Lê Minh Hà
13 hrs ·
Berlin, Germany ·
Mười năm
Tôi vẫn muốn
giữ cho mình khả năng ngớ ngẩn này
Phạm Thị
Hoài thực hiện
talawas:
Thưa chị Lê Minh Hà, gần đây một số tác phẩm đã xuất bản ở bên ngoài
của chị được
in lại ở trong nước và tác phẩm sắp tới của chị sẽ in ở trong nước mà
không in ở
bên ngoài. Có thể coi chị là một sự hoà hợp may mắn giữa văn học Việt
trong nước
và văn học Việt ngoài nước không?
Lê Minh Hà
(LMH): Tôi mới có một tập và một số bài báo in ở nhà. Còn tất cả chỉ là
dự định.
Mới thế mà đã may mắn trở thành một sự hòa hợp may mắn trong văn học
Việt đương
thời??? Tên tôi, tôi không nghĩ đã là quen thuộc trong sinh hoạt chữ
nghĩa đối
với đông đảo người đọc tại Việt Nam.
Không, viết ở
nơi này được đọc ở nơi kia phải coi là sự thường và đã là sự thường
trong sinh
hoạt văn chương của chúng ta, nhất là trong điều kiện thông tin hiện
nay. Dốt
lâu khó đào tạo kĩ thuật như tôi mà còn nghiền đọc qua mạng đủ thứ cơ
mà. Trước
Lê Minh Hà đã có một Ðỗ Kh. với Kí sự đi Tây, một Nguyễn Mộng Giác với
bộ tiểu
thuyết đồ sộ Sông Côn mùa lũ, gần đây là Phạm Hải Anh được tìm đọc từ
trong ra
ngoài rồi lại từ ngoài vào trong, là Mai Ninh. Chưa có thống kê đầy đủ
và đây
là một danh sách mở. Khi những trường hợp này không được coi như hiện
tượng thì
mới có thể coi đó là may mắn cho sự phát triển của văn học Việt, không
chia
tách trong ngoài. Chung một ý nghĩa đó là việc tác giả trong nước được
người Việt
sinh sống bên ngoài quê hương đón nhận nồng nhiệt trong tinh thần lụy
tiếng Việt,
như Nguyễn Huy Thiệp của một thời, của Những ngọn gió Hua Tát, Những
người thợ
xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê... như Phạm Thị Hoài thời
Thiên sứ,
Mê lộ, như Nhật Tuấn với Ði về nơi hoang dã, như Bảo Ninh với Nỗi buồn
chiến
tranh, Phan Thị Vàng Anh và vân vân. Ðây cũng là một danh sách mở.
Ðã viết, đã
cho in, không ai không mong có nhiều người tìm đọc. Việc có thể in ở
đâu cũng
được, và quan trọng hơn: việc được đọc, như một hình thức đối thoại
ngầm của
nghệ thuật chữ, ở cả trong lẫn ngoài nước sẽ là chuyện hiển nhiên của
một nền
văn học mà chúng ta mong muốn, phải không, và vào lúc này, có thể nói
là may mắn
của những người viết chăng?
talawas: Cái
"sự thường" ấy đang là một thực tế phổ biến hay còn là ngoại lệ ít ỏi?
Ðộ mở của cái "danh sách mở" ấy rộng đến đâu?
LMH:
Bắt đầu là
ngoại lệ.
Sau đó là thực
tế.
Tiếp diễn là
hiển nhiên.
Ðường xa.
Có đường nào
không xa trong sự trở lại với chính mình, càng không dễ nói trước điều
gì khi
minh là người Việt, của Việt Nam hiện nay. Nhưng có thể nói ngay rằng
điều kiện
mở của danh sách tác giả và tác phẩm trong nước được in và đọc ở ngoài
nước dễ
dàng hơn so với chiều ngược lại.
talawas: Vậy
vì sao chị chọn cuộc sống ở ngoài nước, ở Ðức?
LMH: Sống ở
đâu và viết ở đâu cũng nhất thiết phải là một câu hỏi ư? Một không gian
địa lí
để sống có lẽ không phải là một chọn lựa quan trọng lắm cho sự động đậy
của một
ngòi bút. Nhà tôi có những lí do riêng để chọn Ðức làm nơi cư trú cho
cả gia
đình, trong đó có một lí do liên quan đến vợ ông ấy: Khí hậu châu Âu
thích hợp
với sức khoẻ vốn cực kì ọp ẹp của tôi trong điều kiện mưa nắng quê nhà.
talawas: Chị
không cho rằng môi trường sống có tác động đáng kể đến sáng tác ư?
