*
 SÁNG TÁC



kh 

Nơi giòng sông chảy về phía nam

 

Tôi sinh ra đã mang khuyết tật: mồ côi.

Khi bắt đầu có trí nhớ, tôi nhớ là mình cứ bị đưa từ nội về ngoại, rồi ngoại về nội nhiều lần, để rồi một bữa, ngoại qua nội, ôm tôi khóc miết: "Thôi từ bữa nay con ở luôn đây bên này với nội nhe. Ngoại phải tản cư, nhà cửa cháy rụi hết rồi, ngoại đâu có nuôi con nổi nữa, cực khổ quá, tội cho con."

Tôi cũng khóc theo ngoại: 

"Còn dì bảy ở với ai, có còn ở với ngoại không?"

"Không, con bảy cũng qua Vĩnh Long ở." 

Tôi không thích ở với nội. Ở nhà ngoại tôi có mấy cậu và dì út. 

Dì hơn tôi bốn tuổi, có cái tên rất ngộ là Nguyễn thị Còn, cô gái út còn ráng thêm của ngoại.

Tên tôi là cũng do ông ngoại đặt: Nguyễn thị Uyên. Khi má tôi chuyển bụng được bà con lối xóm đưa đi sanh, ông ngoại tôi dặn, sanh con gái thì đặt tên Uyên, con trai Ương, để dễ nhớ vì ba má nó là uyên ương gãy cánh. Còn ông bà nội tôi thì nói tuổi của ba má tôi không hạp, "thiên cang sát mạng". Má tôi tuổi dần, ba tôi tuổi hợi, con cọp cái sẽ ăn thịt con heo, vợ chồng lấy nhau chưa chắc ở nát chiếc chiếu. Nhưng lúc đó ba tôi quá si mê má tôi, lại là đứa con thừa tự duy nhất của giòng họ, nên ông bà nội tôi phải chìu. 

Ngày cưới, phải rước dâu bằng cửa sau. Khi đại diện nhà trai nhà gái lên đèn, thì phải đốt cây đèn của chú rể trước, và cô dâu phải đi vòng quanh nhà ba vòng trước khi bước vào nhà chồng, để bỏ cái vía dữ ở bên ngoài. Vậy mà tôi mất ba khi còn là bào thai chưa đầy bốn tháng trong bụng mẹ. 

Ông bà nội tôi đấm ngực kêu trời, mấy bà cô, em của ba tôi không ngớt chửi rủa người chị dâu có mụn ruồi thương phu trích lệ, lại cầm tinh dần, đã giết chết người con trai duy nhất trong họ. Ba má tôi quả thật sống với nhau chưa rách chiếc chiếu, chưa giáp năm ba tôi đã ra người thiên cổ. Khi còn sống ba tôi làm trận làm thượng với gia đình, đòi cho bằng được má tôi, hứa hẹn đủ điều là sẽ ở nhà lo cho vợ con, nối nghiệp cha mẹ. Nhưng sau khi lấy vợ được đúng hai tháng, máu giang hồ nổi dậy, ba tôi đã lặng lẽ bỏ nhà đi theo kháng chiến vô bưng đánh đuổi thực dân cho thỏa mộng ước của mình.

Sau khi ba tôi mất được 49 ngày, má tôi khăn gói rời khỏi nhà chồng, về ở với ông ngoại tôi chờ ngày sinh nở.

Tôi lớn lên không thấy má đâu hết mà chỉ biết có ngoại mấy cậu và dì út. 

Có một lần tôi hỏi:

"Ba má con đâu hả ngoại?" 

"Ba con chết rồi, còn má con đi buôn bán xa lắm chưa về".

Ngày đám tang ông ngoại, tôi còn nhớ có một cặp vợ chồng dắt hai đứa nhỏ, người vợ vô nhà chưa kịp bỏ giỏ đồ xuống đã khóc thảm thiết, tôi thấy ông hoà thượng xé thêm bốn chiếc khăn tang cho họ. Cậu ba, cậu tư gọi người đàn bà đó là chị hai, còn ngoại bắt tôi gọi là cô hai. Người đàn bà nắm tay tôi dắt đến trước mặt chồng, nước mắt vòng quanh:

"Đây là con Uyên, con của cậu ba đó, còn đây là dượng hai. Thưa dượng hai đi con".

Người đàn bà đó là má tôi. Từ đó tôi cam phận một đứa bé chín, mười tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Trước ngày ngoại dứt khoát giao tôi cho nội, một buổi trưa tôi đang nằm thiu thiu ngủ, bỗng nghe có ai nhắc đến tên mình... 

