jen 
Tạp Ghi




 


37.  Tahar ben Jelloun: Nhà văn không phải là một ông chủ tiệm.

(A writer is not a shopkeeper).

 

Câu trên của Tahar ben Jelloun, người Marốc, viết văn bằng tiếng Pháp, trong một cuộc phỏng vấn trên tờ Điểm Sách Paris, số Mùa Thu 1999.

Ông hiện nay là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất ở Pháp. Cuốn sách “Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc được giải thích cho con gái của tôi” (Le Racisme expliqué à ma fille, Racism explained to My Daughter), là một best-seller. Đêm Thiêng, La Nuit Sacrée, được giải Goncourt 1987, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của một nhà văn Ả rập được vinh dự này. Tên ông có trong danh sách chót của giải Nobel văn chương trong hai năm vừa qua.

Ông sinh tại Fez, Morocco (Marốc). Gia đình ba trai, một gái, sống tại một căn phòng nhỏ, trong khu vực mang dấu vết thời trung cổ đẹp nhất thành phố. Cha là chủ tiệm bazzar, sau chuyển qua thợ may, sản xuất những chiếc áo dài dành cho đàn ông Ả rập (djellabas).

Năm tuổi, ông vào một trường học dậy kinh Koran, nơi ông phải nhớ và học thuộc lòng những dòng kinh trên. Hai năm sau, chuyển qua trường Ả rập-Pháp, học tiếng Pháp buổi sáng, và buổi chiều, tiếng Ả rập. Một học sinh chăm chỉ, nghiêm túc: Ngay từ nhỏ, tôi đã cảm nhận cái trách nhiệm phải đứng bằng đôi chân của mình (Very early, I felt the responsibility of standing on my own feet). Sau đó ông học triết tại Đại học Rabat.

Vào năm 1971, 26 tuổi, ông di cư qua Pháp, hoàn tất việc học tại đại học Sorbonne. Sau đó, làm nghề chuyên viên tâm thần ở Paris. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, “Harrouda”, xuất bản năm 1973. Tiếp theo là 9 cuốn tiểu thuyết, và vài tập truyện ngắn, thơ ca, và tiểu luận. Ông có lẽ được biết đến nhiều nhất, qua tiểu thuyết bộ ba (trilogy) viết về cuộc đời của Ahmed/Zahra, một cô gái mà người cha, vì quá thất vọng không có một đứa con trai nối dõi tông đường, đã nuôi dậy cô bé như là một con trai: The Sand Child (L’enfant de sable, Đứa trẻ cát), một best-seller ở Pháp; Đêm Thiêng, và cuốn vừa mới xuất bản La Nuit de l’erreur (Đêm Lầm, bản tiếng Anh, The Wrong Night sắp xuất bản).

Dưới đây là chuyển ngữ cuộc phỏng vấn, được thực hiện tại văn phòng của ông ở khu St-Germain des-Prés, gần ngay bên nhà xuất bản Seuil, và quán Café de Flore, nơi ông thường ngồi với bạn bè.

 

Người phỏng vấn: Ông sinh ra, và được nuôi nấng như là một người Marốc. Tiếng nói mẹ đẻ của ông là Ả rập, tuy nhiên, ông chọn viết văn bằng tiếng Pháp. Cho phép tôi được hỏi: tại sao?

Tahar ben Jelloun: Sự thực, tôi song ngữ. Ngôn ngữ đầu tiên, Ả rập; nhưng sau đó tôi học một trường song ngữ. Khi khởi sự viết, như là một anh chàng thanh niên không tham vọng văn chương, tôi cảm thấy hạnh phúc làm điều này, với tiếng Pháp. Vào thời điểm đó, nó không phải là một “chọn lựa” mang tính ý thức.

-Có thể là do ông đọc nhiều tác giả Pháp hơn tác giả Ả rập?

-Có thể. Nhưng còn do tôi coi tiếng Ả rập là “cây nhà lá vườn”, chẳng bao giờ mất, nên đâu cần phải mất công với nó. Một cách vô thức, tôi cho rằng, phải đầu tư hết nghị lực vào một ngôn ngữ ngoại. Nó hầu như còn là một thách đố, một cú thúc vào đít. Vào lúc hai mươi tuổi, tôi bắt đầu mê viết, và cứ thế “chơi” luôn tiếng Tây. Những nhà trí thức trong thế giới Ả rập đã chỉ trích tôi, đôi khi thật dữ dằn, vì đã không viết bằng tiếng Ả rập. Thật đau cho tôi. Thường ra, động cơ chỉ trích thật đáng ngờ.

-Chắc chắn là, sau khi ông được (giải thưởng văn chương Pháp) Goncourt, còn có sự thèm muốn xen vô nữa?

-Có thể. Nhưng câu trả lời là: tôi viết bằng một ngôn ngữ mà tôi có thể làm chủ một cách diệu nghệ. Một bản văn, bài đọc (lecture) bằng tiếng Ả rập, được thôi, nhưng tiểu thuyết, là phải tiếng Tây. Bởi vậy, vì kính trọng tiếng mẹ đẻ cho nên tôi không được quyền “tàn sát” nó.

-Ả rập là một ngôn ngữ rất giầu có, uyển chuyển: chỉ với một từ gốc gồm hai hoặc ba phụ âm, người ta có thể xây dựng cả một tự vựng nào nghĩa đen nghĩa bóng, nào hoa lá cành. Một tiếng nói đã sản xuất ra thơ ca lớn, văn xuôi lớn. Trên tất cả, đây còn là một ngôn ngữ thiêng, như ngôn ngữ Hebrew – Thượng Đế đã nói bằng ngôn ngữ này. Vậy thì, như ông nói, đây không phải là thứ ngôn ngữ để giỡn chơi, hoặc coi thường. Ông đã học nó ở trường lớp?

-Tại trung học, chúng tôi học những tác phẩm cổ điển Ả rập. Tôi bị cuốn hút bởi sự giầu có và tinh tế của nó, khi tôi bắt đầu dịch thuật. Do làm chuyện này, tôi lại càng cảm thấy chớ có “táy máy” với nó. Như ông biết đấy, vì là một ngôn ngữ thiêng, được Thượng Đế ban cho qua bộ kinh Koran, con người cảm thấy kinh ngạc, sợ hãi, thấy mình nhỏ bé trước ngôn ngữ này. Adonis, một nhà thơ lớn người Lebanon, có lần nói với tôi: tiếng Ả rập chưa từng gặp một nhà văn nào mạnh hơn nó, đủ khả năng khuất phục nó. Người ta nói về tiếng Anh như là ngôn ngữ của Shakespeare, tiếng Ý, tiếng của Dante, nhưng đừng nói Ả rập là ngôn ngữ của al-Ghazali – nó luôn luôn là ngôn ngữ của kinh Koran. Táy máy với nó là mang tội (one would feel almost guilty manipulating it).

-Nhưng biết đâu, người ta viết bằng tiếng Tây, hay tiếng Anh, là để có lắm người đọc?

-Đây là do tình hình chính trị, một hình ảnh xấu về thế giới Ả rập. Nó ảnh hưởng tới sự phát triển văn hóa Ả rập. Thật bất công (unfair) – có rất nhiều nhà thơ, nhà văn lớn Ả rập chưa được biết tới. Như thể văn hóa của một xứ sở tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế-chính trị. Hiện nay, Ả rập được coi là tiếng nói của hai trăm triệu con người. Tiếng Ba tư là cả một nền thi ca lớn. Cả hai trở thành những ngôn ngữ thiểu số. Hiện tại Tây phương ngó về Viễn Đông, và bỗng nhiên, mọi người khám phá ra những nền văn hóa Nhật bản, Trung quốc. Thật khó mà thay đổi được tình trạng này, một khi mà hình ảnh những xứ sở Ả rập còn đục ngầu vì chính trị; văn hoá Ả rập sẽ còn đau khổ vì những hậu quả trên.

-(Nhà văn người Mỹ gốc Do thái) John Updike có lần nói với tôi, khi tới Ai cập, ông đã gặp những nhà văn tuyệt vời mà hoàn toàn vô danh đối với Tây Phương – đây là trước khi Naguib Mahfouz được Nobel văn chương – trong khi đó, ông ta hay một tác giả dòng Anglo-Saxon vừa mới hỉ mũi một cái, thế là thiên hạ xúm lại chuyển ngữ, nghiên cứu, phê bình nghị luận loạn cả lên, bằng cả chục thứ ngôn ngữ trên thế giới.

-Văn hóa Tây phương được quan tâm nhiều hơn, và không đảo lại được. Tôi có thể làm một bài đọc về Faulkner ở Mỹ, như bất kỳ một nhà trí thức nào trong thế giới Ả rập; chẳng ai kinh ngạc về chuyện này. Trong khi đó, sự hiểu biết ở Tây phương về những nhà văn của chúng tôi thật ít ỏi, hạn hẹp ở một số nhà chuyên môn được gọi là Những nhà Đông phương học. Tôi hy vọng, một ngày nào đó, tình trạng này sẽ thay đổi, và chẳng bao lâu nữa, kho tàng giầu có là những nền văn chương Ả rập và Ba tư sẽ được khám phá tại bất cứ nơi nào trên thế giới, vì lợi ích của nhân loại.

-Tôi cũng hy vọng như ông. Nhưng có thể tôi và ông quá lạc quan. Ông có nghĩ rằng, một khi viết bằng tiếng Ả rập, những tác phẩm của ông sẽ khác đi?

-Lẽ dĩ nhiên. Bởi vì ngôn ngữ chẳng những là một dụng cụ, nó còn là cả một bộ những cơ chế tinh thần, như mớ hành trang lỉnh kỉnh mà con người mang theo cùng với mình suốt cuộc lữ. Văn hóa tiếng Tây phát triển hơn văn hóa tiếng Ả rập. Vả chăng, như tôi đã nói, Ả rập là một ngôn ngữ thiêng, những tác giả Ả rập kính sợ, và họ không thể sử dụng bạo lực chống lại nó.

-Những tác phẩm sẽ khác đi, chẳng hạn như thế nào?

-Hãy bắt đầu bằng đề tài: có những điều tôi không thể đụng vô, nếu viết bằng tiếng Ả rập, thí dụ như dục tính, hay phê bình cách xử sự của nhân vật, nếu nó liên can tới tôn giáo. Chi ly từng chi tiết không hiểu sao, nhưng sẽ có nhiều cấm kỵ.

-Còn dục tính, ông sẽ “tiếp cận” bằng đủ mọi cách?

-Có những bản văn huê tình (erotic) quan trọng trong văn chương cổ điển Ả rập thế kỷ 14, 15, thí dụ như The Scented Meadow (tạm dịch Hương Đồng Nội Cỏ), của nhà văn Shaykh Naszawi (thế kỷ 14); đây là một Kamasutra của thế giới Ả rập. Tôi có thể viết theo cùng một mạch. Nhưng một khi viết, khó mà biết được “một trăm phần trăm” ngòi bút sẽ dẫn dắt bạn tới đâu – có những chuyện xẩy ra một cách tự nhiên; bởi vậy, tôi cho rằng, nếu làm chủ được ngôn ngữ, tôi có thể đề cập tới dục tính bằng tiếng Ả rập, nhưng điều này ngoài sức tôi.

-Có Kama-sutra của Ấn, có thi ca huê tình của những nhà thơ Ả rập, thí dụ như nhà thơ Abu Nawas. Nhưng những diễn tả phòng the xê dịch (differ) giữa những nền văn hóa và những ngôn ngữ. Văn chương phòng the Ả rập khác với của chúng tôi theo cách nào?

-Tôi nghĩ quan niệm về huê tình của Đông phương rộng hơn, và tinh tế hơn, so với của Tây phương. Thí dụ như, trong Ngàn Lẻ Một Đêm có một “mảnh quần hồng quan trọng” (an important erotic element), nó là một trong những chìa khóa để hiểu Đông phương. Nhưng hiện nay có vẻ như người ta e dè vấn đề này, trong thế giới Ả rập, như thể họ sợ gây sốc, và đây là hậu quả của chủ nghĩa chính thống (fundamentalism).

-Nếu ông sống ở Bắc Phi và viết bằng tiếng Ả rập, ông sẽ viết lách ra sao, trong khí hậu chính thống đó?