LMH: À, nếu
hiểu môi trường sống rộng hơn những điều kiện địa lí thì dĩ nhiên nó
phải có
tác động đến người viết. Một cách nào đó, thế nào điều kiện sống cũng
sẽ để lại
những vết cào trong cảm thức của người viết. Nhưng lực tác động của môi
trường
xúc cảm mạnh nhẹ thế nào lại phụ thuộc khá nhiều vào kinh nghiệm sống,
học vấn
cũng như kinh nghiệm nghệ thuật của chủ thể tiếp nhận. Sự hiểu của tôi
cho thấy
ở một số người viết, điều kiện sáng tác trên quê hương hay bên ngoài
quê hương
không để lại một dấu ấn nào trong trang viết ngoại trừ đề tài.
talawas:
Trong bài viết gần đây về người Việt và văn học Việt ở Ðức, anh Nguyễn
Văn Thọ-một
tác giả cũng sống tại Ðức- thấy trong sáng tác của chị một "cuộc sống
tha
hương với nỗi đau nhức nhìn ngược về quê hương" và sự "chín dần sau
những mùa đông dài lê thê ở xứ người"...
LMH: Tác phẩm
văn học là một chỉnh thể, sẽ biến đổi khi được tiếp nhận từ những cấp
độ đọc
khác nhau của nhiều người đọc khác nhau. Trong điều kiện thông tin hiện
nay, nếu
một người Việt có định cưu mang một nỗi đau nhức nhìn ngược về quê
hương thì
không nhất thiết phải chuẩn bị cho mình một cuộc sống tha hương với
những mùa
đông dài lê thê ở xứ người. Với những điều kiện thể chất riêng, chính
mùa đông
đất Bắc với tôi mới gọi là dài. Sống bên ngoài quê hương, chúng ta có
thêm điều
kiện để thiết tha với quê hương mình trong những chiều kích mới. Hiểu
chữ tha
hương như là sự dịch chuyển kinh tuyến vĩ tuyến liệu có là đơn giản quá
không
nhỉ? Anh Nguyễn Văn Thọ là một người viết, sống trong những điều kiện
địa lí
như tôi hiện nay, nhưng tôi không nghĩ tôi chung với anh Thọ kinh
nghiệm yêu
thương cũng như kinh nghiệm nghệ thuật.
talawas: Việt
Nam và Ðức tuy không có chung một chương sử thuộc địa hay chiến tranh,
nhưng lại
có những tương đồng đặc biệt: Ðều bị chia thành hai quốc gia theo thể
chế chính
trị khác nhau trong thời chiến tranh lạnh, và ngày nay đều đã thống
nhất. Tại Việt
Nam, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) chấm dứt năm 1975. Tại Ðức, Cộng Hoà Dân
Chủ Ðức
(CHDCD) chấm dứt năm 1989/1990. Nhưng trong cộng đồng Việt tại Ðức,
dường như
có một bộ phận không nhỏ vẫn tiếp tục sống trong VNCH và một bộ phận
không nhỏ
khác tiếp tục sống trong CHDCÐ. Chị quan hệ thế nào với cái di sản đó
của lịch
sử?
LMH: Chưa
bao giờ tôi có mặt trong một đại nhạc hội, nơi mà nhiều đồng hương của
chúng ta
vẫn tìm được niềm vui chung dù ra đi từ Nam hay Bắc sau 1975 và khác
nhau nhiều
hơn nữa ngoài cái sự khác nhau về thời điểm đến Ðức này. Nhưng tôi từng
rất vui
ở những đêm nhạc đêm thơ, ở nhiều cuộc giao tình mà nhìn quanh chẳng
mói thêm
được một gương mặt nào sinh ra và lớn lên dưới mái trường xã hội chủ
nghĩa như
mình. Và ngược lại, như cá lội được về ao giữa những người có chung vui
buồn tuổi
nhỏ tuổi lớn, nơi này. Bè bạn của chúng tôi có người cho đến bây giờ
vẫn còn
nguyên đau khổ vì tháng tư đen, vì mất nước (Việt Nam Cộng Hoà) và khi
làm
khách ở nhà tôi, họ đã được mời thưởng thức giọng hát Quý Dương, Trung
Kiên với
những Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Bài ca Trường Sơn. Và ngược lại, tôi khuân
sang tận
Berlin tùy bút Võ Phiến cho bạn học cũ chưa có cơ hội đọc và cũng chả
có ý định
