*








Những ngày Trịnh Công Sơn

Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.

Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.

Toàn lúc đó phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.

Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.

Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.

Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!

Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.


Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.

Xin vĩnh biệt.

Một giấc mơ không được mơ bởi bất cứ một ai.

"Trong những đêm chập chờn mất ngủ hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi…", bao nhiêu năm, tôi cứ tự hỏi đi hỏi lại chính mình, liệu những ngày tháng đó có thực không, nếu thiếu tiếng huýt sáo bài "Tình Nhớ" của một anh chàng nhớ quá quắt người yêu, một đêm xa thành phố, trên một chiếc giuờng sắt lạnh lẽo, tại một trung tâm tuyển mộ nhập ngũ?


Và một Trịnh Công Sơn chưa từng trải qua một ngày "quân vụ", có cảm nhận ra nỗi đau này không? Và sau này, khi có dịp đi nước ngoài, Trịnh Công Sơn đã ở lại, một phần là do ông đã cảm thấy trong cuộc đời của mình, thiếu… "một ngày quân vụ"?


Trước 1975, miền nam có chế độ đãi ngộ những người có học. Những học sinh giỏi, đậu bằng cấp cao được cho đi du học. Không hiểu khi Trịnh Công Sơn đậu tú tài Pháp, gia đình tính cho đi du học, là nhằm tránh cho Sơn khỏi tham gia vào cuộc chiến mà chắc chắn chẳng gia đình nào muốn cho con em mình tham gia? Và đây có lẽ là 'bước ngoặt vĩ đại' trong cuộc đời của ông: được ở lại, cho dù như một người ngoại cuộc, bên cạnh một cuộc chiến?

Theo như tin tức báo chí, vào năm 2000, ông đã tuyên bố: Việt Nam chỉ là sân banh cho các siêu cường chơi nhau, bằng những xác chết hai lần, chẳng làm gì có cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền.

Giả dụ, nếu ông được sống thêm một lần đời, sống lại cuộc chiến, ông sẽ… tham dự?

Giả dụ, ông được đi du học, và chắc chắn, sẽ nhập vào đám du học sinh ưu tú của miền nam, lên tiếng chống đối chiến tranh Việt Nam… và như vậy, liệu ông có nhận ra sự thực, Việt Nam chỉ là sân banh…?

Bởi vì, cho tới nay, chưa hề có một người miền nam, được đi du học trong những ngày Trịnh Công Sơn đó, lên tiếng nói rằng, tôi đã lầm, như Trịnh Công Sơn, hay Jane Fonda… Tại sao sự lì lợm đó?

Bởi vì, những người thù ghét cay đắng chế độ miền nam, tức cười thay, lại trong số những người được chế độ đó đãi ngộ!


"Tôi đã phạm cái tội tồi tệ nhất mà một người đàn ông có thể phạm, trong mọi thứ tội: Tôi đã không hạnh phúc"

(I have committed the worst sin of all/That a man can commit. I have not been/happy…." Borges, "Remorse")

Cái tội tồi tệ nhất, hình như Trịnh Công Sơn đã phạm. Hãy nghe nhạc của ông: không hề có một cuộc tình nào đến nơi đến chốn, "từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng… trời bên nhà chồng có xanh không em? Ngày bên ấy có vui không em (thi/nhạc sĩ không hỏi, đêm có vui hay không, vì như vậy…. thảm quá!).


Nhạc Trịnh Công Sơn và câu nói của Auden: Làm sao thi sĩ ngăn cấm thiên hạ lợi dụng thơ của mình làm trò phù thuỷ. Tính ma quái trong nhạc Trịnh Công Sơn đã được con quỉ chiến tranh lợi dụng?

He did not want to compose another Quixote – which is easy – but the Quixote itself. Borges: Pierre Menard: Tác giả "The Quixote").

Trong nhạc Trịnh Công Sơn, có một điều gì thê thảm, và là đặc trưng của "cuộc chiến chính nó" - the war itself - người chết hai lần, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe... Những ngày Trịnh Công Sơn, với riêng tôi, là những ngày ở Sài Gòn, thời kỳ Mậu Thân.

