Thế kỷ 20 của ai? - Người tình của Sartre - Người tình của Văn Cao - Lời Cuối Việt Nam - Số phận một nhà văn lưu vong - Ít ra ông ta còn có thể làm vườn - Thánh Simone - Sài Gòn nghĩa là gì? - Lẽ phải không nghỉ hè. 

1. Thế kỷ 20 của ai?
Triết gia người Pháp, Bernard-Henry Lévy trả lời bằng cả một cuốn sách: Thế kỷ của Sartre (nhà xb Grasset, Paris).

G. Steiner, trong bài viết "Triết gia cuối cùng?" trên tờ TLS (The Times Literary Supplement 19 May, 2000), đã nhắc tới một phương ngôn của người Pháp, theo đó, trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20, ngôi sao của Sartre lu mờ so với những "địch thủ" của ông như Camus, Raymond Aron, bởi vì thời gian này, ông còn ở trong lò luyện ngục (purgatoire). Và đây là "phần số", chỉ dành cho những triết gia lớn, tư tưởng lớn. Theo ông, hiện nay, ở Pháp, Đức, Ý, Nhật, và một số quốc gia Đông Âu, thế giá và huyền thoại của nhà văn đã từng từ chối giải thưởng Nobel văn chương này, đang ở trên đỉnh. Ở đâu, chứ ở Pháp thì quá đúng rồi: sau 20 năm ở trong lò luyện ngục, Sartre trở lại, và đang tràn ngập trong những tiệm sách, với nào là tiểu sử (loại multi-volume), nào hội thảo, đối thoại, gặp gỡ (rencontres)… Theo như Jennifer Trần tôi được biết, tạp chí Văn, trong tương lai, sẽ dành trọn một số báo để nhìn lại "triết gia cuối cùng của nhân loại", đặc biệt bởi những nhà văn Miền Nam đã một thời coi ông là "thần tượng", như Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân… 

"Địa ngục là những kẻ khác", "Người ta không thể bỏ tù Voltaire", "Con người bị kết án phải tự do", "Con người là một đam mê vô ích", "Tự do phê bình là hoàn toàn ở Liên Bang Xô-viết (La liberté de critique est totale en URSS), "chủ nghĩa Cộng sản là chân trời đừng mong chi vượt được của thời đại chúng ta (Le marxisme est l’horizon indépassable de notre temps)… nhưng hình ảnh một ông già mù phải nhờ bạn dẫn tới bàn hội nghị, để tranh đấu cho một con thuyền cho người vượt biển, vì muốn cứu những xác người trên biển Đông mà đành phải bắt tay với kẻ thù và cũng đã từng là bạn… hình ảnh đó đã vượt lên tất cả… nhưng thôi, xin hẹn gặp Văn, số đặc biệt!
2. Người tình của Sartre
Nói tới thế kỷ của Sartre mà bỏ qua kiến trúc sư căn nhà của Sartre (architecte de la maison de Sartre) thì thật là quá…tệ!
Thế kỷ 20 có hai mối tình lớn, liên quan tới văn học, và tới "eros", một là giữa de Beauvoir và Sartre; mối tình kia là giữa thầy Heidegger và trò Hannah Arendt. Với Sartre, ngoài de Beauvoir, ông còn nhiều mối tình khác, nhiều người đàn bà khác, kể cả "cô bé" Sagan, tác giả Buồn Ơi Chào Mi. Nhưng nếu không có de Beauvoir, chắc chắn Sartre không hoàn toàn là Sartre.
Kiến trúc sư, người đàn bà không thể tránh khỏi, tình yêu cần thiết (femme inévitable, amour nécessaire). Có biệt hiệu là Castor (con hải ly), bà không những được thông báo về những vụ ăn vụng của Sartre, mà còn là người cung cấp, và chứng kiến những cuộc tình đó.
Tay trong tay, đối với tất cả, và chống với tất cả: chứng kiến cảnh Sartre gần như hết còn nhìn thấy, trong vòng tay thiên thần của người tình, tiến vào quán ăn Closerie de Lilas, tức là chứng kiến một trong những biến động lớn lao của lịch sử văn học Âu Châu, của trào lưu hiện sinh…
3. Người tình của Văn Cao
Trên báo Hợp Lưu, số tháng 6&7, 2000, có bài viết "Cái gì thúc đẩy Thơ" của Hoàng Cầm. Ghi là tùy bút, nhưng theo tôi đây là một dạng hồi tưởng, về một kỷ niệm liên quan tới văn, thơ, đàn bà, và thời cuộc…
Thời cuộc: thời kỳ cuối 1954, đầu 1955; các anh ở rừng về thủ đô Hà Nội, và được các em hậu phương o bế hết chỗ nói: "Những chàng trai như từ thần thoại anh hùng bước ra, uy phong lẫm liệt mà vẫn tình tứ đậm đà. Chả thế mà Phùng Quán… chiếm ngay được trái tim một cô giáo…. Trần Dần được ngay một thiếu nữ nhu mì mời đến làm chồng…" Đen bạc thì đỏ tình: "bước đường sáng tạo nghệ thuật vốn đầy chông gai, Giai Phẩm Mùa Xuân vừa ra đời đã bị phê phán nghiêm khắc…"
Cái cảnh các em hậu phương đón chào các anh từ rừng về, như kể ở trên là có thật, như Jennifer tôi đã từng chứng kiến, những ngày đó. Nhưng chỉ là những ngày đầu, sau thì… chán chết!
Bởi vì ngoài mấy ông văn nghệ ra, vốn cũng không đến nỗi mán xá, đa số là dân Hà Nội trước 1945, những ông lính rừng kia thì thật là một nỗi khổ cho dân Hà Nội. Đảng ta lại có chính sách: cứ chiều cuối tuần là chỉ định anh này anh kia đến thăm nhà này nhà nọ, để tam cùng với đồng bào vùng địch tạm chiếm chưa được biết tới ánh sáng cách mạng. Thế là xẩy ra màn đon đả: mời mấy anh ngồi chơi, chúng em có tí việc bận phải đi ra ngoài… xin các anh cứ tự nhiên như người… Hà Nội nhá!
Người tình của Văn Cao, theo Hoàng Cầm, là cô em vợ của Hoàng Cầm. "Trời! Một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, chững chạc, trông đoan trang mà còn kiều diễm khác thường" (từ "mà còn" thi sĩ dùng "đắt" thật. Tôi viết lại,"đắt" chứ không phải "đạt").
Rồi Hoàng Cầm tới gặp bạn. Lúc này Văn Cao đang được anh em yêu cầu làm cho xong một bài thơ. Có được câu mở: Sinh ra tôi đã có Hải Phòng. Rồi xong Chương Một thì tắc.
-Có cô em họ vợ mình muốn gặp cậu, đòi mình đưa xuống đây, nhưng thấy không tiện. Vợ cậu biết thì mình có mà độn thổ. Thôi, lên nhà tao. Cô ấy đang chờ…
Văn Cao cũng dè dặt, và cũng hơi làm cao:
-Thiếu gì người thích văn nghệ? Cô này thế nào? Có cần (nói theo kiểu nam: có đáng, có bõ công…) để mình nói chuyện? Sợ nhạt nhẽo mất thì giờ!

