*

Phỏng Vấn





Phỏng vấn Ilya Prigorine

Trong bài Đối Thoại của Lê Đạt, mới đăng trên Talawas, có nhắc tới Prigorin. Như một món quà đáp ứng, xin có thêm một chút tư liệu về ông này.

Prigorine được Guy Sorman coi là một trong “Những tư tưởng gia thứ thiệt của thời đại chúng ta”, Les vrais penseurs de notre temps, [nhà xb Fayard, tủ sách Bỏ Túi]. Đây là nhan đề cuốn sách gồm những bài phỏng vấn của ông.

Sorman kể lại, khi còn là sinh viên ở Paris, đã từng chiêm ngưỡng cặp tình nhân và cũng là cặp bài trùng tư tưởng, hai đỉnh cao của triết học hiện sinh, là Sartre và Simone de Beauvoir. Chiêm ngưỡng chỉ là chiêm ngưỡng mà thôi, ông thú nhận, và ân hận, vì đã không dám giáp mặt để làm một cuộc phỏng vấn. Thành thử với ông, Những tư tưởng gia... là một trong những giấc mơ thời niên thiếu đã được thực hiện. Một thứ thư viện sống, như trong bài tựa của cuốn sách của tác giả cho biết.

Ông cũng giải thích, theo ông, thế nào là một tư tưởng gia thứ thiệt.
Theo ông đây là người mà một khi người đó xuất hiện, người ta không thể suy nghĩ như là trước nữa, trong cái ngành nghề riêng biệt của tư tưởng gia đó.
Ông lấy thí dụ: Lévi-Strauss. Sau khi ông này xuất hiện, người ta không thể nào suy nghĩ về môn nhân học (anthropologie) như trước nữa. Hay là Noam Chomky, với môn ngôn ngữ học. Đây là những nhà tư tưởng “cắt đứt truyền thống” [les hommes de ruptures: những con người của sự đứt đoạn], để lên đường, nhưng lên đường và đi tới nơi tới chốn hay không là còn tùy. Bởi vì chưa chắc mấy ông nội này tất cả đều có lý, khi cắt đứt [truyền thống], nhưng rõ ràng là tư tưởng của họ mang tính cách mạng.  Những con người của cắt đứt này còn là những con người dám vượt bờ ngăn. Đa số họ là “những nhà xây cất hệ thống” [les constructeurs de système], chữ này Sorman cho biết, ông mượn của sử gia người Anh, Isaiah Berlin. So với thế kỷ trước, chúng ta nghèo hơn, về mấy ông xây dựng ý thức hệ, nhưng lại khấm khá hơn, nếu nói về những nhà xây dựng những hệ thống khoa học.
“Một nghệ sĩ thứ thiệt là kẻ đối thoại với tác phẩm của mình, kẻ bịp bợm, lo mơn trớn đám đông”, câu nói của nhà sử học về nghệ thuật Ernst Gombrich cũng là một châm ngôn mà Sorman dựa vào đó lọc ra những nhà tư tuởng thứ thiệt, bởi vì ông tin rằng, câu nói trên đúng, với bất cứ một ngành ngề, một môn khoa học nào. Thành thử, trong những người mà ông phỏng vấn, có người được biết đến, hoặc không, nhưng không hề có những con người nổi tiếng (célèbres).
Ông thú nhận, trong khi mời chào những khách hàng để đưa vào “bảng phong thần”, có ông “nói thẳng” vào mặt ông, “Tớ đếch có ham!”, thí dụ như triết gia Đức Jurgen Habermas, một trong những trụ cột của trường phái Frankfurt. Bởi vì tôi [Sorman] không làm sao hiểu nổi những tác phẩm của ông, và tiếng tăm của ông thật là đáng kể, tôi nghĩ, một cuộc nói chuyện với ông sẽ soi sáng cho tôi nhiều vấn đề. Nhưng Habermas không bao giờ nói chuyện với những ai không chia sẻ những quan điểm chính trị của ông. Một người nữa, là Ivan Illich, sáng lập viên thần học về giải phóng [fondateur de la théologie de la libérarion] của Mỹ châu La tinh, kẻ thù của tiến bộ, của trường học, và của y học, một nhà tư tưởng ngược ngạo (paradoxal), nổi tiếng hai mươi năm trước đây [cuốn sách của Sorman xuất bản năm 1989], tôi nghĩ, có thể bây giờ là lúc kéo ông ta ra khỏi lãng quên, nhưng ông lắc đầu, “Đừng, đừng!”, ông giải thích thêm, “Những tư tưởng của tôi quá cơ bản để mà phổ biến” [Mes idées sont trop fondamentales pour être divulguées].
Câu nói của ông làm người viết nhớ tới một giai thoại về Hegel, theo đó, khi ông sắp đi, đệ tử xúm xít chung quanh coi thầy có dặn dò gì không. Thầy nói, “Trong đám ngươi, có một thằng hiểu ta.” Đệ tử hồi hộp, chờ thầy phán tiếp..... “Tội nghiệp cho nó, và luôn cả cho ta,  nó hiểu sai!”
Rồi đi luôn!