"Má à, má ở nhà ráng nuôi con Uyên nghe má, tội nghiệp nó mồ côi cha, có mẹ cũng như không. Chị hai, chỉ đâu dám nhìn nó, sợ bên chồng hay chỉ đã một đời chồng, nên chị giấu biệt.." 

"Con đi đâu vậy Tư, đi lâu mau ? Hồi nào tới giờ, mày đi năm ba bữa cũng tạt về thăm nhà, sao lần này mày nói kỳ cục vậy. Bộ đi xa lắm sao?". 

"Lần này con đi xa lắm má à. Vài ba năm, không chừng năm mười năm con mới về. Má đừng quên lời con dặn nghe. Anh ba sắp có vợ rồi thằng năm, thằng sáu với con út thì còn nhỏ quá chỉ còn có má lo cho nó thôi..."

"Chừng nào con đi ?"

"Chắc vài ba bữa nữa". 

"Nè tư à, má có chút đỉnh tiền hôm làm đám cho ba mày còn dư, cầm theo dọc đường phòng thân...Ờ, còn mấy con khô cá lóc bữa tát đìa tao phơi khô để dành, mày gói đem theo..." 

Ngoại tôi oà khóc, còn tôi nằm im, nghe từng giọt nước mắt lăn trên má...Không cha, không mẹ, mình cậu tư là thương tôi hơn hết, bây giờ cậu lại đi xa không biết ngày nào về. 

Sau ngày đó một tuần, tôi về ở luôn với nội. Trong thâm tâm tôi đã ghi khắc thật sâu đậm những ác cảm về má tôi, cộng thêm những lời chua cay độc ác của mấy bà cô nên càng lớn tôi càng sống khép kín trong cái mặc cảm ghê gớm về cái thân phận côi cút của mình. 

Tôi được ông bà nội thương mến và cho ăn học đàng hoàng, nhưng tình thương đó luôn luôn thầm lén và giấu kín, vì sợ tôi bị mấy bà cô ganh ghét. Như để bù đắp tình thương yêu đó, tôi học rất giỏi, mười bốn tuổi đã đậu trung học đệ nhất cấp. Khi ông nội tôi quyết định cho tôi lên tỉnh tiếp tục học thì bị mấy cô tôi phản đối kịch liệt. Có lẽ đến ngày nhắm mắt tôi cũng không quên được những lời nói xé lòng của họ. 

-Ba má cho nó học như vậy là đủ rồi, con gái mà học làm chi nhiều, hứ, giòng nào rồi thì cũng giống nấy, học cho nhiều chử để viết thư cho trai chứ làm vương làm tướng gì. 

-Thứ đàn bà thúi thây, chồng chết chưa xanh cỏ đã bỏ con theo trai. 

Ôi những lời nói quá độc ác, lúc đó tôi đã đủ trí khôn để nghe, để hiểu, và để cho nỗi đắng cay kia thấm vào da thịt, rồi tuôn thành nước mắt. 

Tôi càng nhớ thương ngoại và mấy cậu với dì út. Họ không bao giờ rầy la tôi một tiếng. Họ muốn cho tôi được ăn sung mặc sướng, được đến trường nên mới giao tôi cho bên nội. Họ có biết đâu rằng tôi không cần những thứ đó, mà cần tình thương. 

Tôi nhớ, một lần chơi trốn kiếm tìm với dì út, chui vào bồ lúa trốn kỹ, dì tìm mãi không thấy, tôi cũng thiu thiu rồi ngủ quên luôn. Mấy cậu tôi hớt hải đi tìm, dì út bị ngoại đánh đòn, còn cậu tư thì xuống sông lặn mò. Tìm không thấy tôi, cậu tư để nguyên bộ đồ ướt ngồi ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Đến khi ngoại sực nhớ mấy buồng chuối chặt vô chưa kịp giú, vô bồ lúa kiếm, gặp tôi nằm ngủ chèo queo như con tôm, muỗi cắn sưng vù hết mặt mày tay chưn. Cả nhà mừng rỡ sung sướng, riêng cậu tư tôi chạy vô ôm tôi ra, miệng hét um xùm: 

-Trời ơi, con ở đây mà cậu tưởng con té xuống sông chết rồi, làm dì út bị đòn oan.

Chiến tranh ngày càng khủng khiếp. Quê ngoại tôi trở thành vùng xôi đău, ban đêm giải phóng, ban ngày quốc gia. Ngôi nhà thờ tổ tiên trúng một quả đạn pháo kích, chỉ còn trơ bốn cây cột. Cậu ba dắt dìu vợ con tản cư qua cù lao Tân Phong ở Cái Bè.