Và đoạn cuối câu chuyện tình: "Đêm ấy, tôi đọc hết bài thơ dài: Những người trên cửa biển. Có những câu đầy khí thế, rất Văn Cao… mà từ hôm tôi dẫn anh lên gặp cô em họ của vợ mình đến hôm nay, Văn Cao "trình diện" toàn văn bản sử thi hào hùng, nhiều kịch tính với một điệu ngôn từ mới mẻ, tôi bấm đốt ngón tay, mới có 14 ngày!"
Trên đây, là một trong những câu chuyện chứng tỏ: ở trong và ở ngoài câu thơ, đều có những mỹ nữ "nhan như ngọc".
Giả sử có một "em" mê văn chương, nhưng không mê nhà văn, thì sao?
Có một trường hợp, do Lawrence Durrell kể, trong Bộ Tứ Alexandria: Một em rất đoan trang, và rất diễm lệ. Em viết văn hoài mà không thành. Đi coi bói. Ông thầy nói, đó là do em "còn đoan trang" quá. Thế là em đến gặp một văn sĩ, năn nỉ: Anh ơi, hãy làm cho em trở thành đàn bà đi, để em làm văn sĩ!
Cái ông nhà văn người Anh này thật là lếu láo!
4. Lời Cuối, Việt Nam
Sau 25 năm, tờ Điểm Sách New York 25 May, 2000, qua bài Việt Nam: Lời Cuối, tác giả Jonathan Mirsky đã điểm một số sách mới ra lò viết về vết thương cũ như Argument without End, Reporting Vietnam, American Tragedy (Bi kịch Mẽo), Guerrilla Diplomacy (Ngoại giao Du Kích)…