Ilya Prigorine được Nobel hóa học năm 1977, vì đã “đem lại sức sống cho khoa học, nhờ những lý thuyết mầu mỡ nhằm nghiên cứu nhiều vấn đề, từ lưu thông xe cộ, những xã hội của những loài côn trùng, tới sự phát triển những tế bào ung thư...”, qua lời khen tặng của hội đồng Nobel khi trao giải.
Nhà bác học Bỉ sinh tại Moscow năm 1917. Gia đình ông di sang Berlin vào năm 1922. Biến cố Nazi khiến họ phải chạy qua Buxelles. Mê đủ thứ, âm nhạc, văn chương, triết, thế rồi, bị “chấn động” [frappé] bởi quan niệm về thời gian của triết gia Pháp Bergson, ông quay qua khoa học. Ngay từ năm 1939, nghiên cứu của ông xoáy vào định luật thứ hai của môn thermodynamique [nhiệt-động lực học], theo đó, sự mất trật tự [le désordre]  tăng lên trong một hệ thống khép kín, với bất cứ loại năng lượng nào, cho tới lúc năng lượng biến mất... Từ định luật này, có thể suy ra rằng, vũ trụ có khuynh hướng tiến tới một sự cân bằng “thê thảm” [mortel: chết người], khi mà tất cả năng lượng bị nướng hết [gaspillé: phí phạm]. Đây là [hiện tượng] “mũi tên của thời gian” [la flèche du temps]. Prigorine nghiên cứu những điều kiện thật cách xa cân bằng nói trên, và vào năm 1946, đã có ý nghĩ, rằng, những hiệu quả của thời gian có thể đẻ ra những cơ cấu mới.
Năm 1954, ông cho xuất bản cuốn Dẫn nhập vào môn nhiệt động lực học của những tiến trình không thể nghịch đảo [des processus irréversibles]. Những cân bằng nhiệt động lực mà ông gọi là “mù” [aveugle] thì thật hiếm trong vũ trụ. Và những hệ thống mất cân bằng, thí dụ như những thành phố, hay là những tế bào, có thể sống sót trong những môi trường kém tổ chức [moins organisé]. Prigorine chứng minh, trong những điều kiện cách xa [éloigné] của diểm cân bằng, những biến động [fluctuations] có thể tự ổn định. Những cơ cấu mà ông coi là vung vãi, hoang phí [srtuctures dissipatives], chẳng hạn như Cuộc Sống, đích thị nó, là một thí dụ, có thể kéo dài, bằng cách chôm chĩa năng lượng cần thiết cho môi trưởng hỗn mang của nó, rồi lại hoang phí tiếp ra bên ngoài [... peuvent ainsi durer, captant l’énergie nécessaire de leur environnement chaotique, puis la dissipant à nouveau à l’extérieur].
Nhóm nghiên cứu của ông ở Bruxelles, gồm sáu chục nhà khoa học, từ nhiều môn khác nhau, hiện đang thử nghiệm quan niệm về cơ cấu hoang phí trong nhiều bộ môn: xã hội học, sinh học....
Những tác phẩm của ông gồm có:
Cơ cấu, sự ổn định và những biến động, Structure, stabilité et fluctuations, nhà xb Masson, 1971.
Vật lý, thời gian và sự trở thành, Physique, temps et devenir, Masson, 1982.
Liên Minh Mới: Hóa thân của Khoa học, La Nouvelle Alliance: Métamorphose de la Science (cùng với Isabelle Stengers), Gallimard, 1986.
Giữa Thời Gian và Thiên Thu (với Isabelle Stengers), Fayard, 1988.