-Sẽ không thể viết, về bất cứ điều gì. Đó là tự sát. Chủ nghĩa chính thống chống lại tự do nói chung, và tự do đối với một nhà văn không chỉ là tự do ngồi xuống ghế và viết, nhưng còn là tự do tư tưởng, thoải mái nói về chính mình. Bởi vậy, tôi nghĩ, một xã hội chính thống chẳng đẻ ra một thứ gì, ngoại trừ sự câm nín, hay là văn chương chống đối, viết từ lưu vong.

-Ông khởi sự viết, trước tiên với thơ, vào năm nào?

-Thời điểm viết “nghiêm túc”, là khi tôi ở đại học, 22 tuổi, học triết. Chương trình học như Sorbonne. Vào năm 1966 tôi bị bắt cùng trên trăm sinh viên khác, do hoạt động chính trị Tả phái, lẽ dĩ nhiên, như bất cứ người nào trong thời kỳ đó. Thay vì tống vào tù, nhà nước bắt tụi tôi đi quân dịch (nghĩa vụ quốc gia, national service), trước đó trong nước chưa hề có chế độ quân dịch. Thế là tập tành, hít đất hít cát, quân trường đổ mồ hôi như mọi tân binh khác, nhưng đây là một trừng phạt; nó gây sốc và tôi phản ứng lại bằng một “trường ca” viết lén lút. Sau 18 tháng, được thả, tôi nghĩ, có lẽ mình nên “công bố” bài trường ca viết trong “tù”, bởi vì đây chính là “bổn phận” của người trí thức, phải “chuyển tải” (transmit) một kinh nghiệm như thế! Bài thơ được in trên báo Soufle, (Hơi thở), của Abdellatif Laabi, một thi sĩ Marốc. Bài thơ được nhiều người khen ngợi, và tôi cảm thấy đây là một khích lệ đến từ phía độc giả. Nếu bài thơ bị chê, có lẽ tôi quẳng bút, cũng nên. Phản ứng của công chúng đối với một tác phẩm mới ra lò của một nhà văn “lần đầu tiên trình làng”, là rất quan trọng.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi làm giáo sư trung học, môn triết, trong ba năm, trước ở Tétouan và sau đó ở Casablanca. Vào năm 1971, tình hình chính trị ở Marốc trở nên bất ổn – đảo chính, rồi lại có tin sắp đảo chính – tôi có ý định nghỉ dậy học, học tiếp lấy bằng tiến sĩ. Tới Paris, vô Sorbonne, nhờ một khoản trợ cấp (grant). Tôi nhập vô một môi trường thuận lợi. Pháp là một nước hiếu khách, thật khó mà tưởng tượng không khí những ngày này. Dân chúng không bị khiếp sợ bởi làn sóng di dân như bây giờ. Ngay cả tôi cũng thấy ớn, mỗi lần đang đi phố bất thình lình đụng một người lạ, thường vẫn là một câu trao đổi niềm nở, nhưng đôi khi bị phang một câu: “Cút về nhà mày đi, đồ di dân dơ dáy”, hay một câu tục tĩu khác.

Tại Paris tôi gặp được những người đã giúp tôi tận tình. Thí dụ, tôi trở thành bạn với chủ bút tờ Thế Giới; ông yêu cầu tôi viết về vấn đề di dân, và về văn hóa Ả rập nói chung. Cùng lúc đó, tôi khởi sự viết cuốn tiểu thuyết đầu tay, Harrouda. Tôi đưa nó cho Maurice Nadeau, ở nhà xuất bản Denoel. Ông rất chú ý tới việc xuất bản những tác phẩm văn chương ngoại. Những tác phẩm tới từ “không đâu”, và “mới”; ông chịu nó. Tôi khởi đầu là như vậy.

-Ông đã xuất bản một tập tho trước cuốn tiểu thuyết đầu tay?

-Vâng. Bữa đó, tôi tới cơ sở xuất bản của Francois Maspero, và đưa bản thảo cho bà xã của ông ta, lúc đó lo về thơ ca. Bà quyết định in. Phản ứng của giới phê bình và của công chúng thưởng ngoạn, phải nói là rất rộng lượng. In hai ngàn cuốn, một con số khá lớn, vào những ngày đó.

-Có nhiều nhà văn Bắc Phi khi đó, hay chỉ lèo tèo vài người, trong đó có ông?

-Có vài người. Đặc biệt, trọn một thế hệ nhà văn Algérie, khởi nghiệp vào thập niên 1950, thí dụ như Kateb Yacine, Mohammed Dib, Jean Pelegrini, T. Amrouche và những người khác. Tác phẩm của họ đóng rễ vào cuộc chiến dành độc lập của Algérie. Khi tôi nói, tôi được “hân hoan” đón nhận, không phải theo nghĩa “ào ào”. Đây là một tiến trình “tà tà, nhẩn nha”. Tôi nói một cách nghiêm túc: không phải như bây giờ, khi mà mọi người tranh nhau nói về một tác giả trong ba tháng, thí dụ vậy, rồi xong. Ông ta biến mất, chẳng để lại một dấu vết. Harrouda chỉ bán được ba ngàn cuốn, nhưng, trái ngược với những thành công sớm nở tối tàn khác, là, 24 năm sau, nó vẫn vớ được độc giả, theo kiểu lai rai, rỉ rả.

-Đây là một tác phẩm “rất” văn chương, với một cốt truyện rất lạ lùng. Ông lấy ở dâu ra vậy?

-Ở Fez, có một cô điếm già làm rúng động trí tưởng tượng của trẻ con và thanh thiếu niên. Tôi là một đứa trẻ, khi sống ở đó. Và tôi biến cô thành một vị thánh, đại khái như vậy.

-Nhưng thành công thực sự, là với Goncourt. Ông là nhà văn Ả rập đầu tiên, đúng ra là nhà văn ngoại quốc đầu tiên thắng giải này.

-Vào năm 1934 đã có một nhà văn Phi châu được giải, nhưng năm 1987, khi tôi được Goncourt, chẳng ai nhắc đến ông ta, như vậy cứ coi tôi là người đầu tiên đi. Giải thưởng cho tôi một công chúng thưởng ngoạn rộng rãi hơn, dù rằng trước đó, Đứa Trẻ Cát đã bán được 130 ngàn cuốn. Khi Đêm Thiêng được Goncourt, thế là nó cõng tất cả những cuốn khác của tôi cùng đi theo với nó.

-Ngoài chương trình học trung học, nhà văn nào gây nên hứng khởi đầu, “xúi” ông viết?

-Có vẻ kỳ kỳ, tôi không thấy mình “hợp” với  mấy ông nhà văn, mà là với một vài nhà làm phim: Orson Welles, Federico Fellini, Yasujiro Azu, Akira Kurosawa, Michelangelo Antonioni – tức là những người kể chuyện. Lẽ dĩ nhiên, có ảnh hưởng trí thức, từ Sartre, Camus, Genet và những người khác, nhưng đó là bắt buộc, theo kiểu ảnh hưởng thời đại. Nếu phải tìm kiếm bà con nghệ thuật, tôi tìm ở Welles và Ozu hơn là ở những tiểu thuyết gia.

-Ông có thử thời vận, như là một nhà làm phim?

-Tôi đã muốn nghiên cứu nghệ thuật điện ảnh tại Viện Nghiên Cứu Cao về Điện Ảnh. Nhưng ngay lập tức, tôi nhận ra, điện ảnh là một kỹ nghệ, một kỹ nghệ rất nặng nề, và do đó, rất nhiêu khê. Khi lệ thuộc vào quá nhiều người, quá nhiều hoàn cảnh, thật khó là một nhà sáng tạo. Tôi đã lẫn lộn tình yêu phim với ao ước làm phim. Thế là tôi chào thua.

-Điện ảnh là một đam mê ở Pháp – họ đã phát minh ra nó. Hồi còn là sinh viên ở đó, chắc là ngày nào ông cũng mò đi coi ciné?

-Tôi mê hình ảnh. Ciné giúp tôi nhiều nhất, ở cái khoản này: câu chuyện được kể qua hình ảnh, bởi một Welles hay một Hitchcock. Trong một vài phút đầu tiên của phim, những nhân vật, hoàn cảnh câu chuyện bầy ra trước mắt bạn, và bạn cứ thế nhập vô, cứ thế lên đường cùng với phim. Ngày nay, phim ảnh Mỹ khổ vì muốn… hiện thực. Bạn nhìn một người nào đó uống cà phê, ăn trong tiệm, thoi vào mặt một người khác. Nhưng Ozu và Welles không sao chép thực tại. Quan trọng là bịa đặt ra một câu chuyện và làm cho khán giả tin tưởng câu chuyện đó – quan trọng là, một khi ngồi trong phòng tối tại một rạp, cuốn phim đưa bạn tới một vũ trụ khác, trong tưởng tượng. Đó là điều tôi cố gắng làm, với những cuốn sách của tôi.

-Ông đi coi phim, nhưng còn đọc cả lố, như ông nói đấy. Ai? Có tác giả ngoại nào không?

-Tôi đọc [nhà văn Mỹ] Steinbeck, Dos Passos, Faulkner, khi tôi còn trẻ. Nhưng nhà văn giúp tôi nhiều nhất, là James Joyce, không phải bởi vì tôi muốn làm cùng một điều như ông ta, mà là: ông ta liều cùng mình. Tôi nghĩ nếu Joyce dám liều như vậy, tôi cũng dám. Khi còn nằm ở trại lính, tôi yêu cầu bạn bè gửi những cuốn sách dầy nhất mà họ kiếm được. Bởi vì cấm đọc sách ở đó, tôi đọc lén, và tôi muốn một cuốn sách kéo thật dài. Thế là họ gửi lén cho tôi cuốn Ulysses, và tôi thật sự kinh hồn bạt vía bởi sự táo bạo, từ một công trình lớn lao như vậy. Tôi chẳng biết gì về Ái Nhĩ Lan, nhưng cuộc hành trình của nhà văn làm tôi quan tâm, tính táo bạo của ông ta. Nhưng tôi chào thua cuốn Finnegans Wake – những hiểm nguy ở đó thật là vô tích sự (gratuitous). Nó thì tối tăm.

Người phỏng vấn: Tuy nhiên, ông mê thơ hiện đại, mà cái thứ này nếu không mờ mờ thì cũng thường xuyên tăm tối?

Ben Jelloun: Thi ca tối tăm không hiện hữu, hoặc nếu tối tăm, thì đó không phải là thi ca (poetry). Thơ thứ thiệt chẳng bao giờ tối tăm; ngay cả [nhà thơ Pháp] Mallarmé cũng rõ ràng. Về phần tôi, tôi mê St.-John Perse, René Char, một số bài của Yves Bonnefoy, của Louis-René des Forêts. Đôi khi tôi đọc những tập thơ mà tôi nhận được, và nói với chính mình, “Thứ này thật là vô nghĩa! Nó chẳng mắc mớ gì tới thơ.” Nhưng đời mà, đôi khi người ta chẳng có gì để nói, hoặc chẳng có gì để nói “thêm”, tuy nhiên họ vẫn cứ tiếp tục nói: nó vẫn vậy mà! Hãy nhìn [nhà làm phim người Pháp] Jean-Luc Godard: đối với tôi, những phim đầu tay của ông thật đáng yêu, thế rồi một ngày, tôi khám phá ra một hiện tượng kỳ cục: Godard là một người đàn ông chẳng có gì “thêm”, để nói. Cũng vẫn kỹ thuật đó – cách táy máy, mầy mò hình ảnh thật tuyệt vời (this marvelous way of manipulating images), những phim của ông chẳng ai thèm quan tâm tới nữa: chúng rỗng tuếch.

Cùng trường hợp như vậy, với một vài nhà thơ. Như là một hậu quả: tôi nghĩ lúc này chẳng có thơ. Vắng thơ, ít ra ở Tây phương, và cảm giác kinh cung chi điểu: sợ thơ, như thể mọi người hết còn dám [làm thơ]. Tại Pháp, thời kỳ Kháng Chiến đã đẻ ra một nền thi ca lớn, bằng cách đem hứng khởi tới cho những nhà thơ như Aragon, Éluard, René Char. Họ có một điều gì thật nóng hổi, thật gấp gáp cần phải truyền đạt, một số giá trị cần phải chống đỡ; và phải làm liền, làm mạnh bởi vì những giá trị này đang gặp hiểm nguy. Một nhà thơ Pháp nói gì đây, bây giờ? Viết một bài thơ để chống lại Le Pen? Làm thơ về nạn thất nghiệp? Về nạn tự tử của lớp trẻ? Đây chỉ là những đề tài lòng vòng, mang tính nhất thời.