There was no one in him: behind his face (which even through the bad paintings of those times resembles no other) and his words, which were copious, fantastic and stormy, there was a bit of coldness, a dream dreamt by no one. (Borges, Everything and nothing).

A dream dreamt by no one: Giấc mơ chẳng ai mớ: Hiện thực Miền Nam những ngày sau 1975?

La seule personne qui ai encore une vie privée en Allemagne est celle qui dort. (Người độc nhất còn có một đời sống riêng tại Đức là một người đang ngủ.) Steiner trích dẫn câu nói của Robert Ley, một ít lâu sau khi Nazi lên nắm quyền, trong L’historicité des rêves (Passions inpunies, p.242). Và Steiner giải thích thêm: Tới một điểm nào đó, những bến cảng an toàn, ngầm chống lại cõi ghê tởm là chủ nghĩa toàn trị, là ở trong những giấc mơ, [trong khi ngủ, lẽ dĩ nhiên].

Cá nhân độc nhất còn thức sau 1975 tại Việt Nam: Trịnh Công Sơn? Và để chống lại cơn mất ngủ, ông dùng rượu? Và ông tìm thấy những bến cảng an toàn ở trong đó?


Nỗi chết không rời.

"Trong những đêm chập chờn mất ngủ hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi…", bao nhiêu năm, tôi cứ hỏi đi hỏi lại chính mình, liệu những ngày tháng đó có thực không nếu thiếu tiếng huýt sáo bài "Tình Nhớ", của một anh chàng nhớ quay quắt người yêu, một đêm xa thành phố, trên một chiếc giuờng sắt lạnh lẽo, tại một trung tâm tuyển mộ nhập ngũ…?

Hay đó chính là nỗi cô đơn của tôi, phát ra thành âm điệu?


Kẻ nào tìm cách mầy mò quá khứ "như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa", của chính mình, phải xử sự như một tay đào huyệt. Kỷ niệm, giọng điệu của chúng, đích thực, là nhờ vậy. Đừng sợ cứ đào bới mãi một chỗ…

(Mô phỏng Walter Benjamin: Qui cherche à s’approcher de son propre passé enseveli doit se comporter comme un homme qui creuse. Cela détermine le ton, l’allure des souvernirs authentiques. Ils ne doivent pas craindre de revenir tourjours à un seul et même état de fait; le pelleter comme de la terre, le retourner comme le Royaume terrestre. Écrits autobiographiques)

Mãi một chỗ, Sài Gòn. Mãi những ngày, Mậu Thân. Trung Tâm Ba Quang Trung. Cái giuờng sắt lạnh lẽo những ngày cận Tết. Mãi một Vương Quốc Trên Trái Đất: Miền Nam. Mãi một không khí: "đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe". Nhạc Trịnh Công Sơn được những người thành phố, những thành phần ít ra có những ngày từng cắp sách tới trường, đón nhận, là vì vậy. Khác họ Trịnh, những thính giả nghe nhạc anh, trước, trong, và sau những ngày ở quân trường, những ngày thoát chết sau một trận đánh, trở lại với thành phố, với quá khứ những ngày còn đi học, những ngày người tình chưa bỏ đi, hoặc đã bỏ đi rồi, chưa có hoặc sẽ có, hoặc chẳng bao giờ có, hoặc phải chờ cho xong cuộc chiến: đừng yêu sớm quá nếu muốn chết trẻ… Cái không khí phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn mang tính gián tiếp.

Muốn tìm tính trực tiếp của nó, phải lần tới những bản nhạc vàng, nhạc sến.

Điều này giải thích, sau 1975, ở trong trại cải tạo, nhạc được hát âm thầm giữa những người tù, là những "khi tôi về, mẹ già run run đón…"


Và một Trịnh Công Sơn chưa từng trải qua một ngày "quân vụ", có đau nỗi đau nỗi nhớ, như vậy không?