Trật tự hay Hỗn mang: Prigorine vs René Thom

Quan niệm của chúng ta về thế giới bị ảnh hưởng bởi khoa học vật lý. Một khi chúng ta cho rằng vũ trụ giống như một cái đồng hồ tuân theo những qui luật bất biến, như vậy chúng ta là những đứa trẻ của Newton và của môn cơ học của ông. Và chúng ta thật dễ dàng cho rằng những môn khác như chính trị, kinh tế... chúng cũng tuân theo những định luật bất biến.
Một cái nhìn mang tính cơ học như thế về vũ trụ là không có tính khoa học, theo Ilya Prigorine. Đây chỉ những lý thuyết nẩy sinh từ thế kỷ 17 và đã bị vượt qua, và bất hạnh thay, vẫn được đem ra giảng dạy tại trường lớp. Phải thay thế nó bằng môn vật lý học đương thời, được thành lập trên cơ sở của lý thuyết về xác xuất (la probabilité). Điều mà chúng ta tưởng như là một trật tự đã an bài, và bất biến, thật ra chỉ là hỗn mang, bất định (indéterminé): Chẳng hề có đồng hồ, người làm ra đồng hồ, chẳng hề có thần thánh, trần tục, thế giới là một hỗn mang, không thể tiên đoán, mang tính đột xuất. Như mọi môn khoa học nhân văn, những môn vật lý học, chúng chỉ là tổng số những ngẫu nhiên, bất ngờ!
Đâu phải như vậy, nhà toán học người Pháp René Thom đáp lại. Hỗn mang ngự trị khoa học hiện đại chỉ là tạm thời. Đừng bao giờ từ bỏ việc tìm kiếm những định luật bất biến của vũ trụ. Thế giới có trật tự, thông minh, theo nghĩa có thể hiểu được nó. Thảm họa của khoa học hiện đại là do nó từ bỏ việc tìm hiểu vụ trụ, thế giới, khoa học hiện đại chỉ là một nghĩa địa của những sự kiện, một sự tích tụ những thông tin trên những máy tính, chẳng có một lý thuyết dẫn giải chúng. Khoa học hết suy tư, chính vì thế mà nó đang bị trục trặc, Thom kết luận.
Có một điều giống nhau, là cả hai đều tỏ ra thù nghịch với tính tản mạn của tri thức, và đều tin rằng, khoa học nhân văn và khoa học chính xác bị kết án phải giầu sang lên mãi mãi, nếu không muốn cùng theo nhau chìm xuồng.
Theo Ilya Prigorin, chúng ta đừng tin rằng những lý thuyết khoa học là những định luật được giấu diếm đâu đó, để chờ những nhà tìm kiếm tình cờ khám phá ra được. Vẫn theo ông, sáng tạo khoa học thì cũng hiện hữu y chang (au même titre) sáng tạo nghệ thuật. Lovelock có lý, khi cho rằng những nhà bác học, vật lý, hóa học, họ là những tác giả, đúng như ý nghĩa của từ này, khi dùng để chỉ những nhà văn.
Được thế giới biết đến qua những nghiên cứu về những cơ cấu không-cân bằng (structures non-équilibres), đồng tác giả với Isabelle Stengers, cuốn sách gây chấn động vì tính ngược ngạo của nó, Liên Minh Mới, Ilya Prigorine gốc Bỉ, di dân từ Nga, năm 1921, khi mới 4 tuổi. Học Bruxelles. Những gốc rễ như vậy, cùng cái tên của ông, khiến cho báo chí, vào lúc ông được Nobel hóa học vào năm 1977, đã coi ông là dân Nga. Cực kỳ thông minh, nhìn biết liền, đúng như cảm tưởng của tôi [Sorman], về “tư tưởng gia thứ thiệt”, khác biệt hẳn với thứ dởm, ở cái vẻ khiêm tốn và giản dị của họ.