Bởi là vì bàn cho lắm, tắm cởi truồng (argument without end) cho nên Jennifer tôi xin được bỏ qua những nhận định của tác giả bài viết về những tác phẩm trên, mà chỉ ghi lại những gì ông viết về Bảo Ninh, và Dương Thu Hương, hai nhà văn Miền Bắc trực tiếp tham dự cuộc chiến và sau cùng đã thất vọng.
Mirsky, tác giả bài viết đã khuyên một trong những ông tác giả những cuốn sách "bàn cho lắm tắm cởi truồng" kể trên, là nên đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, ‘một cuốn tiểu thuyết mãnh liệt, trong đó đưa ra đề nghị, chiến thắng sau cùng của Việt Nam không thể giải thích một cách giản dị bằng những yếu tố như là sự yếu ớt của người Mỹ, hay là hỗ trợ của thế giới dành cho miền bắc.’ ‘Chiến thắng tiếp theo chiến thắng, tháo chạy tiếp theo tháo chạy’, Bảo Ninh viết. "Đường ra trận như không tận cùng, não nề, và chẳng đưa tới đâu… binh sĩ đợi chờ trong sợ hãi, hy vọng họ lọt sổ, trong số những lực lượng tăng viện, lao mình vào một vùng mà chỉ thoát ra bằng cái chết". Sau chiến tranh, Bảo Ninh vẫn viết, rằng "bộ đội miền Bắc đã được lệnh phải cảnh tỉnh trước những ý nghĩ như là: Miền Nam đã chiến đấu anh dũng, xứng đáng, dù thế nào đi chăng nữa."
Mirsky viết về cuốn mới nhất của Dương Thu Hương, Memories of a Pure Spring, do Nina McPherson và Phan Huy Đường dịch từ tiếng Việt. Không giống những cuốn trước, Memories… không phải là tiểu thuyết viết về chiến tranh, mặc dù bối cảnh là một nước Việt Nam đang cố hồi phục sau một cuộc chiến đã chấm dứt từ 25 năm về trước, và nhiều nhân vật trong cuốn sách đã chiến đấu trong đóù. Cuộc chiến được tưởng nhớ như là một thời kỳ của chủ nghĩa anh hùng, quyết tâm, não nề, và có vẻ như là một chiến thắng hổng, rỗng (… and does not seem to have much of a victory). Ai cũng đói khổ, ngoại trừ đám viên chức ăn hối lộ ngập hầu ngập cổ. Sợ công an là thường trực, ở bất cứ mọi nơi. Những tù nhân chính trị bị đối xử một cách tàn nhẫn. Nhân vật chính, Hung, là giám đốc một đoàn hát, vợ là một nữ ca sĩ 16 tuổi xinh đẹp có giọng ca vàng, tên Sương. Vợ trở thành ngôi sao. Đôi lứa được ngưỡng mộ. Nhưng anh chồng mắc vào một vụ chính trị và mất việc, trong lúc ngôi sao Sương ngày một sáng chói. Anh chồng đâm say sưa, nghiện ngập, và vào tù vì toan tính vượt biển. Cuốn tiểu thuyết đưa ra một cái nhìn mới đây (a recent view) về cuộc sống Việt – hoặc là trong những quán cá phê, những ba, nhà hát, hay trong những căn nhà của người dân – khách du lịch, hay những thương gia Tây phương không nhìn thấy nó (invisible to tourists and Western businessmen.) Hầu như chẳng có ai hạnh phúc. Hung nhớ lại, trong chiến tranh đoàn hát được lệnh phục vụ một đơn vị tình nguyện, gần 300 phụ nữ sống ở bên kia rặng núi. Họ sống ở trong rừng, xa gia đình, làng mạc, không một bóng đàn ông… Họ gần như phát khùng, một cơn khùng điên tập thể (mass hysteria). Đoàn của anh đã tới đây hai lần, và lần nào cũng vậy: những cô gái - như một đàn ong – vây lấy anh. Một lần chạy trối chết, anh núp vào một bụi rậm, và nhìn lại, anh thấy những cô gái ngồi, ôm gối, khóc nức nở; cả bọn cứ thế khóc trên vai nhau, chụm thành một đống. Đây là một cảnh tượng làm bạn nổi da gà…
5. Số phận một nhà văn lưu vong