Đâu phải chuyện tai nạn, khi một nhà thơ dở như Bobin bán ào ào cả chục ngàn ấn bản mỗi lần cho ra lò một tuyển tập mới. Một thứ thơ tình cảm, giả-tôn giáo, dở ẹt. Nhà Luyện Kim (The Alchemist), tiểu thuyết của Coeltho, theo tôi, thuộc loại tầm phào, vậy mà bán ra mười một triệu ấn bản. Đó là vì người ta “cần” thơ và tìm kiếm một thứ tâm linh nào đó: họ cần “lại cảm thấy yên ổn”, và hy vọng. Nhưng đây là thứ tâm linh chợ búa, hàng quán (bazaar). Một thứ tâm linh Đồng Giá (Monoprix).

-Theo tôi, có vẻ như người ta tìm thấy thơ, ở những nhà văn xuôi hiện nay. Ở Anh chẳng hạn. Sự thành công của những cuốn sách của ông, tôi nghĩ, một phần là do cách viết và cảm tính của ông có chất thơ ở trong đó.

-Đó là gia tài Ả rập của tôi. Khi tôi kể một câu chuyện, tôi cảm [thấy mình là người] Marốc, và tôi kể nó như là một người Marốc kể chuyện, với hình ảnh và cấu trúc, chẳng hiện thực, nhưng là một nơi chốn [để cho] thi ca trú ngụ.

-Trong Ngàn Lẻ Một Đêm – vốn tắm đẫm tranh ảnh, minh họa (pictorial) – tác giả vẽ những bức tranh, có lẽ bởi vì thoạt kỳ thuỷ những câu chuyện này được truyền miệng, và những người kể chuyện phải làm cho người nghe chú ý bằng cách nhấn từ, nhấn giọng. Ông kể những câu chuyện của mình giống như một người kể (conteur) Đông phương.

-Tôi không cho rằng, mình có hơi hớm tác giả Ngàn Lẻ Một Đêm, hay phải viện dẫn tới một thời kỳ đặc biệt nào đó trong lịch sử Ả rập. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mình ăn ở với văn hóa Ả rập. Ít ra đây là lời giải thích thuận lý mà tôi có thể có được, nếu nói về chất “thơ” trong văn của tôi. Về kỹ thuật tự sự (narrative technique), tôi bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Roland Barthes – những bài tiểu luận của ông về mối liên hệ giữa bản văn (text) và văn chương. Khi còn là sinh viên, Tiểu Thuyết Mới làm tôi nản, và tôi không muốn viết bất cứ một thứ gì giống như vậy. Điều tôi làm, tôi phát minh ra nó trên đường đi, trong lúc viết, một cách vô thức. Tôi nghĩ, văn phong của tôi là Marốc, nhưng có lẽ những người Marốc không nghĩ như vậy!

-Những đề tài của ông cũng là Marốc – câu chuyện luôn luôn xẩy ra ở Marốc, hay ít ra, ở Bắc Phi.

-Đúng như vậy. Những đề tài bám rễ Maghrebi, bởi vì chúng liên quan tới những vấn đề mắc míu với chúng tôi, những vấn đề của cuộc sống thường ngày – sự liên hệ giữa đàn ông và đàn bà trong một xã hội Hồi giáo, giữa nhà nước và luật pháp, hay cá nhân và tập thể.

-Trong tất cả những xứ sở thuộc thế giới thứ ba, đặc biệt trong những xứ Hồi giáo, có trạng thái giao động, không chắc chắn (uncertainty), như là hậu quả do va chạm với hiện đại tính và Tây phương. Đây là trường hợp [đưa đến] sự thành công lớn lao đầu tiên của ông, trong Đứa Trẻ Cát; câu chuyện một đứa bé sinh ra là gái, nhưng cha mẹ cứ làm như nó là trai, bởi vì họ đã có 6 cô “công chúa”, và cảm thấy nhục nhã vì không sản xuất ra nổi một chú bé đực rựa. Điều này đưa tới những hậu quả bi thương cho cô bé, khi cô đã trưởng thành. Ông dựa trên chuyện thực?

-Không, tôi bịa ra nó, bởi vì tôi muốn viết về thân phận người phụ nữ ở Bắc Phi, nhưng không muốn nó mang vẻ mô phạm, hay mang tính dấn thân (militant). Tôi muốn phản ứng lại thứ văn chương nữ quyền của thập niên 1980, vốn đặt nặng tu từ, nghe “the thé” (strident), và chẳng có tí tưởng tượng nào ở trong đó. Vì vậy, tôi nghĩ, nếu tôi bịa ra một đứa bé mà số mệnh bắt buộc phải tách ra khỏi dòng đời bình thường [nữ bị coi là nam] và sau đó sống cả hai thân phận, là nam là nữ cùng một lúc, như vậy tôi có thể làm bật ra một số vấn đề.

-Đêm Thiêng, cuốn tiểu thuyết được Goncourt, tiếp tục câu chuyện kể. Đây là cuốn thứ nhì trong một bộ ba. Cuốn thứ ba là Đêm Lầm. Cuốn thứ nhất, Đứa Trẻ Cát, đưa ra một số kết cục có thể xẩy ra. Chi tiết này cho thấy, ông là một trong số những người kể chuyện Đông phương. Nhưng ông phải chọn một trong những kết cục đó. Làm cách nào, ông chọn?

-Đây là do những độc giả đòi hỏi tôi tiếp tục câu chuyện. Tôi nhận hết thư này tới thư khác, hỏi: “Chuyện gì xẩy ra cho Ahmed/Zahra? – nhân vật chính với căn cước dục tính “kép” (the main character with the double sexual identity). Đây là một cách nói về thân phận người phụ nữ mà không rơi vào giáo điều.

-Nếu độc giả không “năn nỉ”, chắc là ông nghỉ chơi luôn?

-Ông có thể đặt câu hỏi theo một cách khác, như thế này: nếu câu chuyện chẳng [có một cơ may] tiếp diễn, độc giả đã chẳng thèm “năn nỉ”.

-Ông đã từng nói: “Là một người đàn bà là một nhu nhược tự nhiên mà mọi người chấp nhận” (To be a woman is a natural infirmitythat everyone accepts). “Là một người đàn ông là một ảo tưởng và một bạo lực mà mọi điều [đều có thể] biện minh và khuyến khích” (To be a man is an illusion and a violence that everything justifies and favors).” Đây có phải là quan niệm hiện thời của ông về thân phận người phụ nữ trong thế giới Hồi giáo, đặc biệt trước đà phát triển của chủ nghĩa chính thống, cứ chĩa mũi dùi vào  người phụ nữ? Tôi hỏi ông câu này, bởi vì, song song với sự áp bức trà đạp người phụ nữ của cái gọi là chủ nghĩa chính thống, phong trào đòi hỏi nữ quyền Hồi giáo hiện đang trỗi dậy.

Những nhà nữ quyền Hồi giáo lấy ra những đòi hỏi, những luận cứ của họ, từ chủ thuyết và lịch sử đạo Hồi. Họ chứng minh rằng những áp bức trà đạp người phụ nữ trong những xứ sở Hồi giáo chẳng mắc mớ chi đến đạo Hồi, thoạt kỳ thuỷ nhằm giải phóng họ, và  đã sản xuất ra những vị nữ lưu đứng đầu nhà nước, những chính trị gia, những nhà thơ, những nhà thần học. Một trong những vị nữ lưu, đồng bào của ông, Fatima Mernissi: một trong số những người hùng biện nhất, thông thái nhất của những nhà nữ quyền Hồi giáo. Tôi đang nghĩ tới những cuốn sách của bà: Những Hoàng hậu đã bị bỏ quên của Hồi giáo (The Forgotten Queens of Islam), Hồi giáo và Dân chủ (Islam and Demecracy), Quá khỏi Mạng che mặt (Beyond the Veil)… chúng cho thấy, Hồi giáo bị biến chất (denatured) tới mức nào, so với tư tưởng khởi đầu của người sáng lập ra nó. Và nó bị biến chất là do những nhà cai trị tham nhũng, và những mullahs (giáo sĩ Hồi giáo). Bà cảm nhận, ngày nay sự áp bức phụ nữ còn liên quan tới sự kém mở mang, nghèo đói, bất công, và tham nhũng, “chuyện thường ngày ở huyện” trong những xứ sở thuộc thế giới thứ ba.

-Đúng như vậy. Bức mạng che hiện hữu trong tất cả các tôn giáo, ngay cả trong đạo Cơ đốc. Người ta lấy khăn phủ đầu, như là một dấu hiệu của sự kính trọng, khi bước vào nhà thờ, nhà tu. Khi cầu nguyện bắt buộc phải làm vậy. Nhưng tôi nghĩ, thiết yếu là phải tách rời chính trị và tôn giáo. Tôn giáo là vấn đề của từng cá nhân, nó là sự quan tâm giữa từng con người với Thượng Đế. Sử dụng Hồi giáo vào những mục đích chính trị là mị dân thuần tuý, một phương thức để áp bức dân chúng. Tôn giáo quan tâm tới điều được coi là vĩnh hằng, thiên thu, trong khi đó, chính trị, do bản chất của nó, là tạm bợ, nhất thời. Bởi vậy, chúng ta phải tách rời cả hai, nếu không, những xứ sở Hồi giáo sẽ chẳng bao giờ vượt lên khỏi tình trạng kém mở mang và áp bức.

-Chúng ta hãy trở lại với nhân vật Ahmed/Zahra. Làm cách nào cô giải quyết được bài toán nhức đầu của cô?

-Việc của tôi (My job) không phải đưa ra những câu trả lời hay tìm giải đáp, nhưng mà hỏi (ask questions), chứng nghiệm (testify), trong một hoàn cảnh nhân sinh. Tôi kể một câu chuyện, và hy vọng rằng, nó sẽ gây suy nghĩ (incite reflection), tạo tư tưởng.

-Xen kẽ bộ ba trên, ông còn viết một cuốn sách nhỏ về tình bạn, Ngợi Ca Tình Bạn (L’Éloge de l’Amitié, In Praise of Friendship), trong đó ông nhắc tới tất cả những bạn bè làm cho cuộc đời của ông thêm giầu có. Trong số đó, Jean Genet có vẻ chiếm một vị trí đáng kể nhất, đối với ông. Tính tình ông ta rất kỳ lạ: dữ dằn (farouche), nhút nhát, cô độc, rất ít người biết tới. Ông nghĩ thế nào, về con người và tác phẩm, từ một khoảng cách hiện nay, nhìn lại?

-Ông ta là một con người cực kỳ khác thường. Khi cuốn đầu tay của tôi ra lò, tôi gửi một bản tới ông, qua nhà xuất bản của ông ta, chẳng hy vọng ông trả lời; như mọi người biết, đây là một con người rất e thẹn, và cô độc. Một bữa, một tay Cộng sản bạn của tôi, thường xuyên đọc báo “đảng” (tờ Nhân Loại, L’Humanité), anh ta bảo: có một bài viết về “toa” trên tờ báo đảng đó! Tôi chạy vội đi mua một tờ! Bài viết hoá ra là một bài phát thanh, của Genet, về một số nhà văn Ả rập. Trong bài viết, ông ta tấn công Sartre, buộc tội Sartre đã không quan tâm đúng mức tới những nhà văn này, trong số đó có chính tôi!

Ngày hôm sau tôi gửi lời cảm ơn về lòng tốt của ông ta, và cho biết, tôi hiện đang ở Khu Sinh Viên (Cité Université). Ngày tới, có người gọi cho tôi. Là Genet. Và ông đề nghị gặp. Đó là khởi đầu một tình bạn kéo dài tới hết cuộc đời của ông. Vào năm 1979, khi xẩy ra cuộc cách mạng của Khomeini tại Iran, ông ta bảo tôi: “Tớ khoái tay già này, dám nói ‘Hãy xéo đi!’ với Mỹ và Tây phương”. Không phải ông quan tâm tới cuộc cãi lộn chính trị giữa “the Shah” (Vua Iran) và Khomeini, nhưng mà là thái độ nổi loạn của một con người chống lại một hệ thống, chống lại cả thế giới. Ông luôn luôn giữ những vị trí tàn bạo (brutal positions), vì ông là một con người nổi loạn, chống lại quyền lực bất kể dưới dạng nào.