Khám phá lớn lao, là để dành cho thiên tài.
[Il n’y a pas de grandes découvertes sans un auteur de génie]

Đúng là trong những thời kỳ bình thường, nhất là với những môn học đã đạt tới sự trưởng thành, bước tiến của khoa học gần như “vô ngã” (impersonnelle), mang tính năng nhặt chặt bị [cumulatif: tích lũy], và thêm nhà nghiên cứu này, hay bớt đi nhà nghiên cứu nọ, chẳng làm thay đổi thành quả. Nhưng với những khám phá mang tính cách mạng, luôn xuất hiện thiên tài, không chỉ một, mà là “quần hùng tụ hội”, “Hoa Sơn luận kiếm” [“constellations de génie”]: Đây là trường hợp xẩy ra ở đầu thế kỷ 17, thiên tài xuất hiện như “lá mùa thu”: Copernic, Kepler, Galilée. Gần đây thôi, là Einstein, Broglie, Heisenberg và Schrodinger. Thiếu Einstein, làm sao chúng ta có lý thuyết tương đối? Bộ dễ kiếm ra một Einstein thứ nhì? Từ đó suy ra: Tiến bộ khoa học không thể nào là thành quả của một định mệnh thuyết mang tính lịch sử. Cứ giả sử nhân loại một ngày đẹp trời nào đó, tiến tới chủ nghĩa CS, theo nghĩa, không còn người bóc lột người, do quá thừa mứa cái ăn cái mặc cái chơi, như vậy cũng không thể có cái chuyện ai cũng như ai, rằng, anh “mê gái” cũng nhiều như... tui được! Những lý thuyết vốn chỉ là những giả thuyết tạm thời, những công thức, kết luận mang tính cá nhân, qua thử thách của thời gian, những lý thuyết thí dụ như của Copernic, Newton, hay Einstein, ngày càng trở nên “xác định” [définitives] hơn. Chân lý khoa học, như vậy, không mang tính toàn thể. Thí dụ như môn cơ học cổ điển. Nó vẫn còn có giá trị vào thời buổi bây giờ, nhưng chỉ trong miền (domaine) của những vật thể nặng nề (objets lourds), thí dụ như là những hành tinh! Ngược lại, khi phải diễn tả sự tiến hóa của những vật thể “nhẹ” của thế giới tiềm-nguyên tử (subatomique), Newton chịu thua! Phải đưa vào đó môn cơ học lượng tử, một sáng tạo của thế kỷ 20. Khoa học là một chuỗi những giả dụ có thể bị phản bác, và giả dụ như có một giả dụ vượt lên khỏi mọi phản bác, một “chân lý” như vậy sẽ thuộc vào miền của ma thuật, huyền thuật, chứ không phải của khoa học.