Norman Manea là một trong những "di dân" (émigrés) cuối cùng, từ xứ sở Romania của Ceausescu. Quá nửa đời người, ông mới ngần ngại quyết định số phận ‘trâu chậm uống nước đục’: ở lại Tây phương nhân một chuyến du lịch.
Tới năm 1974 ông vẫn tiếp tục công việc của một kỹ sư. Nhưng dần dà, ông nổi tiếng, như là một tác giả, và gia nhập hội nhà văn Romania; nồi cơm được bảo đảm hơn, nhưng như vậy cũng có nghĩa là được mật vụ nhà nước chăm lo kỹ càng hơn. Tuyển tập những truyện ngắn The Night on the Long Side (1969) và The First Gates (1975) được cả hai giới độc giả cũng như phê bình ca ngợi. Tiểu thuyết, trong số đó là Captives, Atrium và The Book of the Son, mang tính ám dụ, tạo sốc, không dễ ‘nắm bắt’, nhưng lạ thay, lại được nhiều người đọc. Người ta nhận ra ở ông, một tay kể chuyện, thứ chuyện mới mang tính xã hội-tâm lý. Ông được so sánh với những Robert Musil, Bruno Schulz và Ernesto Sabato. Thế giá của ông lại càng lên cao, khi nhà văn Nobel người Đức, Heinrich Boll đọc bản thảo, khen hết lời bản dịch tiếng Đức một tác phẩm của ông.
Tới đây thì nhà nước hết chịu nổi. Nhân ông chỉ trích một bài viết trên báo đảng, Manea bị tới ba mũi giáp công: có khuynh hướng chống đảng (anti-party), người ở đâu đâu (cosmopolitan), ‘thiếu tính bản địa’. Riêng bản thân ông thì đã có sẵn ba tội: thành phần ly khai, đầu óc cởi mở, và ‘một tên Do Thái’. Tuy được giới phê bình ủng hộ hết mình, những cuốn sách mới của ông bắt đầu bị hành hạ. Tác giả phải chiến đấu giữa những gì nhà nước đòi hỏi qua những viên chức kiểm duyệt, và những gì ông nghĩ là một nhà văn phải biện minh, về vai trò đạo đức của chính mình.
Một nhà văn Cộng sản bỏ chạy ra nước ngoài như thế, sau 5 năm lưu vong, trở thành một thế giá văn chương Romania nổi tiếng nhất, và sau 10 năm, nhà văn Romania có sách bán chạy nhất, của thời đại của mình, tại Tây phương. Giới phê bình, trước tiên ở Đức, rồi tới ở Mỹ, và Âu Châu, coi đây là người đại diện quan trọng nhất cho văn chương quốc gia, ngang tầm Pasternak, Solzhenitsyn, Joseph Brodsky, ngang hàng với Milan Kundera, Tadeusz Konwicki, Uwe Johnson.
Tại quê hương của ông, vị trí của Manea, khi ông đưa ra những câu hỏi nhức nhối về quá khứ gần đây, đã được coi như những soi sáng cần thiết, không có không được. Nhè ngay thần tượng quốc gia, là Mircea Eliade, mà tấn công, cộng thêm những lời ‘báng bổ’, chống lại cánh cực hữu khiến ông bị coi là một kẻ ‘phản bội’, một ‘tên Mẽo mới’, cũng chẳng thua những tấn công của đảng nhắm vào ông ở thập niên 1980.
Tác phẩm của Manea là từ ba nguồn kinh nghiệm, như ông nói với nhà sử học người Ý, Marco Cugno:
"Khi bạn khám phá ra, mình là người Do Thái, ở trong trại tù, vào lúc 5 tuổi, như vậy là mọi lựa chọn kể như tiêu: cái thảm kịch tập thể, xa xưa bám dính lấy bạn. Như vậy là, ngay từ lúc nhỏ xíu, kinh nghiệm Lò Thiêu là một dẫn nhập tàn nhẫn đưa tôi vào đời. Sau đó, tới chủ nghĩa Cộng Sản. Chủ nghĩa toàn trị có nghĩa là loại trừ và đảo ngược truyền thống. Tới tuổi già, lưu vong đem trả cho tôi thân phận một kẻ trôi sông lạc chợ, và theo tôi, để vượt được nó, phải bám chặt vào ngôn ngữ và văn hóa của mảnh đất tôi sinh ra."
6. "Ít ra ông ta có thể chăm sóc vườn tược."
                 ("At least he could garden")