Chúng tôi trở thành bạn, mặc dù ông chẳng hề tin vào tình bạn, bởi vì theo ông, tự do và sự trung thuỷ không thể cặp kè với nhau được. Tuy nhiên ông luôn là bạn tốt, với tôi. Ông bảo tôi: “Khi viết, hãy nghĩ tới người đọc, hãy giản dị”. Tôi cố theo lời khuyên của ông, bởi vì tôi nghĩ giản dị là một dấu hiệu của chín chắn.

-Tình bạn được tôn thờ tại những xứ sở Trung Đông. Tại Ba tư, nó gần như “xêm xêm” với tình yêu. Ở Marốc, cũng rứa?

-Không hoàn toàn như vậy. Nhưng tình bạn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đời của riêng tôi. Tình yêu là một điều chi khác, nhiều khi đối ngược với tình bạn. Tình yêu thì rắc rối, đầy khó khăn trắc trở. Nó thuộc loại hiếm hoi, nghĩa là còn tùy thuộc vào những điều mà thường xuyên vượt ra khỏi khả năng của người trong cuộc. Tình bạn ngược hẳn lại: giản dị, tự nguyện, bền vững.

-Rữa Thối (Corruption, dịch từ bản tiếng Pháp: L’homme rompu), xuất bản năm 1994, là về sự tham nhũng, hối lộ trong một xứ sở như Marốc. Đây là một tiểu thuyết mang tính chính trị, tố cáo mạnh mẽ nhất trong những tác phẩm của ông. Ông có nghĩ rằng chính trị có thể làm thay đổi những sự việc ở Maghreb, hay ở trong những xứ sở thuộc thế giới thứ ba, nói chung? Theo ông có cần làm sống lại đạo đức, tâm linh (a moral and spiritual revival)?

-Đạo đức và tâm linh chẳng thể nào tái sinh trong một thể chế chính trị bịnh hoạn, hư ruỗng. Do đó, cuộc chiến đấu chống lại tham nhũng, hối lộ là một cố gắng làm cho xã hội trở nên khoẻ mạnh, về đạo đức, cũng như là về văn hóa.

-Cuốn tiểu thuyết mới của ông, Đêm Lầm, là cuốn thứ ba trong một bộ ba cuốn. Nhân vật chính lại (again) là một người đàn bà. Có phải đây là phản ứng của ông trước chuyện (ngược đãi phụ nữ) xẩy ra tại Algeria, vào lúc này?

-Không. Cuốn sách nói về một bạo lực nào đó, từ lâu vẫn nằm ngủ trong nhân vật chính, và sau cùng bà đã trả thù. Đây không phải là một câu chuyện mang tính hiện thực (realistic). Nó là về bạo lực của một người đàn bà đã bị áp bức quá lâu, và cuối cùng nổ bung ra. Nhưng không phải một người đàn bà thực (a real woman), bà thuộc về cõi huyền hoặc (she belongs to the realm of legend).

-Ông nghĩ gì về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, sử dụng những hình tượng thần thoại từ những chuyện dân gian, ở Nam Mỹ, để làm sáng tỏ hoàn cảnh hiện thời? Trường phái này, gồm những tiểu thuyết gia Nam Mỹ, khác biệt với của ông, ra sao? Đặc biệt, ông có ái mộ tác giả, hay tác phẩm nào, thuộc trường phái trên?

-Tôi rất thích Juan Rulfo, Juan Carlos Onetti, một vài cuốn của Gabriel García Márquez. Nhưng tôi không nghĩ chúng tôi cùng một trường phái. Họ đóng rễ vào văn hóa riêng của họ, và tôi, vào của tôi. Và hai văn hóa này khác biệt, không chỉ vì Hồi giáo, mà còn nhiều yếu tố khác nữa, như lịch sử và địa dư.

-Ông đã dính vào vụ Rushdie?

-Lẽ dĩ nhiên. Và tôi đã chống đỡ cho ông ta. Đây là một biểu tượng và một cần thiết. Chống đỡ (defend) cho Rushdie là chống đỡ tự do viết, tưởng tượng, sáng tạo.

-Ông tổ chức ba chuyện viết lách như thế nào?

-Tôi rời nhà rất sớm, mỗi buổi sáng, và tới đây. Tôi làm việc suốt ngày, trở về nhà, và trải qua buổi tối với gia đình, vợ và 4 cháu.

-Ông viết tay, hay dùng computer?

-Tôi viết tay. Computer là dùng để viết bài (articles), bởi vì mấy tờ báo đòi hỏi, bài ghi trên dĩa mềm.

-Ý tưởng – viết một cuốn tiểu thuyết mới, a new novel – tới với ông như thế nào? Ông có ngưng tất cả mọi việc, khi viết nó?

-Tôi để cho ý tưởng chín mùi trong một thời gian dài. Tôi ngồi xuống và khởi sự viết, khi cảm thấy một sự thúc bách nào đó. Khi viết, tôi đọc ít đi. Gần như tôi để hết tâm trí vào nó, vì đây là một niềm vui.

-Những kẻ quấy rầy, phá hoại công việc viết, là những gì? Hemingway cho rằng, khốn kiếp nhất, là cái điện thoại.

-Những bực bội, trói buộc xã hội, tâm lý, thời gian phí phạm cho con rùa hành chính… Tuy nhiên, người ta không thể viết, nếu không sống, và cuộc sống là phải đương đầu với ba chuyện bực mình kể trên. Bởi vậy, điều ngăn trở viết đến từ bên ngoài nó. Nhưng sẽ hết viết hoàn toàn, nếu thiếu vắng hy vọng, khi người viết tự hỏi: ích chi đâu, ba chuyện viết? Một khi đối đế, cảm thấy văn chương là vô dụng, tôi sẽ ngưng viết. Cho tới lúc đó, mặc dù bực bội, mặc dù chán nản, tôi vẫn tiếp tục. Ngắn gọn, một khi cảm thấy không cần viết: ngưng!

-Gore Vidal có lần nói, giống như ông chủ tiệm tới tiệm của mình, hay ông đốc tưa tới phòng mạch mỗi ngày, nhà văn ngồi và viết, theo nghĩa, đây là nghề của anh ta, rằng viết là cái điều mà một nhà văn làm. Ông có nghĩ như vậy?

-Không. Đây là viễn ảnh Mẽo về nhà văn. Với tôi, nếu một nhà văn viết để kiếm sống, ông ta bắt buộc sẽ phải đẩy mình tới một tình trạng thỏa hiệp. Ông sẽ “băn khoăn, cân nhắc”: cái này bán được không, cái kia ăn khách đấy. Đây không phải là mối bận tâm của tôi. Tôi hạnh phúc khi có một số độc giả, nhưng người ta không thể viết ra, chỉ để bán được. Một nhà văn không phải là một ông chủ tiệm. Một nhà văn tạo ra một thế giới tưởng tượng, và ông ta chuyển nó tới cho những người khác.

-Đây có phải là phận sự (function) của nhà văn? Shelley nổi tiếng với câu nói: thi sĩ là những nhà lập pháp không được thừa nhận, của thế giới. Ông tin như vậy?

-Tôi không tham vọng tới mức đó. Với tôi, nhà văn là một chứng nhân. Của thời đại của mình. Do đó, anh ta có một vị thế riêng. Tôi không nghĩ, nhà văn có một vai trò quyết định – anh ta kể những câu chuyện, và trong khi làm như vậy, anh ta phê phán (comments) về xã hội của mình, và về thế giới. Anh ta truyền đạt qua tưởng tượng.

-Một khi ông đã có một cái giàn, cái khung cho một cuốn tiểu thuyết, và khởi sự viết, ông có luôn luôn ở trong tình trạng chủ động, hay là mặc tình cho những năng lực nội tại của câu chuyện lấn lướt?

-Khó mà biết được chuyện gì sẽ xẩy ra, nhưng tôi cứ để cho mình tự do. Đừng để xẩy ra tình trạng bị ép, bị trói, hay là mất kiểm tra. Tôi cứ thế tiến lên, theo trực giác, và thoải mái khi đụng những ý tưởng mới, hoặc gặp những khúc quanh không tiên đoán được.

-Cái gì tới trước, cốt truyện hay nhân vật?

-Ý tưởng chính, là quan trọng, nhưng từ ngữ cũng quan trọng chẳng kém – Chúng phải được chọn lựa kỹ, sử dụng đúng chỗ. Như toán học. Cốt truyện có thể do một điều gì tôi đã chứng kiến, đã đọc, hoặc đã nghe nói. Con người làm sao biết hết mọi chuyện. Nếu như vậy, viết trở nên nhàm chán. Điều dẫn dắt câu chuyện, đó là không khí chuyện (ambiance), tức là cái thế giới chung quanh một nhân vật. Nhân vật bịa ra câu chuyện, nhà văn tiếp diễn (It is the character who invents the story as the writer proceeds).

-Ông có viết đi viết lại nhiều lần?

-Những bản văn tuyệt vời là chỉ có một lần viết. Nhưng thứ này hiếm, hầu như bất khả. Tôi viết lại cả một chương, chứ không viết lại theo kiểu đây một khúc, kia một dòng. Tôi có thể bỏ luôn cả một chương, và thêm vào một chương khác.

-Những chương trình trong tương lai của ông?

-Tôi đang viết một cuốn tiểu thuyết, lấy khung cảnh Naples (Ý đại lợi). Bởi vì tôi đang tính rời Marốc. Tôi vừa mới sửa lại và nới thêm ra, một tiểu luận về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đã xuất bản vào năm 1984, tựa là “Lòng Hiếu Khách của người Pháp” (French Hospitality). Tôi viết thêm một lời giới thiệu dài, để giải thích tại sao nó tồi tệ đi trong 13 năm vừa qua.

-Có thể tôi lạc quan, bởi vì tôi nghĩ Le Pen chỉ là một sai lạc nhất thời, và sau hết, người Pháp sẽ trở lại với truyền thống dâng hiến chỗ cư ngụ, và bảo vệ cho những người bị bách hại. Văn hóa Pháp là từ đó mà ra. Hãy nhìn con số những nhà thơ, nhà văn, nhà trí thức lớn trong 100 năm qua, đã tới Pháp, từ bất cứ nơi nào trên trái đất.

-Tôi thành thực hy vọng là ông đúng. Trong khi đó, chúng ta – những nhà văn, nghệ sĩ, trí thức – chỉ có thể làm hết sức mình, bằng tác phẩm của mình, bằng những thí dụ riêng của mình.

Shusha Guppy (biên tập viên tại London của tạp chí Điểm Sách Paris).

 

 

 

38.  Phỏng vấn Edward Said

 

Từ 30 năm nay, E. Said là người phê bình văn học, giảng dậy Đại Học, và có uy tín nhất trên thế giới trong việc giải trừ chủ nghĩa thực dân trong văn hóa, khi đứng ở địa vị một nhà trí thức nhược tiểu phương Đông, phê phán văn chương, và học thuật của phương Tây, trong việc mô tả và trình bầy xã hội châu Phi, châu Á.

Phỏng vấn dưới đây, do Eleanor Wachtel thực hiện cho đài CBC Radio (Canada); được in trong (More) Writers & Company (nhà xb Vintage Canada, 1997).

 

Edward Said không đơn giản. Khi cố gắng mô tả ông, tôi đụng những nhãn hiệu thật chỏi nhau. Ông là tín đồ Ky-tô, Ả-rập Palestine; thân phụ phục vụ trong quân lực Hoa-kỳ thời kỳ Đệ Nhất Chiến. Một nhà khoa bảng sống tại Mỹ trong 40 năm qua, thành viên, tiếng nói trực tiếp của Hội đồng Quốc gia Palestine (Palestinian National Council) từ 1977-1991; tuy nhiên ông không tin cậy chủ nghĩa quốc gia, lên tiếng chỉ trích Saddam Hussein và bênh vực Salman Rusdhie.

Học tại Princeton và Harvard, giáo sư môn văn chương so sánh, ông mê nhất, những cuốn tiểu thuyết trong đó ông chỉ ra, nào là chủ nghĩa phân biệt sắc tộc, chủ nghĩa đế quốc, cũng như tinh thần phe nhóm, địa phương.

Tiếng tăm quốc tế của ông, là từ cuốn Chủ nghĩa Đông-phương, Orientalism (1978), một cuốn sách gây tranh luận, và làm bực mình. Một cuộc khai quật, mổ xẻ thái độ của Tây-phương đối với Hồi-giáo và Đông-phương, và cùng với nó là điều mà Said mô tả: "một màng lưới phân biệt sắc tộc, nguyên mẫu văn hoá, và ý thức hệ phi nhân." Ngoài ra, Said còn chính trị hóa, điều vốn giản đơn được coi là "văn chương so sánh". Cuốn sách trở thành đề tài hội thảo, và được dịch ra 15 thứ tiếng.