Khoa học đẻ ra từ Tây phương.
[La Science ne pouvait naitre qu’ en Occident]

Nếu chúng ta chấp nhận, cùng với Prigorine, rằng, bác học là những người đối thoại với Thiên nhiên, như vậy tại sao, có những thời kỳ, những nền văn minh, thiên tài xuất hiện khá xôm tụ, cùng với họ, là những khám phá lớn lao, so với những thời kỳ khác, những nền văn minh khác? Tại sao, nền khoa học được thành lập bởi Descartes và Galilée, xuất hiện ở Tây phương mà không ở nơi khác? Câu trả lời, theo Prigorine, không nằm ở sự thông minh của những dân tộc hay những cá nhân, mà chỉ kiếm thấy ở trong những hoàn cảnh lịch sử hay văn hóa.
Khoa học xuất hiện cùng với [en fonction de] ý nghĩ, tư tưởng con người về vũ trụ. Nếu một dân tộc tin rằng có một đấng Sáng Tạo là cội nguồn của thế giới, và đấng Sáng Tạo đó sẽ quyết định tương lai của họ, từ một niềm tin như vậy sẽ là những luật lệ, và cùng những luật lệ, là một tương lai được phân định (discernables). Vào thế kỷ 17 những định luật về Thiên Nhiên qui chiếu về một Nhà Lập Pháp tối thượng. Phần việc của những nhà bác học, là giải mãi (décoder) những luật thiêng, và những nhà bác học như thế có thiên hướng trở thành những người biết hết hiểu hết. Sự xuất hiện của một nền khoa học Tây Phương vào thế kỷ 17 là một hiện tượng cộng hưởng [résonance] với thần học của thời kỳ đó.
Đó là cái mẫu mã khởi đầu của khoa học Tây Phương được nhập thân bởi hai nhà bác học của họ, là Newton và Leibnitz. Quan niệm cổ điển về khoa học như thế, coi Thượng Đế là một đảm bảo cho những luật lệ thiêng liêng, vĩnh cửu. Người đại diện cuối cùng của nền khoa học cổ điển nói trên, là nhà bác học Einstein, theo Prigorine. Công thức nổi tiếng của Einstein, “Thượng Đế không chơi xúc xắc” [Thượng Đế không đổ xí ngầu], khẳng định một sự thực thiêng liêng về Vũ Trụ và những luật lệ độc lập đối với cuộc sống ngẫu nhiên, tùy tiện của con người.
Nhưng một niềm tin về một Thượng Đế vạn năng và rất ư là thuần lý (rationnel), như là một điều kiện cần thiết cho sự xuất hiện của khoa học, chưa đủ. Cần phải có một ông Trời mạnh, theo Prigorine, chống lại một ông vua “yếu”, chống lại cái “trò chơi” (jeu) chính trị, và xã hội từ đó nẩy sinh nỗi âu lo về tinh thần, và đây là nguồn cơn đưa đến những cuộc tranh luận thuờng trực ở thời Trung Cổ tại Âu Châu, giữa những giáo hoàng và những vua chúa, chính từ đó mà tư tưởng độc lập đã nẩy sinh. Một trong những “trò chơi” trí tuệ đáng kể đã xẩy ra vào thế kỷ 19 tại Vienne, nhờ nó mà những cấu tạo lý thuyết tuyệt vời nhất của thời đại chúng ta đã nảy nở, phát triển, nhất là môn cơ học lượng tử và thuyết tương đối.

Một bên là sơ đồ Âu Châu như trên, một bên là Trung Hoa: Tại sao khoa học hiện đại không nẩy sinh từ Trung Hoa? Theo Prigorine, câu trả lời vẫn là về một trật tự văn hóa. Quyền lực vua chúa trấn áp, triệt tiêu mọi tư tưởng đổi mới, một khi nó ló mòi làm loạn, nghĩa là làm xáo trộn trật tự xã hội. Ngoài ra còn là vấn đề này: những quan niệm thần học của Trung Hoa phù hợp với một viễn ảnh  toàn cầu, toàn tiến (holiste), của Vũ Trụ. Một quan niệm như thế sẽ tỏ ra thờ ơ trước một nghiên cứu những định luật cơ học. Ngược hẳn với Âu Châu, Trung Hoa mạnh về khả năng, quyền năng (pouvoir fort), nhưng yếu về thiên tính (divinité faible), chính vì vậy mà họ đã có những khám phá cơ bản thí dụ như la bàn, thuốc nổ, bánh lái (gouvernail), nhưng chúng không được đưa vào thực hành, thành thử không gây những đột phá quan trọng thay đổi hẳn bộ mặt xã hội.
“Bạn thấy đấy,” Prigorine bảo tôi, “Những nhà bác học không phải là những con người không chút dây mơ rễ má (déincarné), mà là một phần tử của bộ lạc mà người đó sống. Văn hóa môi trường hướng dẫn những nghiên cứu tìm tòi của nhà bác học, giống như mùi vị của tiền bạc và quyền lực.” Những mũi nhọn chĩa vào môn sinh học, thí dụ vậy, là hậu quả của nỗi lo sợ về bệnh ung thư, hay nhắm vào môn vũ trụ học, là do nỗi lo âu, hoặc nghi ngờ, có hay không, một đấng Sáng Tạo. Đây là môi trường lịch sử và văn hóa nẩy sinh nền khoa học cổ điển của chúng ta, nhưng một hình ảnh như vậy về khoa học đã trở nên lổi thời, không chỉ lỗi thời, mà còn sai lạc (fausse).