Cậu tư sau ngày ra đi không một tin tức; cậu năm, cậu sáu đi lính quốc gia, dì út qua Vĩnh Long ở với chị hai, tức má tôi, người mẹ mà tôi chỉ nghe nói và được gặp một lần trong ngày đám ma ông ngoại, nhưng tôi phải gọi là cô hai. 

Chỉ có ngoại là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn nhà đổ nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát. 

Năm cuối trung học, tôi nghỉ hè, học ôn bài để thi tú tài hai, chợt ngoại lên thăm, lâu lắm rồi tôi không được gặp ngoại. Bữa đó ngoại xách một cái bị bàng đựng đủ thứ trái cây, nhưng mỗi thứ chỉ độ vài ba trái. Ngoại nói ngoại nhặt nhạnh trong vườn; vườn tược bỏ hoang không ai chăm sóc nên cây trái cũng cằn cỗi, như tuổi già của ngoại. Trông ngoại tiều tụy, tóc bạc phơ, răng rụng gần hết. Ngoại nói qua hơi thở:

-Thằng tư nó về nhà hồi hôm, nó nói nó nhớ con quá, không biết bây giờ con bao lớn rồi, nó kêu ngoại lên biểu con về thăm nó một lần. 

Tôi mừng rỡ kêu lên: 

-Cậu tư về thiệt hả ngoại, mà không biết nội cho con đi không. Ngoại đừng nói gì cho nội biết nghe, con sẽ về. 

Đêm đó tôi ngồi học bài mà tâm trí để đâu đâu, và trong giấc mơ chập chờn tôi thấy mình đang bơi trên giòng sông quê ngoại, con sông Trà Tân bên lở bên bồi, con sông mà khi tôi còn bé, cậu tư tôi đã dạy tôi tập bơi bằng thân cây chuối, còn dì út thì bắt một con chuồn chuồn cho cắn rún để cho mau biết bơi. 

Sáng sớm hôm sau, tôi nói dối nội, xin cho đi Mỹ Tho lấy bài học thi. Lòng thương nhớ người cậu đã xa cách gần mười năm trời đã vượt tất cả. Tôi phải đi bộ hơn bẩy cây số vì đường xe đò từ Cai Lậy xuống Hưng Long thường hay bị đắp mô. 

Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên có hai hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục thứ dây leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy trong đám dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào cây nào thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng. Tự nhiên, nó làm tôi nhớ thứ cháo ngày nhỏ cậu tư tôi thường bắt ăn. Đó là thứ nước cơm pha đường, loại đường tán, nhão nhoẹt, đen thui mà mợ ba nấu từ những cây mía trồng sau vườn. Và tôi nhớ, những lần không chịu ăn, cậu tư dọa, sẽ cho dây tơ hồng quấn chân, thế là tôi nhắm mắt, nhắm mũi cố nuốt. 

Đó là món ăn hàng ngày thay cho sữa mẹ của tôi.
 

Tôi thẫn thờ bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu không trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh ríu rít như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh thức... 

Cậu tư tôi bằng xương, bằng thịt. Cậu ngồi trên đống rơm, mặc bộ bà ba đen, vai vắt chiếc khăn rằn, mặt sạm đen, già hơn ngày xưa nhiều. Nhưng ánh mắt thì vẫn rạng rỡ, vẫn đầm ấm và tràn đầy yêu thương dành cho đứa cháu côi cút của cậu. 

Đó là lần gặp sau cùng với tuổi thơ, và những người thân yêu gìn giữ miền thơ ấu của tôi: Hưng Long, Cai Lậy.

Ngày Uyên lấy chồng, chỉ có ngoại và mợ ba tới chia tay, và chúc Uyên hạnh phúc. Dì út không về được, và người đàn bà ghi là mẹ trong khai sinh của Uyên cũng không có mặt. Đôi lần nhớ lại, Uyên cũng không biết lúc đó mình vui hay là buồn. Nhưng có điều, Uyên biết mình sẽ không bao giờ muốn trở lại cái quận lỵ nhỏ bé thân yêu đó nữa, không bao giờ muốn trở về ngôi nhà từ đường, nơi mà Uyên đã sống và lớn lên trong tình thương yêu của nội. Uyên muốn mọi người ở đó quên hẳn con bé mồ côi tội nghiệp, cũng như Uyên theo dòng đời cuốn hút, sẽ quên hết cái tuổi thơ đầy buồn tủi của mình và quên luôn những lời mỉa mai của đám dân quê đầy thành kiến... "Con nhỏ ngộ quá chứ, học giỏi nữa mà thôi, mua heo chọn nái, cưới gái chọn giòng... chỉ sợ..."
 

Uyên đã thực sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển cả, bởi vì mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm thấy được, con đường trở về... 

Tháng 7 năm l995 

Thảo Trần