Trần
Mộng Tú
NHỮNG KHÚC RUỘT TRÔI TRÊN DÒNG TONLÉ SAP
Từ hai
tháng trước, khi sửa
soạn chuyến đi Việt Nam, chúng tôi cũng đã có chương trình đi thăm
Angkok Wat,
và tôi đã dự tính trong lòng, thế nào cũng phải thăm ngôi làng nổi của
người
Việt trên Biển Hồ Tonlé Sap, thuộc Siêm Rệp (Siem Reap.)
Đã hơn
hai mươi năm trước,
tôi nghe có người nói với tôi về ngôi làng nổi lưu vong này, tôi chỉ
mong có
một ngày mình thu xếp được một chuyến đi đến đó cho thỏa lòng. Trong
trí tưởng
tượng của tôi: có một khoang thuyền nhỏ nào đó, có một ông cụ, ngồi dạy
trẻ em
đánh vần quốc ngữ Việt Nam; ở khoang thuyền khác có một ông ngồi bắt
mạch hốt
thuốc cho đám “nhân ngư”; rồi ở một cái thuyền khác tươm tất hơn, là
nơi người
ta tụ họp làm chốn thờ phụng, chốn tang ma, cưới hỏi theo từng tôn
giáo. Bây
giờ tôi sắp được nhìn tận mắt một nơi như thế rồi, hỏi sao tôi không
nôn nả.
Sau khi
đi thăm các ngôi đền
đá trạm trổ danh tiếng của xứ sở Cam Bốt như đền: Angkok
Wat, Bayon, Pre Khan, Woman Temple và
Farmer Temple, chúng tôi đi thăm làng nổi Việt Nam.
Tonlé
Sap hay Biển Hồ của
Campuchia có nghĩa là sông nước ngọt lớn. Người Việt quen gọi là Biển
Hồ, chỉ
sự rộng lớn của sông không có bến bờ.
Từ
thành phố Siêm Rệp, chúng
tôi đi xe mất ba mươi phút để đến cửa sông đào nhập vào sông Tonlé Sap,
khúc
sông đào này dài khoảng tám cây số. Chúng tôi bốn người, hai vợ chồng
tôi và
hai ông anh tôi cùng đi với nhau, thăm những người Việt sống trong
những ngôi
nhà nổi trên mặt sông này.
Chiếc
thuyền máy băng băng
qua dòng nước đục ngầu bùn, mùi nước thải có lẽ từ các ống cống thành
phố xuống
khúc sông đào dài này, bay vào mũi chúng tôi khá lâu. Hai bên bờ bắt
đầu xuất
hiện thưa thớt những ngôi nhà nổi của người Miên, khi thuyền nhập được
ra sông
lớn mới thấy bắt đầu có mùi cá và nhà nổi đông đúc hơn. Tôi nôn nao hỏi
người
lái thuyền:
Đâu,
khu nhà của người Việt
đâu?
Anh Sơn
tôi, người đã đến
trước đó một lần, cách đến mười lăm năm rồi, nói:
Cứ từ
từ, sắp đến rồi.
Nghe
anh nói từ từ, nhưng
tiếng đập trong ngực tôi không chịu từ từ, những tiếng đập như có hai,
ba, bốn
trái tim cùng đập một lúc. Kìa cái nhà nổi đầu tiên của người Việt Nam
xuất
hiện. Anh lái thuyền táp thuyền sát vào cái mảng tre ở trước nhà, tôi
thấy một
phụ nữ trên dưới bốn mươi tuổi, nước da ngăm đen, đang ngồi trên một
chiếc
võng. Căn nhà không có cửa nên có thể nhìn thấy tất cả đồ đạc của gian
phía
trước. Một cái bàn thờ, có bát nhang, có hình Phật dán trên vách, một
cái máy
truyền hình nhỏ, một cái bàn thấp và một cái ghế. Tất cả đều sơ sài,
giản dị.
Anh
chèo thuyền nói:
Bà hỏi
gì thì hỏi đi.