Vũ Trụ không còn là đồng hồ, mà là hỗn mang.

Trong kiểu mẫu cổ điển của khoa học vẫn tiếp tục được giảng dậy ở lớp học, những định luật của Vũ Trụ thì đơn giản, đối xứng, tất định, và không thể đảo ngược được, và cái đồng hồ có thể coi như một biểu tượng của nó, với sự chuyển động bất biến, và có thể thấy trước được. Trong cái bản vẽ (schéma) như thế đó, vật chất tuân theo những định luật, nhưng con người, ngược lại, thì tự do. Đây là thế luỡng nguyên (position dualiste) của Descates, và nó đã đánh dấu, chỉ danh triết học Tây Phương, là như thế đó. Từ đó đẻ ra sự phân chia văn hóa của chúng ta [Tây Phương], giữa, một bên là khoa học nhân văn [thí dụ như lịch sử, hay tâm lý học], và một bên là những môn khoa học chính xác. Với môn nhân văn, thời gian và biến cố giữ một vai trò thiết yếu. Với khoa học chính xác, những định luật của chúng thì vô thời [intemporelles].
Vào những năm đầu của thập niên 1920, thế giới khoa học xẩy ra một cuộc cách mạng bản vẽ trên, với sự xuất hiện của môn cơ học lượng tử. Người ta hiểu ra rằng, ở mức độ của những điện tử, khoa vật lý cổ điển chẳng có một chút giá trị, và chúng ta bước vào một thế giới khác, thế giới của những điều bất trắc, không thể tính trước được. Rằng cái cấu trúc của vật chất không còn có thể định nghĩa bằng những định luật xác định, mà bằng những kiểu mẫu của xác xuất (modèles de probabilité). Thoạt đầu, những nhà bác học giải thích, những biến động (perturbations) ở trong Vũ Trụ là do sự đo đạc của con người mà ra. Người ta tin rằng, quan sát viên, tức con người, gây ra sự bất ổn định. Nhưng tới cuối thế kỷ 20, Prigorin khẳng định, chúng ta biết rằng vật chất thì không bền (instable), và Vũ Trụ, mà chúng ta nghĩ rằng bất biến, chính nó cũng có một lịch sử. Thế giới vật lý của chúng ta không phải là một cái đồng hồ mà là một hỗn mang không thể nào tiên đoán trước được. Tất cả những lý thuyết theo kiểu xâu chuỗi bắt buộc, nguyên nhân như thế, thì đưa đến hậu quả như thế này, chúng lần lượt được thay thế bằng những bài tính về xác xuất. Lẽ dĩ nhiên, người ta luôn luôn có thể biết trước, từ những bản vẽ cổ điển theo kiểu Newton, vị trí của trái đất ở một thời điểm 5 ngàn năm sau, nhưng Prigorin nhấn mạnh, những chuyển động tuần hoàn, ổn định như thế đó, là ngoại lệ: phần lớn những hệ thống động lực thực sự luôn ở trong trạng thái không ổn định. Một thí dụ thật đơn giản, những cũng thật ấn tượng mà Prigorin đưa ra, là [môn] khí tượng (météo).