Cuốn sách xuất bản năm 1993 của ông, "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc", đặc biệt là do tham vọng và tính uyên bác của nó. Như một nhà điểm sách nói về ông: "Said là một, trong số đếm trên đầu ngón tay, những nhà phê bình lớn lao, mang tính nhân bản, vượt biên cương, bờ ngăn".

Trong cuốn sau, Said phân tích tác phẩm của Austen, Thackeray, Dickens, Eliot, Kipling, Conrad, những tác giả khác, và khẳng định rằng: thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Anh mắc míu ngay từ khởi thuỷ với sự thành lập Đế quốc Anh. Rằng biện minh cho chủ nghĩa đế quốc nằm ngay trong tim trong hồn giấc mơ văn hóa Tây-phương. Ông còn đi xa hơn. Ông nghiên cứu thật tỉ mỉ văn chương những cựu thuộc địa, và vẽ ra bản đồ lịch sử cuộc đề kháng, và cùng với nó, là văn chương phản ảnh cuộc kháng chiến đó. Ở đây, ông lại đi sâu, và xa hơn, trên cái nền của cuốn trước, Orientalism.

Said tiếp tục kếp hợp phê bình văn hóa với nghiên cứu chính trị, người đọc hiển nhiên nhận ra điều này, trong hai bài viết năm 1996: "Đại diện cho người Trí thức (Representation of the Intellectual)", và "Hòa bình và Bất mãn: Những tiểu luận về Palestine trong Tiến trình Hòa bình Trung Đông (Peace and Its Discontents: Essays on Palestine in the Middle East Peace Process").

Vào năm 1992, bác sĩ phát hiện, ông bị bệnh hoại huyết (leukemia). Bệnh chỉ làm ông cất cao tiếng nói. Nó cũng làm ông phải thực hiện một chuyến thăm viếng Jerusalem, nơi chốn ra đời, và khởi sự viết hồi ký về cuộc đời trước 1967 của ông.

Bài phỏng vấn được thực hiện tại văn phòng của ông tại Đại học Columbia vào ngày 26 tháng Hai, 1993; đúng ngày Trung tâm Thương mại Thế giới bị ăn bom.

 

Wachtel: Ông từng nói, cái nền của ông là một chuỗi những đổi dời, di xứ, và không thể vãn hồi. Rằng cái cảm quan ở giữa những nền văn hóa bám riết ông. Có lẽ chúng ta nên lần theo những đổi dời, bắt đầu bằng nơi chôn rau cắt rốn: Jerusalem, thời Palestine. Ông cảm thấy ở giữa những văn hóa, khi còn là một đứa trẻ?

Said: Đúng như vậy. Tôi sinh ra ở Jerusalem, cha tôi là từ Jerusalem, nhưng ông thuộc mẫu người khá lạ. Sống ở Hoa Kỳ trước khi lấy vợ. Ông trốn đi lính cho Thổ Nhĩ Kỳ, qua Mỹ vào năm 1911 hay 1912. Họ tính bắt ông đi đánh nhau ở Bulgaria, tôi nghĩ vậy. Lúc đó ông 16 hay 17 tuổi. Sau đó, ông gia nhập quân đội Hoa Kỳ, vì nghĩ rằng sẽ được đi chiến đấu chống Thổ Nhĩ  Kỳ. Thực sự, ông gia nhập quân đội Canada, rồi bỏ ngũ, vì biết họ sẽ không đưa ông qua Trung Đông. Sau đó mới tới quân đội Hoa Kỳ. Ông chiến đấu ở Pháp, và bị thương ở đó. Thành công dân Hoa Kỳ. Sau chiến tranh chừng một năm, khoảng 1919, ông trở lại Palestine, làm ăn chung với một người bà con. Cuối thập niên 1920, ông có một cơ sở kinh doanh sách vở và đồ dùng văn phòng tại Ai Cập. Tôi sinh tại Jerusalem vào năm 1935, khi đó cha mẹ tôi đi đi lại lại giữa Palestine, và Ai Cập. Tôi không sống nhiều ở Palestine, và ở bất cứ nơi nào, là vì vậy. Chúng tôi lúc nào cũng di chuyển. Có thể, đầu năm Ai Cập, giữa năm Palestine, cuối năm ở Lebanon, nơi đây chúng tôi có một căn nhà. Lại thêm, có cha là công dân Hoa Kỳ, tôi thừa hưởng cùng lúc hai thứ, Hoa Kỳ và Palestine. Tôi sống ở Ai Cập, mà không phải là người Ai Cập. Tôi cũng giống cha, một mẫu người phức hợp kỳ cục. Đây là hồi ức sớm sủa nhất của tôi.

Wachtel: Ông cũng đã từng coi mình là một thiểu số trong một thiểu số.

Said: Cha mẹ tôi đều là tín đồ Tín Lành (Protestants) ở Palestine. Điều này thực sự có nghĩa, họ bị tách rời khỏi khối đa số tín đồ Ky-tô (Christians), khối đa số này lẽ dĩ nhiên lại là thiểu số trong một xã hội thiết yếu là Hồi-giáo. Hầu hết tín đồ Ky-tô giáo ở Trung Đông - hay ít ra ở vùng Levant - là theo Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodox), nhưng cha mẹ tôi lại là con cái của những người đã cải đạo, không còn giữ gốc Chính Thống Giáo Hy Lạp. Cha tôi, qua cha của cha tôi, trở thành tín đồ Anglican - một Episcopalian. Má tôi - qua ông già của bà - trở thành Baptist. Đây là một trong những điều lý thú từ những phái đoàn truyền giáo mà ra. Khi tới Palestine, Lebanon, Jordan, và Syria vào những năm 1850, họ đã thất bại, không làm sao cho những người Hồi giáo hoặc Do-thái chuyển qua Ky-tô giáo; đây là điều họ định làm; thay vì vậy, cuối cùng họ chuyển những tín đồ Ky tô từ khối đa số qua những tân giáo như trên.

Wachtel: Một đứa bé, lại ở giữa những nền văn hoá như thế, thì sao?

Said: Tôi phải nói sự thực, một cách "thực thà, lương thiện nhất": thật thê thảm. Hồi ức đeo đuổi hoài hoài, ngay từ bé: mình là thứ trôi sông lạc chợ (a misfit). Xấu hổ trần ai. Tôi luôn luôn bức xức về liên hệ của mình với người khác, như thể lúc nào cũng muốn được như họ, hoặc Hồi giáo/Ai Cập, hoặc Hồi giáo/Palestinian. Và tôi luôn luôn có cảm giác (mình) hoàn toàn không đúng. Cuốn sách tới của tôi có tên là "Không Hoàn Toàn Đúng" (Not Quite Right). Tôi luôn luôn nghĩ rằng, mình có đây là để trả giá cái điều đó (I was being made to pay for it), cách này hoặc cái khác.

Tôi quên không thêm vô một yếu tố quan trọng: tôi luôn học, trường Anh hoặc trường Pháp. Thành thử ngoài vấn nạn căn cước Arab, còn chuyện do học hành mà ra. Vào cái tuổi mười ba, mười bốn, có thể nói là tôi biết mọi điều về lịch sử Anh, hay Pháp. Nhưng tôi chẳng biết gì về nơi tôi đang sống. Đó là phong cách học (style of education). Đây là một sự mất thoải mái thường xuyên. Gia đình tôi khu trục nó, bằng cách tạo vỏ bọc chung quanh chúng tôi. Chúng tôi khác biệt nhau một cách không bình thường, và chúng tôi - bốn chị em và tôi - mỗi đứa có những loại quà khác nhau. Hậu quả là chúng tôi sống trong một thế giới giả đò (a make-believe world), và thế giới này không có liên hệ gì tới: a/ thực tại, b/ lịch sử và thực tế nơi chốn mà chúng tôi đang sống.

Wachtel: Nói chung là ông không hòa đồng được với một số bạn bè. Như tôi được biết, khi gia đình ông chạy qua Cairo vào năm 1947, ông đã trải qua vài tháng tại một ngôi trường có tên là "Eton của Trung Đông", dành cho con nhà quyền quí, trong đó có ông vua tương lai của Jordan, King of Hussein, và tài tử Omar Sharif.

Said: Vào thời học chung, tôi không biết anh sẽ là một tài tử nổi tiếng. Anh là đầu đàn trong trường, lớn hơn tôi bốn hoặc năm tuổi, và thường chỉ chơi với đám nhỏ như tôi. Học sinh ở đây được phép có thầy riêng. Và bị đòn không ít. Ngày đầu tiên tôi đã bị đòn vì nói chuyện trong lúc cầu nguyện. Thầy toàn người Anh, họ đều tỏ ra khinh bỉ học trò như tụi tôi. Luôn luôn có chiến tranh giữa hai bên. Đó là những ngày cuối cùng người Anh còn hiện diện tại Ai Cập, thành thử mấy ông thầy coi như họ là những người còn lại sau cùng, đại diện cho cả một đế quốc. Nói chung thật không vui vẻ một tí nào, vài năm sau (ở đây ghi là vài năm, trong khi câu hỏi, vài tháng. CTND), tôi bị đá văng ra khỏi trường.

Wachtel: Tại sao?

Said: Thì bị gán cho là hạnh kiểm xấu, thực sự là, luôn gây rối trong lớp, chọc tức mấy ông thầy. Bây giờ nhìn lại, tôi có cảm tưởng những ông thầy là những người lính già mệt mỏi của Đệ Nhị Chiến. Nếu họ quay lưng về phía lớp học, là nó biến thành bãi chiến trường - chúng tôi thô bỉ không thể tưởng tượng được - và họ chỉ còn một cách lắc đầu. Họ là người Anh (British), và không thể hiểu những điều chúng tôi nói bằng tiếng Ả Rập. Một sự kiện quan trọng: khi tới nhập học, chúng tôi được phát một tập kỷ yếu, trong đó là những luật lệ; luật thứ nhất: tiếng Anh là ngôn ngữ ở trong trường, và nếu học sinh bị bắt gặp đang nói tiếng Ả Rập, hay một ngôn ngữ khác, người đó bị đánh đòn, hoặc bị nhốt. Bởi vậy chúng tôi nói tiếng Ả Rập là để tấn công thầy giáo. Ông già tôi sau đó quyết định, nếu có cố cho tôi trở lại trường Anh, thì cũng như không. Thế làø ông tống tôi qua Mỹ, vào một trường thanh giáo chán không thể chịu được, ở New England. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy tuyết, vẻ đẹp của nó.

Wachtel: Nhưng trường học là một thảm họa?

Said: Nó thật kinh khủng. Nhưng do tôi khá khôn, lại học được, nên họ không thể đuổi. Tôi không nói tên trường, vì nó thật sự nổi tiếng. Bạn phải thức dậy vào giờ ma họp chợ (ungodly hour), và làm những chuyện như vắt sữa bò,  hoặc đủ thứ chuyện "thánh thiện" khác. Nhưng do tôi đã được cái lò Anh (the English system) huấn luyện quá kỹ, cho nên mọi thứ đều là trò trẻ con đối với tôi. Mấy chuyện còn lại đều quá tệ. Vả chăng, ngay cả ở đó, tôi cảm thấy mình không hợp với hệ thốngï. Có thể là do bản chất, tôi không thích nó, hoặc trong tôi thiếu, cái gọi là hệ thống. Bởi vậy sau hai năm, tốt nghiệp, với điểm cao nhất, tôi vẫn không được ngợi khen hoặc công nhận giá trị. Khi cố hỏi, họ nói tôi không hội đủ điều kiện đạo đức. Và tôi chẳng bao giờ tha thứ cho họ về chuyện coi thường luật lệ học vấn, do chính họ đặt ra, khi phải đối diện với thành quả của tôi.

Wachtel: Ông coi cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế Quốc" như một cuốn sách của lưu vong. Như thế, ông đúng là một con người mà những quan tâm hiện thời được "kiểm tra một cách chặt chẽ" bởi cuộc tranh chấp giữa văn hóa từ đó ông được sinh ra, và văn hóa ông đang sống. Ông có nghĩ, theo một nghĩa nào đó, chúng ta đều là những kẻ lưu vong trí thức. Ông có coi lưu vong là một sự kiện hồ hởi?

