đã lầm lẫn Staline với McCarthy, Lò Thiêu Auschwitz với bom nguyên tử…

 Khi được hỏi, ông viết cho ai, Nabokov trả lời:

 Tôi không tin một nghệ sĩ lại phải lo lắng đến độc giả của mình. Độc giả số một của ông ta, là cái kẻ mà mọi buổi sáng ông ta nhìn thấy trong gương, khi cạo râu. Tôi cho rằng, khán thính giả độc giả của một nghệ sĩ, mà ông ta tưởng tượng ra được, là những người làm đầy một căn phòng, và tất cả đều mang mặt nạ của ông ta.

 Về cuốn Dr Zhivago, khi Robert Bingham, của tạp chí Reporter, New York, muốn biết ý kiến của ông, Nabokov đã từ chối đưa ra một lời phê bình, sợ có hại cho tác giả. Theo ông, đây là một cuốn sách ủng hộ (pro) bôn sê vích, và sai lầm về lịch sử (historiquement faux), bởi vì đã vờ đi cuộc cách mạng tự do (révolution libérale) mùa xuân 1917; hơn nữa vị bác sĩ đã mừng đến phát điên, khi cú đảo chánh của bôn sê vích xẩy ra bẩy tháng sau đó. Tuy nhiên, ông đánh giá cao Pasternak như là một thi sĩ trữ tình (poète lyrique). Ông chào mừng Pasternak được giải Nobel, chỉ vì những câu thơ của ông ta. Trong Dr Zhivago, văn đã không tới được tầm cao của thơ ông. Ông nói thêm, tầng lớp trí thức Nga không ăn ý với Đảng đã không mặn mà với cuốn sách như là độc giả Mỹ. Khi cuốn sách xuất hiện ở Hoa Kỳ, đám lý tưởng tả phái đã mừng quýnh lên: đây là một bằng chứng cho thấy "một đại tác phẩm" đã được đẻ ra, từ chế độ Xô viết.

 [Về những trích dẫn trên đây, là từ "Strong Opinions" (tạm dịch Bạo Mồm), người viết sử dụng bản dịch tiếng Pháp, "Partis Pris", tủ sách 10/18, nhà xb Julliard, ấn bản 2001].

 Với riêng người viết, chính cái tình trạng tội nghiệp kia, là một dấu hiệu hết sức đáng mừng của văn chương ở trong nước, nếu chúng ta nhận ra cái thông điệp của nhà văn Nam Phi Coetzee, khi viết về trường hợp cuốn Thương Xá (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung thương xá) của nhà văn người Đức gốc Do Thái, Walter Benjamin. Khi Hitler lên nắm quyền ở Đức, Benjamin bỏ chạy qua Paris. Và khi Pháp sắp sửa lọt vào tay Quốc Xã, ông tìm đường tới Hoa Kỳ bằng ngả biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha, ôm theo bản thảo cuốn sách. "Nó còn quan trọng hơn cả tôi, và phải được gìn giữ", ông nói về đứa con tinh thần của mình.

 Theo Coetzee, cuốn "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.

 ***

 Qui est Ky?

 Ky là ai? Đây là câu hỏi của tướng de Gaulle, thời gian hoà đàm về chiến tranh Việt Nam diễn ra ở Paris. Câu hỏi này được báo Tây đăng tải, vì tính ngộ nghĩnh của nó (một trò chơi chữ), nhưng còn vì những hành vi "ngộ nghĩnh" của Nguyễn Cao Kỳ, khi, thay vì họp, ông kéo bà vợ "Duyên Kỳ Mai" đi trượt tuyết, hoặc chứng kiến ông biểu diễn lái phi cơ phản lực, hoặc vì tính "ngộ nghĩnh" của hòa đàm, hai, ba hay bốn bên; bàn tròn, bầu dục, hay vuông; rút quân trong danh dự hay cuộc tháo chạy tán loạn….