 Trên đây là câu phẩm bình Kafka, của Samuel Beckett. Nghe có vẻ chua chát, nhưng làm sao mà ra nông nỗi như vậy?

Thời điểm một Paris hậu chiến. Beckett lúc này đang cố vượt ra khỏi cái bóng của James Joyce. Bất hạnh thay, Kafka đang ở trên đỉnh, còn cao hơn cả James Joyce. Ngay ở Dublin, quê hương Joyce, Beckett "buồn phiền" báo cáo với "sư phụ": đám trí thức đang bận rộn đọc Kafka để tìm coi trong đó có cái gì giông giống với Ulysses hay không. Thế là Beckett bắt đầu "tự khẳng định mình": rằng tôi không phải là một kẻ theo gót Kafka. Những phẩm bình Kafka trên tờ New York Times cho thấy nỗi bực bội của Beckett:
"Tôi chỉ đọc Kafka bằng tiếng Đức – đọc nghiêm túc… chỉ Toà Lâu Đài bằng tiếng Đức. Tôi phải nói thế này: thật khó mà đọc cho hết cuốn sách. Nhân vật của Kafka biết anh ta muốn gì. Anh ta bị tiêu tùng, nhưng anh ta không bấp ba bấp bênh, nói về mặt tinh thần (He’s lost but he’s not spiritually precarious), anh ta không rã ra thành từng mảnh. Những con người của tôi hình như rã vụn ra. Một khác biệt khác nữa. Bạn để ý, hình thức của Kafka là cổ điển. Nó cứ thế mà đi, giống như một cái xe lăn (steamroller) – hầu như thật bình thản. Nó "có vẻ" bị hăm dọa trọn thời gian – nhưng sự khiếp đảm là ở hình thức. Trong tác phẩm của tôi, sự khiếp đảm ở phía sau hình thức, không phải ở trong hình thức. (In my work there is consternation behind the form, not in the form).
Không nghi ngờ chi, Beckett đọc Toà Lâu Đài, và bị ảnh hưởng. Dấu vết có thể nhận ra trong tiểu thuyết sau cùng viết bằng tiếng Anh của ông: Watt. Nhân vật Klamm trong Toà Lâu Đài đã gợi hứng cho Beckett đẻ ra nhân vật Knott, và luôn cả Godot. Một trùng hợp ‘nhức nhối" nữa: một trong những chương sách của Kafka, có tên là: Das Warten auf Klamm, hay "Waiting for Klamm" (chương này đã bị Max Brod, bạn của Kafka, bỏ đi).
Tình trạng hàng thịt nguýt hàng cá, đối với Beckett, dai dẳng cho tới gần chót đời. Trong một lá thư gửi cho bạn vào năm 1983, Beckett vẫn còn ca cẩm. Nhớ lại một câu trong nhật ký của Kafka: "Làm vườn. Chẳng hy vọng chi cho tương lai. (Gardening. No hope for the future)", Beckett "hóm hỉnh" thêm vô: "Ít ra ông ta còn có thể làm vườn".
Nhân đây, xin cống hiến bạn đọc một trong những truyện cực ngắn của Kafka:
Làng kế bên
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy đời như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ qua chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi sang làng kế bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh:
The next village
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand, for instance, how a young man can decide to ride over to the next village without being afraid that – not to mention accidents – even the span of a normal happy life may fall far short of time needed for such a journey".

7. Thánh Simone – Simone Weil
"We must prefer real hell to an imaginary paradise"
Simone Weil

 (Tạm dịch: Phải chọn địa ngục thực, thay vì một thiên đường dởm).

 "Không thành công cũng thành nhân"
 Nguyễn Thái Học 

George Steiner, trong bài viết Thánh Simone – Simone Weil, có nhắc tới truyền thuyết, theo đó, Plato đã nói về Diogenes: "Ông ta là một Socrates phát khùng" (He is Socrates gone mad). Ông tự hỏi, liệu có thể áp dụng câu nói đó vào trường hợp Simone Weil? 

Nhà xuất bản Gallimard, tủ sách Quarto vừa cho phát hành (1999) tác phẩm của Simone Weil; gồm 55 bản văn, bài viết, thư từ trao đổi. Sinh tại Paris, ngày 3 tháng hai 1909. Tự huỷ mình bằng cách nhịn ăn, bà mất ngày 24 tháng tám 1943, tại London, nơi bà tham gia lực lượng kháng chiến Pháp. Triết gia, sử gia, nhà huyền học, Simone Weil (1909-1943) đã trải qua những năm tháng đen tối của thế kỷ. G. Steiner cho rằng, khí hậu thế kỷ sẽ không thể hiểu được, nếu thiếu sự đóng góp của Simone de Beauvoir, và Annah Arendt, nhưng trên hết vẫn là của Simone Weil. Ngoài Marx ra, bà là triết gia luôn quan tâm tới điều kiện lao động mang tính tâm lý, xã hội, thể chất, chính trị, và luôn cả triết học, của người công nhân, hay là thân phận đổ bát mồ hôi kiếm miếng ăn của đàn ông đàn bà và trẻ em trên thế giới, dưới cái nhìn háu háu của con quái vật nhà máy. Đây là một trong những ý niệm "nữ hoàng" (notion reine), ý niệm về lao động, được coi như là chủ chốt trong lý thuyết về tri thức của bà: "cái thực chỉ có được bằng trầy trật, bằng cố gắng, tức là bằng lao động. Cái thực là cái cưỡng lại chúng ta" (Le réel est ce qui nous résiste). Từ đó bà cho rằng: Những người thợ biết hết; nhưng ngoài lao động, họ không biết rằng họ đã sở hữu đạo lý làm người (la sagesse). Giấc mộng về con người hoàn toàn (l’homme total) của Marx, được Simone Weil diễn tả như sau: "Chúng ta muốn đem đến cho lao động chân tay, phẩm giá mà nó có quyền được hưởng; bằng cách đem đến cho người thợ đầy đủ trí tuệ, thay vì làm mà chẳng hiểu gì hết; và dí vào tận tay trí tuệ, cái vật dụng của chính nó, bằng cách đẩy trí tuệ tiếp xúc với thế giới, thông qua lao động."