Said: Tôi không biết bất cứ một điều kiện nào khác, để mà nói ra sự thực với bà. Năm nay tôi 57 tuổi. Năm ngoái tôi trở lại Palestine, sau 45 năm xa nó. Đi với vợ con. Chúng tôi có trở lại căn nhà nơi tôi ra đời. Thật dễ chịu khi được nhìn lại căn nhà, sau bao năm tháng như thế đó, nhưng cũng thật rõ ràng: tôi không thể trở lại. Tôi thực sự không hiểu được thế nào là cảm thấy hoàn toàn ở nhà. Tôi cứ giả dụ, như nó là những trái nho chua chát, và có lẽ cũng chẳng đáng tìm kiếm làm chi.

Wachtel: Tôi nghĩ là, ngay từ khởi thuỷ, ông đã cố tách rời, văn chương và chính trị. Một bên là nghiên cứu văn học Anh theo lối trường lớp, và một bên là những quan tâm chính trị của ông. Tôi nghĩ, ông có một cuộc sống rất là "schizophrenic" (thần kinh bại liệt), như ông đã từng gọi. Làm cách nào, ông kiếm ra con đường để nối kết những điều ông quan tâm?

Said: Sự kiện (cần nói ra là), chúng ta sống trong thế giới. Đây là vấn đề thời-cơ (time and right event). Trong trường hợp của tôi, đó là Cuộc Chiến 1967. Lúc đó, tôi là một bậc mô phạm gương mẫu; tôi làm toàn những điều phải, điều đúng - học trung học, đại học, lấy bằng Ph. D., có việc làm, tạo môi trường bạn bè, có sách xuất bản - và rồi 1967: thế giới mà tôi biết đó vỡ vụn ra. Thêm nhiều phần đất Palestine, phải nói là phần còn lại của Palestine, bị Do Thái tước đoạt - West Bank, và Gaza - và bất thình lình, tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào khu vực này. Tôi chưa từng dậy môn văn chương Trung Đông - Tôi có dậy vài cuốn sách Ả Rập, qua bản dịch, nhưng cơ bản mà nói, mọi sáng tác của tôi là về văn chương Tây-phương. Thế là tôi bắt đầu tự làm quen với chính mình, với cái phần đời bị đàn áp, hủy diệt, tức phần lịch sử đời tôi như là một người Ả Rập. Tôi làm được vài chuyện. Tôi đi Trung Đông khá thường xuyên. Lấy vợ ở đó. Một người đàn bà Trung Đông. Và lần thứ nhất trong đời, tôi lo học, nghiên cứu một cách hệ thống ngữ văn (philology) Ả Rập, và những tác giả cổ điển thuộc truyền thống Ả Rập. Vào thời điểm này, lực lượng Palestine đụng độ nặng nề với những người Jordanians. Bởi vì phần lớn gia đình tôi sống ở Jordan, tôi tới viếng thăm bà con ở Amman vào năm 1970. Ở đó, tôi gặp một số bạn bè cùng học trung học, người Palestine, họ đã trở về và gia nhập lực lượng. Thật là một cú sốc đối với tôi. Và cứ thế tôi càng ngày càng dính líu tới phong trào, khi nó chuyển tới Beirut (thời gian những năm 1970, gia đình tôi ở đó). Tôi ngày càng quan tâm tới những vấn đề chính trị trong cuộc chiến đấu của người Palestine. Lẽ tự nhiên, trong đó có cả quan tâm tới những giải pháp cho nỗi đau bị tước đoạt, lưu vong, cuộc chiến chính trị cho nhân quyền, chiến đấu để nói lên điều không thể nói lên được. Tất cả mớ bòng bong, và rồi cuốn sách của tôi, Orientalism, đã thoát thai từ kinh nghiệm đó.

Wachtel: "Chủ nghĩa Đông-phương" là một trong những cuốn tạo ảnh hưởng nhất của ông. Trong đó, ông đưa ra vấn đề: những người Ả Rập hay thế giới Đông-phương đã được tiêu biểu như thế nào, trong và bởi, những người Tây-phương. Cơ bản mà nói: nó đã được tiêu biểu sai (misrepresented).

Said: Có tiêu biểu là có là sai lạc, hoặc thế này hoặc thế khác. Nhưng trong "Chủ nghĩa Đông-phương", tôi khẳng định một điều rằng: những quan tâm trong việc tiêu biểu hóa Đông-phương qua cái nhìn Tây-phương, đều nằm trong sự kiểm soát của đế quốc, và đây là những "đặc quyền" của nó. Tôi cố gắng chứng tỏ: cuộc xâm lăng Đông-phương, bắt đầu với Nã Phá Luân, vào cuối thế kỷ 18, và tiếp tục khi Anh và Pháp cứ thế ăn sâu vào Đông phương, nó đã tạo nên mầu sắc, và hình dáng cho cái gọi là tiêu biểu hóa Đông-phương bằng cái nhìn Tây-phương. Điều này chẳng mắc mớ gì tới cách giải thích, vào thế kỷ 19, của đa số những nhà khoa bảng chuyên nghiên cứu về Đông-phương - đặc biệt là những giáo sư người Đức, cũng có cả những giáo sư người Anh, và Pháp. Theo họ, nó (sự tiêu biểu, cái nhìn Đông-phương bởi Tây-phương) mang tính khách quan, và khoa học. Thực sự, đây là vận hành của quyền lực, và kiểm soát thường xuyên, liên tục đám dân mà họ cố gắng cai trị.

Wachtel: Những những hình ảnh - những biếm họa (caricatures) của một Đông-phương không thể nào chiếu giọi, một phương Đông huyền bí, tính quỉ ma, sự ghê rợn của thế giới Ả Rập - tại sao chúng "cần thiết được tạo ra"?

Said: Tôi nghĩ, ở đây sự ngu dốt, thiếu hiểu biết đã đóng một vai trò lớn lao. Đã có một sự thù nghịch, và nó ngăn cản điều mà tôi gọi là sự trao đổi bình thường giữa những văn hóa. Một trong những điều thực sự quái lạ, đó là có một sự liên tục bướng bỉnh, ngu đần giữa những cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo ở thế kỷ 12, và những cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo của thế kỷ 18, 19, và 20: chúng cứ thế, không thay đổi. Trước hết, tôi khẳng định: không có một Đạo Hồi, Islam, thuần nhất, và giản dị. Có rất nhiều tín đồ Hồi giáo (Muslims) và rất nhiều cách để giải thích Đạo Hồi (Islam) - đây là chủ đề một cuốn sách khác nhan đề là "Covering Islam" (Tạm dịch: "Theo dõi Hồi giáo"). Có một khuynh hướng, luôn luôn muốn đồng hóa, gói tròn cái khác, một điều gì đó, do ngu dốt, một phần; ngoài ra còn do sợ hãi, bởi vì những đạo quân Ả Rập đã tiến vào Âu-châu, và bị đánh bại ở thế kỷ 14, và 15. Thành thử ý nghĩa này đã có từ lâu rồi. Thứ nữa, lẽ dĩ nhiên, còn bộ ba tín ngưỡng nhất thần: Đạo Hồi là sau chót, trong ba tín ngưỡng nhất thần lớn (hai đạo kia là Do-thái giáo và Ky-tô giáo). Theo một nghĩa nào đó, sự liên hệ gần gũi giữa người Ả Rập, thế giới Hồi-giáo với Âu-châu đã phát sinh từ một điều khó chịu, mất thoải mái. Thật dễ hiểu: con người, khi đứng trước dị biệt, thường miêu tả cái đó nguy hiểm, cái đó đáng sợ, cuối cùng giản đơn nó về một vài bản kẽm có sẵn.

Điều này thực đáng sợ. Rằng trọn lịch sử tạo thành Đông-phương đang được giảm trừ, cho nên, bây giờ, trong báo chí Tây-phương, thí dụ vậy, những gì mà người đọc về Đạo Hồi, về thế giới Ả Rập, đã được tối giản một cách ghê sợ, và được hóa trang, giả mạo, như là lịch sử của hai hoặc ba trăm năm liên hệ gần gũi giữa những người Âu-châu, và về một mức độ nào đó, những người Mỹ, một bên, và bên kia, là những người Ả Rập và những người Hồi giáo. Như thể cả hai luôn ở trong thế đối diện, ở giữa họ là con mương rộng lớn, và cứ thế đôi bên ném đồ ăn hư thối vào nhau.

Watchtel: Chuyện này không thể thay đổi?

Said: Không. Và ngày càng tệ. Khi có khủng hoảng, như Cuộc Chiến Vùng Vịnh, và trên cái nền "chuyện thường ngày ở huyện" của giới truyền thông báo chí Mỹ, những bản kẽm như trên ngày càng trở nên hết hấp dẫn, mất đi dần sự tha thứ, tính xác thực của chúng. Càng ngày, chúng càng không đáp ứng thực tại có thể chấp nhận được, mang tính nhân bản. Đạo Hồi ở Tây-phương là nguyên mẫu sắc tộc, văn hóa cuối cùng có thể chấp nhận được; bạn có thể rũ bỏ mà không cần nghĩ làm như vậy là sai, hay phải lo ngại, sợ hãi.

Wachtel: Tại sao ông lại nghĩ nó là như vậy?

Said: Có nhiều lý do, nhưng tôi nghĩ nguyên nhân chính là không có sự ngăn ngừa. Không một người phương Tây, hay nói như thế này, không một người Bắc Mỹ nào hiểu biết nhiều về thế giới Hồi giáo. Nó ở ngoài kia, nó chủ yếu là sa mạc, (ở đó có) rất nhiều cừu, lạc đà, những con người miệng ngậm dao, những tên khủng bố, vv... Gia tài văn hóa, những cuốn tiểu thuyết, và những cuốn sách khác xuất hiện bằng tiếng Anh không hề quan tâm, để ý tới nó. Chẳng có gì ngăn chặn người ta ở đây nói điều họ mong muốn. Về mặt khác, những người Ả Rập và những người Hồi giáo không thực sự hiểu những phương thức chính trị về biểu thị văn hóa ở Tây Phương. Hầu hết những chế độ ở trong thế giới Ả Rập lại mang tính độc tài cơ bản, rất không được lòng dân, những chế độ thiểu số hoặc loại này hoặc loại khác; họ không quan tâm khi nói bất cứ một điều gì về chính họ, bởi vì như vậy là bắt buộc chường mặt ra để biện minh, về những chỉ trích. Những huyền thoại về Mỹ Châu, và Tây Phương trong thế giới Ả Rập đã được bản kẽm hóa, tất cả những người Mỹ đều quá ám ảnh bởi sex, họ có cẳng dài, họ ăn rất nhiều. Hậu quả là, nơi đúng ra có con người, lại chỉ thấy trống không, nơi đúng ra có trao đổi, đối thoại, cảm thông, lại chỉ có một thứ không-trao đổi tệ hại.

Wachtel: Một trong những mâu thuẫn bề ngoài, phức tạp của đời ông, đó là: mặc dù là thành viên chính quyền-lưu vong Palestine, một quán quân trong vấn đề giải phóng Palestine, ông lại tỏ ra không thoải mái với chủ nghĩa quốc gia.

Said: Chủ nghĩa quốc gia thật dễ thoái hoá, biến thành chủ nghĩa sô vanh (chauvinism). Khi bạn bị tấn công ba bề bốn bên, nhất là trong những phong trào như của người Palestine, khi mà chúng tôi không thực sự có nhiều bạn bè; nó dễ trở thành co cụm, và coi tất cả mọi người không suy nghĩ như nó, đều là kẻ thù. Đây là trường hợp đối với những người Palestine sống trong thế giới Ả Rập. Thật quá dễ hiểu. Đã có một thời, là một người Palestine là một điều thực phong nhã, cao cả. Nhưng thế giới Ả Rập ngày càng bị thu hẹp, giản trừ, cùng với nó là nghèo đói, kinh tế, xã hội phân hóa. Mọi người quá mệt mỏi vì cuộc chiến đấu kéo dài quá lâu. Lại thêm vấn đề nghi ngờ lẫn nhau. Cứ thế họ càng trở nên co cụm thành những nhóm nhỏ, đồng nhất, tin tưởng nhau. Hãy nhìn chuyện xẩy ra ở Nam Tư, nơi vốn được coi là một nhà nước đa văn hóa, đa ngôn ngữ; nó đã thoái hóa đưa đến thanh lọc chủng tộc (ethnic cleansing). Cũng chuyện như thế xẩy ra ở Lebanon, nơi một xã hội đa nguyên (pluralistic society), với những người Ky-tô và Hồi, cuối cùng đã trở thành một cuộc tắm máu hàng ngày, vì cái điều được gọi là tấm căn cước, như người ta thường gọi tại đây. Nếu bạn bị hỏi căn cước, và nếu bạn có một cái tên sai, một tôn giáo lầm, bạn sẽ bị bắn, hoặc bị cắt cổ.