Tôi ngập ngừng một lúc, không biết mình hỏi
tiếng Việt, người nghe có hiểu không? Tiếng Cam Bốt thì mình không
biết, nhưng
chợt nhớ ra là ở đây vẫn duy trì tiếng Việt, nên tôi vồn vã hỏi han và
chị cũng
vui vẻ trả lời. Chị tên Nga, bốn mươi hai tuổi, chỉ đứa con gái lên
chín đang chơi
ở một tấm mảng tre nổi bập bềnh sát nhà (khoảng 6 mét vuông.) Chị nói,
đã ở đây
hai thế hệ, mẹ chị sanh chị trên sông nước này, bà mới mất cách đây hai
năm,
cha còn sống, đang đi lưới. Chị cho biết hôm qua chồng chị đi bán nước
ngọt cho
du khách bị lính bắt cả thuyền. Hôm nay nước lớn chị cũng không muốn
cho con đi
học. Chị chỉ tay về phía trước, nói, đi lên độ năm phút sẽ thấy ngôi
trường dạy
tiếng Việt. Hỏi chị sao không lên bờ ở, có bị cấm đoán gì không? Chị
nói:
Không
ai cấm lên, nhưng trước
tiên là không có giấy tờ, không ai sanh ở đây có giấy
khai sanh cả, người chết
vì thế cũng không có giấy khai tử; thứ hai là không có tiền, làm sao
mua được
đất cắm lều.
Tôi hỏi
chị có bao giờ về
Việt Nam chưa? Chị nói có, về thăm dòng họ; hỏi chị, không có giấy tờ
làm sao
đi? Chị nói đi chui (sau này khi chúng tôi từ Cam Bốt trở về lại Sài
Gòn mới
hiểu ra tại sao, việc khám xét giấy tờ rất kỹ). Hỏi chị sao không ở lại
Việt
Nam, chị nói: giấy hộ khẩu không có, làm sao ở. Nhà nước Việt Nam đâu
có chương
trình cho mình tái định cư.
Tôi
bâng khuâng tự hỏi: Chính
phủ Việt Nam không nhận, Chính phủ Cam Bốt cũng không nhận. Chắc chỉ có
những
con cá trên dòng Tonlé Sap cho chị sự sống thôi.
Chúng
tôi chào chị, tiếp tục
đi xa vào lòng sông. Nhà cửa người Việt bắt đầu đông đúc hơn, trẻ em
tuổi từ
lên hai đến lên mười chơi ở trên những cái mảng bập bềnh như chơi trên
sân cỏ.
Chúng chạy, nhảy từ mảng này, sang mảng khác rất nhuần nhuyễn, chúng
không có
đồ chơi, chỉ xô, kéo nhau, thế mà vẫn nghe tiếng chúng cười rất hạnh
phúc. Tôi
nhìn dòng nước đục đỏ mầu đất, cuồn cuộn sóng, hỏi người hướng dẫn về
những tai
nạn chết đuối của trẻ em, anh ta nói:
-Chết
đuối cũng có, nhưng
chết vì nước bẩn, thiếu vệ sinh thì nhiều. Trẻ em ở đây hay chết vì
“dịch tả”.
Một khu
nhà nổi lớn có nuôi
cá sấu và bán đồ lưu niệm cho du khách do người Miên làm chủ hiện ra.