Sau đây là trích đoạn, bài giới thiệu của Florence de Lussy, người phụ trách xuất bản toàn bộ tác phẩm của Simone Weil:

Một hình tượng đen, vàng ròng, hơi khác thường (une figure noire, et or – siêu nhân, surhumaine, theo như một vài người – vừa cuốn hút, vừa xô đẩy, đó là Simone Weil dưới mắt người đương thời là chúng ta.

Ngay từ khi bà còn sống, (đã chọn lựa thái độ) một mình chống tất cả, gây xáo trộn, bực bội, tạo scandale, và (cũng tạo nên) sự cuốn hút mãnh liệt.

Một sức mạnh trí thức lạ kỳ. Chỉ cần một vài tuần lễ viếng thăm Berlin vào tháng Tám năm 1932, đủ để bà nhận ra cơn tê liệt của chủ nghĩa quốc xã Đức, sự yếu ớt của phong trào cách mạng ở trong lòng giai cấp thợ thuyền; và sau đó là vỡ mộng, qua bài viết "Viễn Tượng" (tháng Tám 1933), gây phẫn nộ cho bạn bè trong phong trào "Cách mạng vô sản".
Cuộc gặp gỡ giữa bà và Boris Souvarine, Bí thư Đệ tam Quốc tế, đào thoát khỏi Moscow vào năm 1935, đã làm cho bà nhận ra "sự bí mật cay đắng chỉ được lưu truyền giữa một nhúm cộng sản đầu têu": chẳng có cái gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng ("le pénible secret connu uniquement des cercles restreints des partis communistes", à savoir que le matérialisme dialectique n’existe pas), bởi vì phần tử biện chứng và phần tử duy vật tụ lại [làm] vỡ tan nhóm từ này (car l’élément dialectique et l’élément matérialiste mis ensemble [font] éclater le terme). Sau này, người ở trong chăn, Czeslaw Milosz, nhà thơ, Nobel văn chương, qua cuốn Cầm Tưởng (The Captive Mind, La Pensée Captive), cũng đã nhận ra như trên.
"Thiên tài là một thói quen mà một vài người sử dụng" (Le ‘génie’ est une habitude que prennent certains. Valéry). Kém ông anh ba tuổi; André Weil, nhà toán học lừng danh mất tích vào ngày 5 tháng tám 1998; ngay từ nhỏ, bà cũng có những thiên tư kỳ lạ, và đau khổ vì chúng. Tới tuổi thành niên, nghĩ mình vô tài, bà quá đỗi thất vọng và chỉ thoát ra được, nhờ điều gọi là "một cú đảo chính trí thức": đồng hóa thiên tài với ham muốn chân lý, hoài hoài, bền bỉ. Bà tin rằng, "bất cứ một con người nào, cho dù chẳng có một chút xíu thiên tư, [cũng có thể] vô được vương quốc chân lý dành cho thiên tài, nếu, và chỉ nếu, người đó ham muốn, và luôn luôn cố vươn tới, đạt cho được chân lý."
Là một học trò cưng của Alain; ông thầy nhận ra bà luôn luôn vượt đồng bạn, làm đồng bạn thất vọng, ngỡ ngàng. Simone Pétrement đã nhận xét về bạn mình: Bà đã vội sống, và quá hối hả (qu’elle était pressée de vivre et qu’elle a couru trop vite). Sau này, khi đụng đầu với thế giới tâm linh, bà bước đi bằng những bước bẩy dậm, và chẳng còn ai theo kịp nữa… Bí mật của bà vượt ra khỏi những tài năng số một, và luôn cả những người yêu thương bà.
Qua cuốn "Simone Weil, Tác Phẩm" nói trên, bà đã từng có ý định tới Đông Dương vào cuối năm 1938.
Quan điểm chống thực dân thuộc địa của bà được diễn tả qua hai bài viết trong cuốn kể trên, "Những dữ kiện mới mẻ về vấn đề thực dân thuộc địa trong đế quốc Pháp" (1938), và "Về vấn đề thực dân thuộc địa trong những tương quan với số mệnh của dân tộc Pháp (1943). Ngoài ra còn những bài viết được Louis Roubaud gom lại thành một cuốn nhan đề: Viet-nam. Bi kịch Đông Dương (nhà xb Valois, 1931). Tất cả những bài viết về chủ nghĩa thực dân thuộc địa, trừ bài cuối (1943) sau được nhà Gallimard xuất bản, trong Toàn Tập II, 1989.