 Nhắc tới Nguyễn Cao Kỳ, vì có một thời, "Cô Gái Đồ Long" là tác phẩm ruột của ông, và từ đó, của binh chủng không quân. Ông cũng từng được một nhà thơ miền nam, nhân chuyện ông và Nguyễn Văn Thiệu hục hặc, coi là Vô Kỵ, qua câu thơ:

 "Ông về ông kẻ lông mày tí chăng?"

 ***

 Có ít nhiều tương đồng giữa Weil và Đỗ Long Vân.

 Weil là học trò đắc ý nhất của Alain. Simone Pétrément, người viết tiểu sử của Weil cho biết, ngay từ hồi đi học, Weil đã chịu ảnh hưởng của ông thầy, từ nỗi quan hoài trước bất công, tới chống lại trật tự xã hội.

 Đỗ Long Vân rất mê Alain, và đã từng dịch những tác phẩm của ông thầy người Pháp này.

 Có thể, cả hai cùng bị ám ảnh bởi sức mạnh, theo nghĩa Weil viết trong "Iliade hay là bài thơ của sức mạnh": "Sức mạnh biến kẻ bị nó chi phối thành đồ vật". Hoặc lời nhắn nhủ này: "Chúng ta đừng bao giờ tái diễn cuộc chiến thành Troie" (tên một bài viết của Weil, viết năm 1937). Có thể, "Vô Kỵ giữa chúng ta" được viết dưới ánh sáng của những bài viết, những kinh nghiệm của Weil về Nazi, chủ nghĩa toàn trị... Ngay cả sự kiện Đỗ Long Vân đành để bị đưa đi Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ như là một bình nhì, và từ chối ra bưng, như một hai "bằng hữu" hay mối quen biết (?) của ông, thời kỳ Mậu Thân, có thể cũng do ảnh hưởng của Weil.

 Bà là một trong những người đầu tiên, thuộc giới trí thức tả phái, lên tiếng tố cáo Liên bang Xô viết, nhưng lại bị coi là "ngây thơ" (naive), khi cho rằng nước Pháp chỉ có mỗi một cách để chứng tỏ tính "ưu việt" (superiority) của nó, là trả lại độc lập cho những xứ thuộc địa. Tiểu thuyết gia người Pháp Georges Bataille có lẽ là người diễn tả tuyệt vời nhất về Weil: một "Don Quixote", trong trường hợp của Weil, những kẻ thù của bà không phải là những cối xay gió, mà có thực, nhưng cây thương của bà là đồ dởm (imaginary).

 Với Đỗ Long Vân, ông không biết đâu là kẻ thù, đâu là bạn, nhưng có thể ông cũng nghĩ như một nhân vật trong "Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền: Ra ngoài ấy thì cũng là một cách đánh đĩ tinh thần!

 Theo tôi, Đỗ quân còn bị ảnh hưởng Weil, ngay ở trong văn phong của bà: một văn phong đầy hồn thơ, và cũng thật là dữ dằn (ferocious).

 Ngay cả thái độ từ chối mọi tiện nghi, mọi đặc quyền của cuộc đời, như Weil: "Tôi sinh ra là để có phần của mình, ở tình yêu, không phải ở hận thù."(Antigone. Sophocle).

 ***

 "…. Trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng".

 ĐLV

 Trước Newton, những hiện tượng vật lý như trái táo rớt xuống đất, thủy triều lên xuống theo con trăng… đều là "những chi tiết rải rác", những hiện tượng "tình cờ"của vũ trụ. Đến khi Newton xuất hiện, với luật vạn vật hấp dẫn, tất cả những hiện tượng riêng rẽ, rời rạc, tình cờ kia đều thu về một mối. Koestler đã coi Newton là người nhạc trưởng, tay cầm cây đũa thần, giơ lên cao, và bản hòa tấu bắt đầu.