Chúng tôi
rời thuyền, lên xem cho biết. Chưa kịp đặt chân lên sàn nhà, đã thấy
lập tức
ba, bốn chiếc thuyền nhỏ tắp vào theo; trên thuyền là những phụ nữ và
trẻ em
Việt. Tất cả mấy đứa trẻ cùng nhao lên ăn xin. Chúng làm mặt mếu máo,
bán nải
chuối, xin thêm tiền, kể đói, kể khổ, bằng tiếng Việt. Trong một cái
thuyền có
năm người ngồi chung; một nhóm ba mẹ con, người mẹ khoảng ngoài hai
mươi, với
ba đứa con; một cậu lên sáu, bé gái lên hai và một bé ba tháng đang bú
mẹ, nhóm
kia hai chị em độ lên bảy, lên bốn. Cậu bé lên sáu, nhưng bé như lên
bốn thôi,
cầm con rắn vắt ngang cổ cho du khách sờ và xin tiền; vừa cho chú một
đô, chú
giắt ngay vào cặp quần, xong lập tức xin tiếp: cho con xin một ngàn
(tiền Cam
Bốt) con không tiêu tiền Mỹ. Cô bé cùng thuyền kêu lên: thằng này lanh
lắm, nó
nói sạo đó. Bà mẹ trẻ trên thuyền, một tay vạch vú tự nhiên cho con bú,
một tay
đưa ra xin, cô bé thứ hai lên ba, tóc vàng khè vì cháy nắng, bé như cái
kẹo
không biết nói, nhưng cũng đã biết ngửa tay xin. Chồng tôi cúi xuống
thuyền bế
em lên, em không lạ, không khóc; thằng anh nhẩy phóc lên bờ như một con
sóc bám
chặt lấy chân tôi, đưa con rắn to như một con trăn ra dứ dứ trước mặt
tôi, xin
thêm tiền. Tôi thấy chú này lanh quá vừa buồn vừa thương hại. Chưa kịp
hỏi mấy
đứa nhỏ một vài câu thì nhìn ra mặt sông đã thêm hai chiếc thuyền nữa
chở phụ
nữ và trẻ em, ba, bốn cái khác vừa là thuyền thúng, vừa là một cái thau
nhôm
to, mỗi cái có một cậu bé đen đủi, quần xà lỏn, ở trần, hay mặc cái áo
thun đỏ
quạch mầu bùn, cầm chèo gỗ khua nước tiến đến. Tóc chúng đỏ hoe vì
nắng, chúng
gầy còm và còn làm bộ mặt nhăn nhó, hay giả khóc để xin tiền. Những bà
mẹ trẻ
thì bế những em rất bé, èo uột trên tay. Tất cả cùng nói một giọng
giống nhau:
Cô cho con tiền mua mấy kí gạo, đói mấy ngày nay rồi. Tôi cho mỗi
thuyền mười
đồng (Mỹ kim), vừa hết cạn số tiền lẻ có sẵn trong túi. Mấy chú nhỏ
được một
đồng, làm mặt nhăn nhó kêu khóc ầm lên: sao không cho con nhiều, cho
một đồng
ít quá! Tôi quýnh quáng chạy tuốt vào phía trong cửa hàng, để mặc cho
chồng tôi
lãnh nốt.
Chúng
tôi rời chỗ đó mà buồn
nẫu ruột, không biết những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào? Chắc chỉ
có ông
Trời biết được!
Cái bảng kẻ hàng chữ Trường Việt Ngữ mầu xanh
trên một nóc nhà nổi, trông từ xa đã thấy, tôi
hao hức được gặp một lớp học với đàn
trẻ đang ê, a đánh vần; cái lớp học tôi vẫn mường tượng trong đầu,
nhưng lớp
học hơi làm tôi thất vọng. Có lẽ được anh hướng dẫn du lịch báo trước,
ông thầy
đã ra tận cửa đón chúng tôi, niềm nở mời vào. Một gian buồng ngang
khoảng năm
thước, dài khoảng bẩy thước, có một loạt băng gỗ, đã có sẵn độ hai mươi
em ngồi
đó, không thấy có vẻ gì là đang học, vì không có sách, bút trước mặt.
Các em
thấy chúng tôi vào thì đứng lên nói: Chúng con chào quý khách đến thăm
trường,
xong lại ngồi xuống nói chuyện với nhau.
Tôi hỏi
chuyện thầy giáo, ông
tên là Trần văn Tư, ông cho biết, từ Tây Ninh sang đây làm thiện
nguyện; tôi
hỏi có phải ông là nhà giáo trước đây không? Ông nói tôi dạy “nghiệp
dư” thôi.
Trường có từ lớp một tới lớp bốn, chủ trương chỉ dạy cho biết đọc, biết
viêt.