Qua bài giới thiệu, của D.C., Simone Weil quan tâm đến vấn đề thực dân thuộc địa rất trễ, thời gian 1937-1938. Nhưng liền đó, đây là một trong những mối âu lo lớn của bà. Thái độ chống đối của bà không phải chỉ là một trong số những đề tài, nhưng bà đẩy nó tiếp cận với những vấn đề khái quát hơn, đó là nghiên cưú về sự áp bức thợ thuyền và thân phận đớn đau của con người. Và đây là phát hiện lớn lao của S. Weil, khi bà nghiên cứu về yếu tính của cái gọi là sự kiện thực dân thuộc địa: "Những vấn đề của thực dân thuộc địa đặt ra trước hết bằng những từ của sức mạnh. Thực dân thuộc địa hầu như luôn luôn bắt đầu bằng cách biểu dương sức mạnh, dưới dạng ròng của nó, tức là chiến thắng, chiếm đoạt" (Les problèmes de la colonisation se posent avant tout en termes de force. La colonisation commence presque toujours par l’exercice de la force sous sa forme pure, c’est-à-dire par la conquête).

 Theo người giới thiệu, chính khởi nghĩa Yên Bái là ngòi nổ khiến bà âu lo tới số phận người Việt, nói rõ hơn số phận người dân thuộc địa của Pháp. Bà như chết sững trước sự độc ác của đám người Pháp cầm quyền tại Việt Nam: 150 án tử hình, hàng ngàn người bị xử bắn, và hàng ngàn người bị cầm tù. Simone Weil hết sức quan tâm đến một số bài viết, về số phận người Việt (khi đó còn gọi là Annamites), trên tờ Người Paris Nhỏ (Le Petit Parisien), ngay sau khi vụ khởi nghĩa Yên Báy xẩy ra và bị dập tắt trong vòng hai tuần lễ. "Tôi không bao giờ quên được giây phút mà, lần thứ nhất trong đời, tôi cảm và hiểu được bi kịch thực dân thuộc địa" ("Je n’oublierai jamais le moment ó, pour la première fois, j’ai senti et compris la tragédie de la colonisation).

 Câu ‘châm ngôn ghê gớm’ dịch qua tiếng Anh ở đầu bài viết, "We must prefer real hell to an imaginary paradise", (mà Jennifer tôi tạm dịch là "Phải chọn địa ngục thực thay cho một thiên đường dởm"), là từ bài viết của G. Steiner, về S. Weil, in trong No Passion Spent (Mê Đắm Chẳng Hoài, nhà xb Yale University Press, 1996).

 Thiên đường dởm với thiên đường mù, thì cũng rứa.

 Không ngờ câu châm ngôn trở thành một lời tiên tri!

 Trong toàn tập Simone Weil còn có một tài liệu về vụ khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Yên Báy (1930): phóng ảnh tờ truyền đơn bằng tiếng Pháp, yêu cầu thả những nhà ái quốc bị tuyên án tử hình:
Những người vô sản và bị áp bức,
Hãy ngăn chặn những tội ác của đế quốc!
Những tên thực dân sát nhân,
Hãy trả tự do cho 56 người của chúng ta,
bị kết án tử hình tại Yên Báy.
Và tất cả những tù nhân chính trị!
Hãy giải phóng Đông Dương.
(Tổ chức) Những di đân Đông Dương tại Pháp. 

8. Sài Gòn nghĩa là gì?
"Đời của mi, ngay ở đây, tại nơi chốn vất đi này,
mi đã làm hỏng nó…"

"Hãy nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất"
(Lawrence Durrell) 

-Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ. 

Khi viết xong tập đầu của một bộ bốn cuốn, về thành phố Alexandrie (Quatuor d’Alexandrie: Justine, Balthazar, Mountolive, Clea, lần lượt xuất bản từ 1957 tới 1960), Lawrence Durrell (1912-1990) đã viết thư cho bạn mình là nhà văn người Mỹ, Henry Miller; bằng một câu nói nổi tiếng, ông định nghĩa tác phẩm của mình: "Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một trong những thủ đô lớn lao của con tim: Thủ đô của hồi tưởng." 

Tất cả là giả tưởng. Chỉ có thành phố là có thực. Trong Lời Tựa cho cuốn Jusrine, Henry Miller viết: Đây là một thành phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự nguyện, sinh ra tại (dẫy núi) Himalaya, tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy Lạp, chỉ người đó mới có thể làm cho nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai dàn dựng (décor): nó là một thực thể, một sinh vật sống động, mang hơi hám ma quỉ, được tạo nên bằng máu thịt, đất đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền thoại." "Những nhân vật làm nên cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác thường: tôi có thể đoan trước rằng họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu châu. Trong họ, có tất cả bụi bặm và những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông."