“Hiệu ứng bướm” khiến con người khó tiên đoán về Trái Đất.
Làm sao con người có thể tiên đoán, suốt cả một thế kỷ, đường đi nước bước [le passage] của một ngôi sao chổi, vậy mà không làm sao tiên đoán, thời tiết ngày này tuần sau, sẽ ra sao? Môn khí tượng, theo Prigorin, chỉ tiên đoán [giả thuyết] khí hậu thời tiết không quá con số 4 ngày. “Dư luận” cho rằng, nếu trang bị cho những nhà khí tượng những máy móc tân kỳ, hiện đại hơn, họ có thể tăng con số 4 nói trên thành 8, hoặc 30, tức là một tháng. Sai! Prigorin trả lời. Thời gian là không thể tiên đoán, theo như định nghĩa về nó. Nó là kết quả của một tổng số những bất trắc: Đây là một hệ thống động lực không ổn định. Nói như vậy, có nghĩa, rằng một sự thay đổi nhỏ bé (moindre variation) ở một nơi chốn nào đó, có thể gây ra [entrainer] những hiệu quả đáng kể. Người ta gọi đây là “hiệu ứng bướm”: một tiếng đập cánh của một con bướm tại Bắc Kinh có thể gây ra một luồng hơi nhẹ (un souffre léger), và cái làn hơi nhẹ nhè nhẹ này, cứ thế cứ thế [de proche en proche] đẻ ra [donnera naissance] một trận bão, ở California.
Một thí dụ cơ bản nữa, về hệ thống của Prigorin, là: đồng tiền. Khi chúng ta chơi trò sấp hay ngửa, bằng thống kê học, người ta tính đuợc, tới một lúc nào đó, đồng tiền “thích” phô ra, chỉ một mặt, hoặc hay sấp, hoặc hay ngửa [hình như mấy ông hay chơi sóc dĩa quá rành chuyện này, mà họ gọi là hiện tượng “rền”, nếu tôi không lầm?] Hãy tưởng tuợng chúng ta có trong tay một cái máy điện toán, và tính được tất cả những giai đoạn, rền sấp hoặc rền ngửa đó, như vậy chắc chắn chúng ta sẽ tiên đoán được, bỏ qua trường hợp tiền múa chúa cười của Trạng Quỳnh (?) khi đánh bạc với bà Chúa Liễu (?), chuyến này, là chẵn hay là lẻ. Hoàn toàn sai!, Prigorin trả lời. Không làm sao tính nổi, bởi vì đồng tiền bắt buộc sẽ trải qua những vùng bất trắc, những bước ngoặt [của lịch sử], những “bifurcations” [chỗ rẽ]. Trong một hệ thống động lực không bền, một điều kiện tiên khởi [condition initiale], đưa tới một kết quả “sấp”, thì cũng thật là gần gụi với một điều kiện tiên khởi đưa tới một kết quả “ngửa”.
Từ những”giai thoại” như thế đó – Progorin tránh không đưa ra những giai thoại quá rắc rối, cho thấy: một cái nhìn mang tính định mệnh [một định mệnh thuyết về cuộc đời], kể như hoàn toàn sụp đổ. Nói ngắn gọn, cái gọi là ngẫu nhiên, tình cờ tham gia hết mình vào trong thực tại vật lý. Vật chất, y chang Cuộc Đời, có tính đột nhiên, bất thuờng, đỏng đảnh, như là một biến cố [Làm sao anh biết, lần đó về HN, là gặp Em, thí dụ vậy?]. Ngược hẳn với niềm tin của Einstein, Thượng Đế chơi xí ngầu, và chơi rất cừ, [nếu không làm sao có chuyện Anh gặp Em, ở quán gì gần bờ hồ, nhỉ.....]

Jennifer Tran