Sau này, khi có dịp đi nước ngoài, Trịnh Công Sơn ở lại, liệu do ông đã cảm nhận, cuộc đời của ông thiếu… một ngày "quân vụ"?

(Độc giả/khán giả chắc còn nhớ, cảnh trong phim/truyện "Cuốn Theo Chiều Gió": Clark Gable/Rhett Butler bỏ mặc Vivien Leigh/Scarlett O’Hara ở giữa đường, trong "cơn tháo chạy tán loạn", để chạy theo cuộc chiến, khi biết nó sắp tàn, và miền nam sắp thất thủ?… Đây là cuộc nội chiến Mỹ, the American Civil War, 1861-1865. Nhân vật Kiệt, trong cuốn tiểu thuyết "Một Chủ Nhật Khác" của Thanh Tâm Tuyền, sinh viên du học, trở về nước, không phải vì tiếng gọi của quê hương, mà vì vợ con, đã "chọn" cái chết lãng nhách, vì bị lính tuần tiễu lầm là cộng quân, trong một đêm về sáng, tại một thành phố cao nguyên… đã từng tự hỏi chính mình: phải chăng loài voi, khi biết mình sắp chết, là lặng lẽ đi tìm một chốn "ngả lưng"?)

Người viết có một anh bạn, thời gian trước 30 tháng Tư 1975 được học bổng tu nghiệp tại Pháp (Paris). Mặc dù những đồng nghiệp mới quen biết tại nước người khuyên nhủ, hãy chờ đợi vài ngày coi tình hình như thế nào, "chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận anh…", nhưng anh đã trở về, chỉ sợ không kịp "cùng chết" với gia đình.

Và sau đó, đi trình diện cải tạo.


"… Benjamin sử dụng… từ ‘nàng’, để chỉ cái chết".

["Benjamin emploie plus loin ce même mot de ‘Fraulein’ (demoiselle) pour désigner la mort." Tiểu chú, bản dịch tiếng Pháp "Ký sự Berlin", của Walter Benjamin, in trong "Tự thuật", ("Écrits autobiographiques," nhà xb Christian Bourgois, ấn bản 1994].


"Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết, theo từng cơn hấp hối của thành phố, cùng với tiếng hoả tiễn réo ngang đầu…"

"Có vết thương của tôi, rồi, mới có tôi. Tôi sinh ra để nhập vào nó."

"My wound existed before me. I was born to embody it."

(Joe Bousquet, một thi sĩ bị bắn chết trong Cuộc Chiến Lớn I. Gilles Deleuze trích dẫn, trong "Critique et Clinique")


Liệu chúng ta có thể đọc ra, điều này: những cuộc tình dang dở, "từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng", những cánh vạc gầy, những "trời bên ấy có xanh không em?"…. như nỗi chết không rời?

Và Trịnh Công Sơn đã chọn một "fraulein", thay cho một cuộc chiến?


Trong bất cứ một người Việt Nam nào, đều có giấc mộng vòng tay lớn. Nó được biểu hiện qua những hình ảnh, thí dụ như cảnh người lính miền nam cởi bỏ bộ đồ trận, trong ngày 30 tháng Tư; cảnh Dương văn Minh, khi nói với những người tới bắt ông: Tôi chờ các ông để bàn giao…


Những người trẻ tuổi, gạt bỏ chất phản chiến, chỉ nhìn Trịnh Công Sơn như một nhạc sĩ của tình yêu, và vượt qua nó, một thi sĩ. Ông sẽ sống mãi như vậy: nhạc sĩ của những cuộc tình dang dở: đây là một điều may khi giấc mộng lớn biến thành ác mộng, hay là một bất hạnh đối với ông?

Người ta không hiểu tôi.

(Trịnh Công Sơn)

Convaincre est infécond.

(Thuyết phục là cằn cỗi).