Henry Miller coi câu chuyện kể trải ra, không phải như diễn tiến của một cuốn tiểu thuyết bình thường: nó như soi nhiều tấm gương cùng một lúc; nó uốn éo trong một chất thiêng: ánh sáng. Một thứ ánh sáng siêu nhiên, tắm đẫm hồi tưởng.

Trong Lời Tựa, toàn tập, ấn bản tiếng Anh, tác giả viết: Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu thuyết, được đọc như là một tác phẩm đơn (a single work) dưới tiêu đề chung là Tứ Khúc Alexandria. Cũng có thể cho nó một tiểu đề là: một từ của sự liên tục (a word of continuum, liên tục không gian-thời gian theo Einstein). Theo G. Steiner, Durrell đã chuyển viễn tượng (thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách tự sự. Ông nhìn thành phố Alexandria theo bốn chiều.

Cuốn Justine xuất bản năm 1957. Đây là một thời điểm rất có ý nghĩa với những độc giả người Việt, nhất là người Việt di cư, và đã từng sống ở Sài Gòn vào thời kỳ đó. Justine đã là một trong những đề tài được đem ra thảo luận của nhóm Sáng Tạo, trong nỗ lực đả phá cái cũ (đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn), và cổ xuý cho một cái mới. Cá nhân tôi tin rằng, mấy ông trong Sáng Tạo "mê" Alexandria của Durrell, là bởi vì vừa mới mất Hà Nội! Phạm Công Thiện cũng rất mê Durrell, nhưng qua một bài viết của ông mà người viết đọc từ thuở nảo thuở nào, ông chỉ mê Justine, cô điếm thượng lưu của thành phố này thôi.
Nhưng đâu phải một mình ông!
Những trích đoạn, là về thành phố Alexandria, nhưng khi đọc chúng, Jennifer tôi tưởng tượng, đây là nói về Sài Gòn:
Chính thành phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con (của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants, qui devons payer le prix.)

Sài Gòn là một máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn, những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn thương nặng nề.

(Alexandrie était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous ceux enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).

Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?) 

Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).

Lũ đàn ông chúng mình, đều được tạo ra bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn
(Tout homme est fait de boue et de daimon, et la femme ne peut pas nourrir ces deux côtés de sa nature à la fois: Mọi người đàn ông đều được tạo nên bằng bùn và quỉ ma, và một người đàn bà do bản chất, không thể nuôi nấng cả hai khía cạnh này cùng một lúc).

Chú thích:
Theo tiếng Hy Lạp cổ, daimôn có nghĩa là "thiên tài che chở" (le génie protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ ma (démon), và còn được chỉ những nhân vật "trung gian" giữa thần và người. (Chú thích bản tiếng Pháp, dịch từ tiếng Anh, của Roger Giroux, nhà xb Buchet-Chastel, 1959, lần tái bản tháng Năm, 2000)

9. Lẽ phải không nghỉ hè
La raison ne prend pas de vacances.
Primo Levi

Primo Levi, nhà văn người Ý, một kẻ sống sót sau Lò Thiêu, theo cả hai nghĩa: văn chương và cuộc đời. Chỉ có ông, và nhà thơ Paul Celan, là đã phản bác được một nhận định "thê lương, mang tính hư vô huỷ diệt" của Adorno, triết gia người Đức, gốc Do Thái: Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man. 

Sau đây là trích đoạn một số câu trả lời, từ những bài phỏng vấn ông (qua bản dịch tiếng Pháp: Nói chuyện và phỏng vấn, Conversations et Entretiens, nhà xb Robert Laffont, tủ sách 10/18, từ nguyên bản tiếng Ý). Ông tự huỷ mình vào tháng Tư, 1987, tại căn phòng mà ông dự định sẽ sống suốt đời ở đó.

Người phỏng vấn: Không có một chút run rẩy nào trong văn của ông: sáng suốt, thanh thản, và cởi mở (C’est une construction lucide, sereine, et détaché). Làm sao ông có thể tin vào một chiến thắng của lẽ phải sau khi đã trải qua biết bao phiêu lưu, như bách hại, và kinh nghiệm của những trại tù?

Levi: Tin vào lẽ phải, điều đó có nghĩa tin vào lẽ phải của mình (sa raison); điều này không có nghĩa là lẽ phải cai quản thế giới, và càng không, cai quản con người. Không phải, bởi vì người ta đã ‘kinh qua địa ngục" mà có quyền buông thõng tay. Thế hệ chúng ta không có nghỉ hè. Với lẽ phải cũng vậy: không có ngày nghỉ. Người ta không thể lấy "vacations", với lẽ phải. Riêng về phần tôi, tôi nghi ngờ cái chuyện cho lẽ phải ngồi chơi xơi nước một thời gian (je considère avec suspicion toutes les suspensions de la raison)…. Con người là con người khi truy đuổi, nghĩa là, khi hành xử lẽ phải.

Jennifer Tran