Tôi sợ rằng, những chuyện không vui về chủ nghĩa quốc gia cũng đang ló diện tại những xã hội như Hoa Kỳ, và có thể ở Canada cũng vậy. Những cộng đồng sắc tộc khác nhau đang cảm thấy vấn đề làm thế nào để bảo tồn, gìn giữ căn cước của riêng họ, chống lại sự tấn công của những kẻ khác. Chính trị căn cước biến thành chính trị phân biệt, và người ta cứ thế lui vào pháo đài. Tôi có cảm tưởng quái đản là "một người nào đó" đang khoái chuyện này, thường là những người ở trên cao, vốn thích chuyện giựt dây những cộng đồng, khiến họ chống đối lẫn nhau. Nó cổ điển, và là luật chia để trị của đế quốc. Thí dụ như ở Ấn Độ, bạn có trong tay người Sikhs, người Muslims, người Hindus phụ thuộc vào bạn, và nghi ngờ những người ái quốc. Đó là tất cả cái phần gọi là tiến trình của chủ nghĩa quốc gia. Về điều này, tôi tự cảm thấy chẳng vui vẻ một chút nào hết.

Wachtel: Như vậy là những chuyện quá đa đoan phức tạp đã khiến cho ông ở vào thế đi trên dây, bởi vì ông phải bước hai bên, không chỉ về chính trị, mà còn theo kiểu, của một kẻ đánh động, đưa ra những giải pháp cho chủ nghĩa đa văn hóa, và kinh điển văn học (the literary canon). Một mặt ông hô hào chuyện cởi trói (opening things up), một mặt ông bảo vệ qui tắc văn chương, kinh điển văn học.

Said: Tôi bảo vệ điều mà tôi gọi là tác phẩm tốt (good work). Nguyên tắc chính của tôi khi đánh giá một cuốn tiểu thuyết, một bài thơ, hay một vở kịch, không liên quan gì tới căn cước cá nhân người viết ra tác phẩm. Căn cước cá nhân, cũng thú vị đấy, nếu biết được, nhưng đây không phải là giải pháp chính cho vấn đề. Một cá nhân "may mắn" thuộc loại có mầu da "đúng", có giới tính "được", có quốc gia "ngon", như vậy không có nghĩa là tác phẩm của người đó tốt, tuyệt. Có lẽ bà đã nghe nói về Hanan Ashrawi, một phụ nữ Palestine, phát ngôn viên của Phong Trào Giải Phóng Palestine, PLO. Bà là một sinh viên của tôi, và đã có viết một luận án văn chương về West Bank dưới sự chiếm đóng. Bà đã nhận ra một điều, là một người Palestine, và viết về (cái việc) bị chiếm đóng, bị thống trị, như vậy không có nghĩa là sáng tác ra được một bài thơ hay, hoặc một cuốn tiểu thuyết tốt. Đấy là vấn đề, và nó thật quan trọng.

Tôi không nói, như thế là không chủ quan. Phải rất chủ quan, nếu quyết tâm viết ra một tác phẩm tốt. Tôi thường đụng hoài với những người nói về khách quan tính, nhất là trong giới truyền thông. Bởi vì hiển nhiên, mọi chuyện trên đời đặt trên cái nền diễn giải mang tính chủ quan. Theo một nghĩa nào đó, khi nói về phẩm chất là nói về chủ quan tính. Không ai có thể nói cho bạn, rằng cuốn sách này lớn lao, vĩ đại, "bạn phải tin như vậy, bởi vì tôi nói ra điều này". Đây là vấn đề của tra hỏi, nghiên cứu. Theo tôi, một cuốn sách hay đòi hỏi một cái đọc kỹ, đọc đi đọc lại, cứ mỗi lần đọc lại có thêm thú vị, hoặc là do nó mở rộng phần ý thức, tăng khiếu thưởng ngoạn, cảm tính hay gì gì đi nữa, một tác phẩm kém không đạt được như vậy. Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm này. Bạn đọc một cuốn tiểu thuyết của Danielle Steel - như tôi thường đọc - bạn đâu cần phải đọc lại, nhưng nếu bạn đọc một cuốn của Dickens, bạn muốn trở lại với nó.

Wachtel: Ông có trích dẫn Walter Benjamin: Mọi tài liệu về văn minh đều là một tài liệu về dã man. Một cách nào đó, cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" là bàn về vấn đề này.

Said: Đúng như vậy. Một tác phẩm lớn lao không có nghĩa là nó tất yếu ngây thơ, vô tội, hoặc nó chẳng mắc mớ gì đến điều thô bỉ, tởm lợm. Khi "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" của tôi xuất hiện tại Anh, thế là có một trận bão phê bình điểm sách nổi lên. Rất nhiều người trong số đó cho rằng họ bị sỉ nhục, rằng một tác giả thánh thiện như Jane Austen thì có liên can gì tới đế quốc, nô lệ, mặc dù cái điều này không phải là tôi bịa đặt ra mà chính bà đã nói tới. Tôi không nói là bà kém tài văn đi, là vì điều này. Tôi chỉ muốn nói là tất cả những tác phẩm nghệ thuật cũng giống như con người đều mắc míu tới cái gọi là kém hấp dẫn, dã man, hoặc lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ. Điều này thật dễ nhận ra trong những tác phẩm thuộc loại qui chuẩn của thế kỷ 19 tại Âu-châu. Chúng ta đều bị vướng vào chuyện nô lệ, đế quốc qua những gì được nói về chúng. Tôi không tin đây là chuyệïn khó hiểu. Câu hỏi đặt ra là: một khi bạn nhận ra điều này, bạn làm gì với nó? Bạn muốn đè bẹp nó, hay là bạn cho rằng có gì đâu mà phải quan tâm, để ý.

Wachtel: Ông nói, ông không muốn là một người khắt khe, nhưng ông lại tránh đọc văn chương cổ điển, theo nghĩa chúng là những tác phẩm tuyên truyền cho thực dân thuộc địa?

Said: Tôi không đọc chúng theo cách đó. Trong cuốn sách, tôi nói, thật lầm lẫn nếu giản trừ những tác phẩm cổ điển như thế, vào một bảng danh sách dài những trường hợp này nọ, của chủ nghĩa đế quốc. Hoặc nói đây là những tác phẩm mang tính đế quốc. Chúng đâu phải như thế. Chúng là một phần của văn hóa đế quốc, và một phần của tiến trình - như những lý thuyết gia về đế quốc thường nói - liên can tới không chỉ những hành xử ghê tởm nhất nhưng còn tới vài sắc thái tốt đẹp nhất của một xã hội. Rất nhiều người thật sáng chói đã liên can tới đế quốc: những nghệ sĩ lớn, như Delacroix; những nhà văn lớn, như Flaubert. Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi trường hợp, bản chất, mức độ liên can khác biệt nhau, và cách nhìn của họ thật là khác biệt. Họ chẳng có gì là như nhau, và đây là lý do tại sao có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu, trong những cuốn sách của tôi, trong cả hai cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc""Chủ nghĩa Đông-phương". Tôi không cố gắng chứng tỏ: họ đều là đế quốc, nhưng mà là: họ đưa ra những cái nhìn khác nhau về thế giới đế quốc, trong những tác phẩm của họ. Họ chi li, chau truốt nó, đem đến cho nó một vài loại cảm giác, sự thích thú; như Kipling đã làm với (tác phẩm) Kim, thí dụ vậy.

Wachtel: Ông còn đưa ra một nhận định rất khó nắm bắt, theo đó, tiểu thuyết và sự tạo thành đế quốc đã mắc míu với nhau, không thể nào gỡ ra được; rằng tiểu thuyết không giản dị chỉ là phản ảnh điều gì đang xẩy ra, nhưng chủ nghĩa đế quốc và tiểu thuyết, một cách nào đó, đã hỗ trợ lẫn nhau.

Said: Đây là một nhận định khá xa vời, nhưng tôi nghĩ, nó thực.

Wachtel: Làm sao chúng hỗ trợ cho nhau?

Said: Cuốn tiểu thuyết Anh có giá đầu tiên là "Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký (Robinson Crusoe)"."Robinson Crusoe" sẽ không thể hiểu được nếu thiếu cuộc truy tìm săn đuổi mang tính đế quốc. Lỗ Bình Sơn rời Anh quốc, bị đắm tầu, thấy mình ở trên hoang đảo, và chỉ trong vài ngày, vài trăm trang tiểu thuyết, anh ta trở thành ông chủ tất cả những gì quanh anh ta. Và sau đó, bạn nhận ra một điều là, những gì hoang đảo đã làm cho anh ta, cho phép anh ta tạo dựng một thế giới riêng của mình. Nói một cách khác, chủ nghĩa đế quốc, như ở mức độ như thế, đã liên hợp với một phương hướng sáng tạo nào đó. Sau này, vào cuối thế kỷ 19, John Seely nói, rằng sự kiện trung tâm Anh Quốc, sự kiện trung tâm văn hóa Anh, căn cước Anh, nó là: bành trướng. Điều này không đúng, đối với mọi xã hội. Nhận định của tôi là: trong thế kỷ 19 và 20, Anh quốc, tự thân nó, đã là một cái gì thật độc đáo. Ý nghĩ thật lạ đời: bạn đang ngồi ở London - hãy giả dụ bạn có một căn phòng nho nhỏ ở Hampstead - và buổi sáng, thức dậy, bạn nói: "Ta kiểm tra cuộc sống của hàng trăm con người", bởi vì mỗi một người Anh kiểm tra một trăm, hoặc trăm rưởi con người khác, nếu so dân số Anh và dân số Ấn- độ, nơi họ chiếm đóng trên ba trăm năm năm. Sự kiện đó, cộng thêm sự kiện này: chưa có một xã hội Tây phương nào giữ được tính cha chú (kiểm tra, chiếm đóng) liên tục như thế, trong truyền thống đế quốc, ngoài Anh quốc ra. Và sự liên tục không bị bẻ gẫy này còn là của chuyện viết văn, viết tiểu thuyết. Không có tiểu thuyết Ý trước 1860, hay 1870. Không có tiểu thuyết Đức, cho mãi đến sau 1870. Với một vài ngoại lệ, không có tiểu thuyết Tây-ban-nha, ở thế kỷ 19. Tôi đang nói về sự liên tục. Theo hầu hết các nhà sử gia, tiểu thuyết Anh bắt đầu với những người như Defoe vào ngay đầu thế kỷ 18 và cứ thế tiếp tục, không  gẫy khúc, qua thế kỷ 18, 19 và 20.

Wachtel: Nhưng như vậy là ông đặt nặng vấn đề nhân quả (causality), trong khi ở đây, chỉ là vấn đề đồng thời (synchronicity)?

Said: Không, tôi không nói về nhân quả, mà về đồng hành (accompaniment). Tất cả những tiểu thuyết gia lớn của thế kỷ 19 đều nhắc nhở tới những sự kiện chiếm đóng thuộc địa, thí dụ như di dân tới những nơi chốn như là Úc, Hoa Kỳ hay Phi Châu. Cũng như vậy, tuy ở mức độ thấp hơn, là Pháp. Nhận định của tôi là như thế này: Sự kiện chiếm đóng thuộc địa đã tác động lên trí tưởng tượng, gây hứng khởi, và là một phần trong cấu tạo căn cước cá nhân. Hầu hết tiểu thuyết thực sự chỉ là sáng tạo ra một căn cước giả tưởng, tôi là ai? Thí dụ, tôi là Pip, trong "Great Expectations" ("Hoài Bão Lớn", tác phẩm của Dickens, CTND), hay là Tom Jones, đứa con hoang. Người ta thấy anh ta ở trên giường, ở ngay đầu cuốn truyện; tới cuối truyện, chúng ta biết anh ta là ai. Tiểu thuyết thực ra chỉ là một dạng tích tụ văn hóa, và tiện nghi hóa, làm sao cho cái tôi được thoải mái, dễ thở trong xã hội.  Một phần của tiến trình này đó là: cái tôi bị vướng víu với những mục tiêu mang tính đế quốc. Trong trường hợp Mansfield Park của Jane Austen, thí dụ vậy, đồn điền nô lệ mà Sir Thomas Bertram sở hữu ở Antigua đã được sử dụng như  túi bạc bảo đảm cuộc sống ở Mansfield Park, Anh quốc. Điều tôi gọi là dự phóng hoá, ở trong giả tưởng, trong cách tự sự, nó giả dụ rằng Anh quốc đã dính chặt với những thuộc địa ở hải ngoại theo nhiều đường hướng khác nhau. Nhưng chúng ta không nhai đi nhai lại mãi cùng một điều, bởi vì mỗi cuốn tiểu thuyết là mỗi chút khác biệt.