Tôi không hỏi tiếp về việc dạy nữa. Tôi hỏi các em đang ăn xin ở ngoài
kia có
đi học không? Ông nói, đó là quyền của cha mẹ chúng, ai muốn cho con
đến trường
thì đến, ai muốn cho con ở nhà đi xin thì tùy họ. Ông cho tôi biết
trường hoàn
toàn trông vào tiền của du khách. Tôi đưa cho ông một số tiền, không
biết là
mình có cho đúng chỗ hay không? Nhưng thấy hai mươi em ngồi trong đó,
cũng hy
vọng các em học được một điều gì khác với điều chỉ học ăn xin ngoài
kia. Khi
chúng tôi ra về, các em lại đứng lên nói: Tạ ơn quý khách.
Ông Tư
đưa cho tôi một tấm
danh thiệp và nói, nếu tôi muốn giúp đỡ thêm thì gửi tiền về, địa chỉ
của vợ
ông ở Tây Ninh. (Về sau, tôi được những người có kinh nghiệm hơn cho
biết, ngôi
trường này là một cái bẫy du khách vì du khách mua sách vở, dụng cụ học
sinh ở
của hàng nuôi cá sấu đó cho trường, sau khi du khách về những thứ đó
lại xuất
hiện ở cửa hàng.)
Địa điểm kế tiếp là một ngôi giáo đường mới
thành lập năm ngoái. Chúng tôi đến thì vị linh mục người Indonesia phục
vụ cho
họ đạo Cam Bốt đang đi làm lễ ở ngoài Siêm Rệp. Một cặp vợ chồng khoảng
gần bốn
mươi, anh chồng ở đây từ hai mươi năm, anh là người Nam Định (chắc anh
thuộc
lính Việt đánh Cam Bốt, rồi ở lại,) cho chúng tôi biết: Tổng cộng số
gia đình
làng nổi ở đây là năm trăm gia đình, nhưng chỉ có hơn ba trăm là có
giấy tờ
được ở chính thức, tổng số trên khu sông nước là hai ngàn người. Trẻ em
sanh ra
không có khai sanh, nên không được đi học trên đất liền, muốn đi học
tiếng của
họ, trường của họ, thì phải có cha mẹ đỡ đầu người Miên. Đa số trẻ em
đi ăn xin
du khách. Nhà thờ mới thành lập, giáo dân mới có khoảng hai mươi người.
Theo
Lonely Planet dân số
Việt trên đất Cam Bốt chính thức hơn một trăm ngàn người. Tổng số không
có giấy
tờ hợp lệ có thể từ nửa triệu đến hai triệu người, họ là một cộng đồng
khác
quốc tịch lớn nhất ở Cam Bốt, và cũng là cộng đồng đóng góp tích cực
nhất ở Cam
Bốt về ngư nghiệp và kỹ nghệ. Tuy nhiên vẫn có một sự nghi kỵ rất trầm
trọng
giữa Việt - Miên, ngay cả với những người Việt đã sống ở đó qua nhiều
thế hệ.
Tôi rời sông nước lên đất liền, lòng chao như
sóng. Hình ảnh những phụ nữ trẻ, những em bé Việt Nam sống từ đời này,
sang đời
khác ở biển hồ này làm tôi đau lòng. Không lẽ cứ ăn mày trên sông nước
từ bé
đến già sao! Ai đó đang kêu gào “Khúc ruột xa ngàn dặm” trở về, sao
không vớt
hộ những khúc ruột đang trôi bập bềnh trên dòng Tonlé Sap này. Hai ngàn
người
sống không khai sanh, lấy nhau không hôn thú, chết không khai tử đó,
chắc thế
nào cũng có lúc ngồi trên sóng nước mơ về mảnh đất liền của quê hương
gốc mình.
Khúc ruột bên trời Âu, Mỹ có thể bay mấy chục ngàn dặm về được, còn họ
chỉ hơn
một trăm cây số đường bộ, nhưng khúc ruột vẫn bập bềnh trên dòng Tonlé
Sap từ
thế hệ này, qua thế hệ khác, không bao giờ được ai vớt lên bờ cho họ
thực hiện
được giấc mơ về quê hương đích thực của mình.
tmt
Siêm Rệp, ngày 24 tháng 1 năm 2010