 Nhưng cái kiến trúc nhịp nhàng kia đâu phải là chấm dứt mà chỉ là mở đầu, nó là buổi đêm chứ không phải rạng sáng, nói theo Lévi-Strauss. Bởi vậy, sau Newton có Einstein, sau Einstein có lý thuyết Big Bang, Lỗ Đen…

 ***

 Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, trong bài phỏng vấn in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", cho biết: "Tôi biết rằng ở Trung Quốc đang cho in lại Kim Dung, bằng bản do chính tác giả chỉnh lý: loại bỏ 30% những gì đã cho in và nâng cao lên, bằng cách văn học hóa những gì đã viết. Trong bản cũ, từng có những nhân vật bị tác giả bỏ quên: nếu tôi nhớ không lầm thì trong ‘Cô gái đồ long’, Khúc Phi Yến, một nhân vật khá hấp dẫn bỗng dưng không thấy mặt mũi đâu nữa, chẳng chết, cũng chẳng sống, biến mất tăm không một lời giải thích…"

 Khúc Phi Yến là nhân vật trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’. Theo tôi, không phải người đẹp bị Kim Dung bỏ quên. Khúc Phi Yến xuất hiện chỉ để nói một câu rồi biến mất, giống như người đẹp bay lên trời ở trong "Trăm Năm Cô Đơn" của Garcia Marquez.

 Bạn đọc chắc còn nhớ đoạn hai đồng tác giả bản đàn Tiếu Ngạo Giang Hồ bị cao thủ Phí Bân phái Tung Sơn truy đuổi tận diệt, rồi Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm xuất hiện, Phí Bân muốn giết luôn cả hai để diệt khẩu, Lệnh Hồ Xung kêu Nghi Lâm hãy bỏ chạy, nhưng vị ni cô quyết định ở lại, và Khúc Phi Yến đã cười nói: "Chàng ngố ơi, ni cô muốn cùng chết với chàng ngố đó…"

 Lời tỏ tình, Lệnh Hồ Xung không thể nói, (vì là chàng ngố), Nghi Lâm lại càng không thể nói, (vì đã gửi thân nơi cửa Phật). Kim Dung đã mượn người đẹp, cô cháu gái (?) của Khúc trưởng lão của Ma giáo nói giùm, là vậy.

 Trong đời "thực", chắc còn nhiều chàng ngố, chỉ mong được nhìn thấy người đẹp một lần trong đời…

 ***

 "Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hóa học…".

 ĐLV

 Có ba cách đọc "Cô Gái Đồ Long", ít ra là vậy, theo tôi.

 Cách thứ nhất: lấy Cửu Dương chân kinh làm nền, và đây là câu chuyện về một nguyên lý võ công mất đi, rồi tìm thấy lại.

 Cách thứ nhì: lấy Vô Kỵ làm nền và đây là câu chuyện một đứa trẻ bất hạnh, như những nhân vật của Dickens chẳng hạn. Và những trang sách tuyệt vời trong "Cô Gái Đồ Long", là để tả cuộc hành trình của hai đứa trẻ bất hạnh, Vô Kỵ và Bất Hối, từ Điệp Cốc tới đỉnh Côn Luân.

 Cách thứ ba, như trên, là lấy Minh Giáo làm nền, như Đỗ quân đã trình bày: "Trên một qui mô lớn hơn thì truyện Đồ Long cũng sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu ly tán…" "những nhân vật trong truyện Đồ Long [những chất hóa học trong bảng tuần hoàn Mendéléev] như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo…. Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện."

 Những ý niệm về "nhân vật xếp thành từng bộ" như Đỗ Long Vân diễn tả, là mượn từ tân toán học, theo tôi, nhưng đã bị ám ảnh bởi thời cuộc, thí dụ như những câu sau đây:

 "Nhân vật làm ra Bộ. Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa."

 "Tâm lý nhân vật mất quan trọng… sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ."

 "Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức!"

 Từ "tổ chức" thật là đầy ấn tượng!