Wachtel: Liệu có thể bị coi là quá ngây thơ khi coi: cốt truyện nó phải như vậy?

Said: Đâu có gì là ngây thơ: nó chính cốt truyện. Nhưng tại sao cốt truyện đó mà không phải cốt truyện khác? Mọi cuốn tiểu thuyết liên quan tới chuyện chọn lựa, một phần của nhà văn, và của sự kiện, rằng đó là một đề tài sẵn có trong tầm tay; phần khác thuộc về tài sản trí thức, tình cảm, tưởng tượng, của người Anh. Nếu bạn đọc một cuốn tiểu thuyết Đức, sẽ khác hẳn. Sẽ chẳng có bàn vềà những vùng đất, lãnh thỗ của chúng ta, và chúng ta không thể đi Ấn-độ. Nó (Ấn-độ) có một chức năng khác hẳn: một chủ nghĩa hương xa (exoticism), đại khái như vậy. Trong khi ở Anh quốc, nó là một nơi chốn người ta có thể đi tới, bởi vì chúng ta ở đó, thí dụ như trong "Đường qua Ấn-độ, A Passage to India" (tác giả E.M. Forster, CTND); Kim, hay trong vài tác phẩm của Conrad. Anh quốc là tất cả mọi nơi, nói theo nghĩa đen. Bạn cứ thử nghĩ về nó, một phút thôi: rõ ràng là người Anh gần như chỗ nào cũng có. Vào thời kỳ 1918, một nhóm nhỏ những quyền lực Âu-châu đã ngự trị, chiếm đóng 85% thế giới. Cái điều giản dị, tự nhiên - chiếm đóng, sở hữu, vốn chỉ là một kinh nghiệm lịch sử - biến thành kinh nghiệm cho trí tưởng tượng (imaginative experience), bạn thấy không? Tôi tin nó là như vậy, nó có đó, và bạn làm gì với nó?

Wachtel: Ông làm gì với nó?

Said: Tôi nghĩ bạn phải coi đây là một phần của một điều gì lớn lao hơn nhiều. Ý của tôi là: kinh nghiệm này một phần do việc đọc tiểu thuyết Anh. Tôi không nói phần quan trọng nhất, nhưng nó là một phần quan trọng. Người ta còn phải nhớ - nhiều người không nhận ra - một điều là: những nơi chốn được Jane Austen hay Kipling nhắc tới, có một lịch sử vượt ra ngoài vai trò của nó ở trong tiểu thuyết. Vào năm 1814, khi cuốn "(Công viên) Mansfield Park" được xuất bản, Antigua là một thuộc địa đồn điền của Anh quốc, hầu hết những người đọc nó nói, thì nó như vậy, đúng rồi. Nhưng sự kiện (cần nói ở đây là), kinh nghiệm (về một trú sở, nơi chốn được nhắc tới, như ở trong tiểu thuyết) vẫn tiếp tục, và Antigua đã được giải phóng, trở thành độc lập.

Đã có trọn một nền văn chương thoát thai từ vùng Caribbean, được viết bởi những người như V.S. Naipaul hay George Lamming và cả một trường nhà văn Caribbean; họ nhìn kinh nghiệm đế quốc trong lịch sử của vùng đất này - như là thuộc địa nô lệ - khác hẳn cái nhìn của Jane Austen.

Điều tôi đang nói: cách thích thú nhất, đầy đủ nhất, để đọc những người như Jane Austen hay sau đó, Kipling - những người viết về Ấn-độ - đó là không coi họ chỉ như tác giả những tiểu thuyết Anh mà còn như những tác giả khác từ đó mà ra. Bạn có thể đọc họ theo kiểu đối âm (contrapuntally), nếu phải sử dụng một ẩn dụ của âm nhạc. Họ cũng vẫn bàn về cùng một đề tài, cùng một lịch sử, nhưng từ quan điểm khác biệt. Khi bạn đọc họ theo cách đó, bạn có cảm tưởng về tính tương thuộc (interdependence) của những nền văn chương vốn được coi như phải cách ly lẫn nhau. Không có điều gì thú vị hơn, hứng khởi hơn (nếu đọc theo kiểu đó). Bởi vì nó cho bạn chạm tới một cách viết lớn. Nó cho bạn cảm tưởng, đây là một cuộc thi (contest), và rất nhiều nền văn chương cùng tham gia trong một cuộc chiến đấu về một lãnh thổ, một vùng đất mang tính hình tượng hay có thực. Nó còn cho bạn chạm tới những ý tưởng giải phóng con người, rằng con người không thể nào chịu đựng được, trong một thời gian quá dài, chủ nghĩa thuộc địa. Tôi chắc chắn một điều, những người đọc Jane Austen, biết rất ít, chuyện gì xẩy ra tại một nơi mà Sir Thomas Bertram đã tới đó. Tác giả đâu có nói chi nhiều về nơi chốn đó, bởi vì bà cũng chẳng biết chuyện chi xẩy ra: nó chỉ là một nơi bạn đến đó lượm bạc rồi trở lại Anh quốc. Bạn đi, và nếu có một cuộc nổi loạn của nô lệ, như ở trong tiểu thuyết, bạn "thanh toán" (fix) nó, rồi trở về Anh.

Wachtel: Có vẻ như những tiểu thuyết gia thời Victoria đã tiếp cận chủ nghĩa đế quốc theo cùng một kiểu, nếu nói về mưu đồ, cốt truyện.

Said: Đúng như vậy. Nhưng quan điểm của tôi, ở ngay đầu cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc", đó là thế giới bây giờ đã thay đổi. Chẳng còn chuyện, những người Ấn-độ ở Ấn, Những người Anh ở Anh, và du lịch lòng vòng. Hầu hết những xứ sở Âu-châu ngày nay không còn là những xứ sở thuần nhất, hoàn toàn được tạo nên bởi giống trắng. Có một cộng đồng lớn người Ấn-độ ở Anh, cộng đồng rất lớn người Bắc Phi Hồi-giáo ở Pháp, ở Đức, Thụy-điển, Ý và cứ như thế... Thế giới đã được pha trộn (mixed) rất nhiều. Tại sao có người Bắc Phi ở Pháp? Phần lớn, là do Pháp là ông chủ thuộc địa ngày xưa, và khi những người này phải bỏ nhà bỏ cửa vì nạn cướp phá, họ chọn Pháp là nơi tới; họ là dân nói tiếng Pháp. Trường hợp được coi là đơn tính (unilateral) ở thế kỷ 19 không còn nữa. Có những nhà phê bình viết bằng tiếng Anh, nhưng không phải là người Anh. Khi Conrad viết "Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness", ông tin rằng - và điều này hiển nhiên sai, nhưng không thể chê trách ông được, bởi vì do lệch lạc thời gian (the bias of time) -  không một người Phi-châu nào có thể đọc nó; rằng ông viết cho những người Anh. Sự kiện là, những người Phi Châu bây giờ đã đọc "Giữa Lòng Đen", và họ nhìn nó khác hẳn những người da trắng đồng thời với Conrad, vào thập niên 1900, và cái đọc của họ trở thành một yếu tố của cuốn tiểu thuyết. Như vậy là cuốn sách mở ra theo một đường hướng mà ngay cả những tác giả của nó như Jane Austen, Dickens hay Conrad, dù nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được. Điều này thật đáng đón nhận bởi vì nó chỉ ra cho bạn thấy một mặt mới của tác phẩm, và nó khiến cho bạn nhìn sự vật trước đó bạn không thể nào nhìn thấy.

Wachtel: Đó là lý do tại sao Conrad là một tác giả ruột của ông?

Said: Có một điều gì rất "cùng một lứa bên trời lận đận" (tương đồng, affinity) giữa ông ta và tôi. Bởi vì ông người Ba-lan, rời quê hương chừng 16 tuổi, sống một thời gian ở Thụy-sĩ, Pháp; học tiếng Pháp, và vào tuổi hai mươi, bắt đầu viết và học tiếng Anh, sống ở Anh, trở thành thành viên của Thương Thuyền Anh (British Merchant Navy), đi biển đâu chừng 15 năm, rồi định cư ở Anh. Khi là nhà văn, ông chừng 40 tuổi. Ông luôn là người Ba-lan, ở bên ngoài cái gọi là vòng tròn Anh, theo một nghĩa nào đó, nhưng ông lại viết ra những cuốn tiểu thuyết Anh tuyệt vời. Ông có một thứ tâm thức lưu vong kỳ cục. Ông luôn ở bên ngoài bất cứ một hoàn cảnh nào mà ông viết về nó, và tôi chia sẻ tâm trạng này với ông. Cách ông nhìn sự vật hoàn toàn không giống bất cứ một người nào trong thời kỳ đó. Ông rất thân thiện với những người như Henry James và John Galsworthy, họ cũng là những nhà văn tuyệt vời nhưng không cho bạn cảm quan kỳ cục, muôn mặt của đổi dời và trên tất cả, chủ nghĩa ngần ngại, hồ nghi, đặc biệt là hồ nghi về căn cước và về hiện hữu ổn định (settled existence) như Conrad. Conrad là một trong số ít tiểu thuyết gia viết bằng tiếng Anh, theo cách của bậc thầy (tuy trong vài trường hợp có thể phản bác), về những nơi chốn như Indonesia, Malaysia, Thailand, Phi Châu, và Nam Mỹ. Ông ta thực sự là một người theo chủ nghĩa quốc tế (internationalist), của thời kỳ đế quốc.

Ông là một khuôn mặt phức tạp, và tôi không có ý giả dụ, tôi quan tâm tới ông là do ông chia sẻ cùng một cái nền khá giống nhau. Hoàn toàn không phải như vậy. Ông là một tiểu thuyết gia vĩ đại, và có một điều chi thật phức tạp, thật xum xuê mầu mỡ, và cũng thật giầu có về ông khiến tôi phải trở đi trở lại. Không một người nào nhìn sự vật hoàn toàn giống như cách ông nhìn. Còn một tương đồng nữa là, ông viết tiếng Anh như một người nào đó không phải là người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ (native-born speaker). Tôi kinh ngạc hoài về điều này. Có vẻ như ông không thèm để ý tới cú pháp (syntax). Cách nhấn tính từ cũng thật kỳ quặc. Cách viết theo bản năng ở một số điều như vậy thật là quá thích thú đối với tôi.

Wachtel: Còn một nhận định cũng thật khó nắm bắt nữa là: hơn bất cứ một lý thuyết nào khác như Marxism, giải cấu trúc, hay chủ nghĩa duy lịch sử mới (new historicism), chủ nghĩa đế quốc là chân trời chính trị xác định chủ chốt (the major determining political horizon) trực diện (vis-à-vis) với lý thuyết văn chương.

Said: Ý niệm về một giàn dựng toàn cầu trong văn chương thoát thai từ kinh nghiệm đế quốc. Loài người (people) có những đế quốc toàn cầu - đế quốc Anh, đế quốc Pháp thực sự đã là như vậy - và bây giờ, ở thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã thành công trong việc đi theo con đường bá quyền của Anh và Pháp. Do đó, thật thiếu chín chắn, thiếu nghiêm túc, khi nghiên cứu văn hóa mà không tính tới cái chân trời rộng lớn hơn - tôi muốn nói cái giàn toàn cầu ở trên - Tất cả những gì tôi đang làm là nói rằng: có một sự nối kết. Tôi không nói mối nối này là giản dị, là trực tiếp hay mang tính nhân quả; tôi nói là có rất nhiều những liên-kết (inter-connections), những tương thuộc (inter-dependencies), giữa hai trái cầu. Cho tới nay, chủ nghĩa đế quốc đã vươn tới tầm toàn cầu, đang có tầm toàn cầu, như vậy đây là lúc giàn dựng cho sự gia nhập của một vài cơ cấu văn chương, một vài cơ cấu và cách hành xử văn hóa.