(Walter Benjamin. "Đường một chiều")


Hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi

Gửi Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn

Gửi theo Nguyễn Nhật Duật, Sĩ Phú, Joseph Huỳnh Văn

(NQT)



Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975, tôi làm ở… bên ngoài, ở vỉa hè tòa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Viết mướn. Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Việt. Thân chủ đa số là những người có bà con, thân nhân vượt biển, đang ở trại tị nạn, hoặc đã định cư nơi nước ngoài.

Thời gian này cả Sài Gòn, nói rộng ra, cả nước đang đói. Đám ngụy, lại càng đói. Một lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ tu viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi, quí giá biết là chừng nào. Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá gần một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện chúng tôi cứ thế trao đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà nước. Chúng tôi được đặc biệt để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài ra còn nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh Tế Mới. Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi.

Chả là, trong số những thân chủ, có những người trước đi lính hoặc làm việc cho Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lãnh những năm chiến tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua Pháp.

Sau tới chương trình ODP.

Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những lời ân hận, vì không thể tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam đã gửi thư cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hãy gửi tới cơ quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.

Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên cầu nguyện cho gia đình chúng tôi.

Chứng cớ là…


Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước 1975 làm nhiếp ảnh viên cho một hãng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm hình chiến trường của anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong hãng, bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.

Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ để chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn tới nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ như văn phòng ODP ở Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris… là những cần câu cơm của tụi này. Còn những địa danh như Galand, Songkhla (?), Panat Nikhom, hoặc quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana… là những khung trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!

Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, mì ăn liền: những thân nhân sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đã nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lãnh em qua! Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên em; và cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện tại, của đôi nhân tình.

Bởi vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những buổi sáng sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ cầu nguyện. Buổi trưa, thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối đi phía trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy qua phía bên kia đường, khu nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận chiều, mấy ông cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức! Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.


Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại anh bạn Ng.

Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ, MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị, từ chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu thường dân ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với tôi, là hai chữ "đầu tiên".

Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình nữa.

Anh nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rõ hơn.)

Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm Láng, Gò Công vào đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.

Trên một số báo Văn, tôi đã viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài: trong đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm tôi với người yêu của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối cho cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…

Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.


Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.

Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!

Vị cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, mình lưu loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp "thực tập" tiếng Tây!)

Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.

Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!

Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.

Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.

Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.

Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.


Tôi gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.


Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "tương đối" an toàn, là sách vở. (Ngoài sách vở ra, còn một mê cung khác, an toàn hơn, bởi vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)

Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như James Hadley Chase, Georges Simenon… và John Le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.

Tôi tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản tiếng Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du froid" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn dịch". Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong một thoáng, giữa không khí ấm áp của Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá của một miền đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang rình rập, ngay… bên ngoài lề đường!

Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên ngoại… những chi tiết chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh, nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.


Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa đủ thứ thành phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết hạn, kháng chiến quân chống nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mã Lai, Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le Carré trong mớ đồ lỉnh kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ trên trăm trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng ngoằng…

Tôi đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không bắt được cái mạch của nó.

Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.

Đúng hơn, lần này thành phố đã…


Như trên đã nói, tôi đọc Le Carré qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe "chính tà’ qua hai nhân vật ở trong đó.

Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"

Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"

Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?

Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!

Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.

Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh… quýnh quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.

Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?

The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.

Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.

Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:

(Mendel hỏi Smiley):

-Bà ta có phải là cộng sản không?

-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.

(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one society which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)

-Còn Dieter?

-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."

-Trời đất!

Smiley im lặng một lát:

-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.


Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân, những câu đối đáp nẩy lửa như trên.

Lần thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ", trong một câu văn, đập thẳng vào mắt tôi.


Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan" tới… Sài Gòn!

Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp dựng dậy, bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa thành phố London:

"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, vì không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên đường phố Luân Đôn…"

(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband, smuggled from his bed and hoarded against the wet January night. Safe because unreal: it was his ghost that ranged the London streets….)


Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù quê hương. Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là hồn ma của chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn ma của mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi ráp lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những đường phố cũ…". Tới đó tịt luôn.

Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết thúc nổi câu văn:

"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."


Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…

NQT