tìm đọc, bắt đọc và bắt nghe Ta làm gì cho hết nửa đời sau, Nghĩ đắt vô
cùng
giá tự do, Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển của Cao Tần, Thanh Nam, Du
Tử Lê. Tại
sao không? Khi đó là điều kiện để hiểu nhau! Cái gọi là di sản của lịch
sử đó
nó vẫn từng ngày tự biến qua từng cá nhân có khả năng phê phán khách
quan. Anh
Nguyễn Văn Thọ tác giả của bài viết về người Việt tại Ðức và vân vân
vừa rồi đã
từng qua điện thoại hỏi tôi địa chỉ các tạp chí văn hóa văn chương của
người Việt
ở ngoài nước và đề nghị tôi giới thiệu. Nói chung, tôi thoải mái là tôi
giữa những
cộng đồng nhỏ của người Việt nơi này, một khi có quan hệ. Và tôi nghĩ
ai cũng
thế thôi, nếu biết trọng mình và trọng nhau, thương mình và thương
nhau. Khi
làm quen rồi thân thiết với ai ở bên ngoài quê hương, chúng tôi không
đặt trước
cho mình điều kiện người đó từ miền đất Việt nào tới đây, với kinh
nghiệm lịch
sử nào. Nhưng dĩ nhiên, mọi mối giao tình đều có những điều kiện riêng
mới trở
thành thân thiết. Tôi đã học được nhiều điều từ trong quan hệ với nhiều
người
khác tôi về quan niệm, cá tính, kinh nghiệm sống trong quá khứ. Thu
nhập lớn nhất
từ đó là tập/ biết cảm thông và chấp nhận khác biệt ở nhau. Thế cho nên
bây giờ,
đôi khi, tôi đã thoáng nghĩ là trong thời mình, có lẽ chúng ta rồi cũng
không cần
chung sống mãi với di sản lịch sử này nữa. Nó sẽ trở thành đồ cổ, một
thứ đồ cổ
quý không phải vì là bằng chứng lịch sử một thời, mà vì hàm chứa bài
học lịch sử
với khả năng lay tỉnh không bao giờ cũ với người Việt.
talawas: Chị
muốn nói đến bài học lịch sử nào?
LMH: Mỗi người
sẽ rút ra bài học đó theo cách của mình, tiêu pha nó bằng vốn sống,
bằng trí tuệ
riêng. Mới đây, tôi có dịp xem hàng loạt phim phóng sự do nhà báo nước
ngoài thực
hiện về Việt Nam, Việt Nam của bốn mươi năm trước khi chiến tranh lan
rộng, Việt
Nam của thời hậu chiến. Những cuộc họp tổ ba người. Ca mổ dưới ánh đèn
tạo bằng
chuyển động của xe đạp. Sài Gòn váy ngắn áo dây và những bài đồng ca
giữa vùng
giải phóng. Những chiếc tàu đưa người vượt biển trông như thể được đóng
bằng
tôn nát. Hà Nội Sài Gòn chật ních người trang phục như sắp lên vũ trụ
bây giờ.
Phát khóc, tự hào và cay đắng. Là người Việt lụy tiếng Việt, lụy dưa cà
mắm muối
kiểu Việt, tôi vẫn muốn nhắc với mình rằng phải học trọng mình và
thương mình,
trọng nhau và thương nhau, như một cách thế tránh làm lại một lịch sử
cũ.
Thương nhau, nhưng đừng chỉ trên tinh thần bầu bí. Mà thôi, ở mỗi người
viết,
có ngẫm nghĩ gì thì thấu đáo chăng phải tìm trên trang viết. Tôi có đả
động đến
điều này ở một loạt truyện cổ viết lại, xin xem một đôi truyện như Tấm
Cám,
Gióng, hay An Dương Vương.
talawas: Làm
lại một lịch sử nào đó bằng tình thương và trọng lẫn nhau, như thế liệu
có phần
hơi ngây thơ không?
LMH: Có thể
lắm, nếu như sự biết - tôi nhấn mạnh chữ biết, nghĩa là phải học -
thương và trọng
mình, thương và trọng nhau không dẫn tới một sự biết mới: chấp nhận (và
khoái
chí vì) khác biệt. Nhưng ngay cả không như thế, tôi vẫn muốn giữ
cho mình khả
năng ngớ ngẩn này. Rõ là phải đặt tên mới cho sự ngây thơ trong
trường hợp
này phải không ạ?
talawas: Cuốn
tiểu thuyết mà chị sắp xuất bản trong nước có tiếp tục mạch "truyện cổ
viết
lại" không? Có nguy cơ gì nếu đi tiếp mạch ấy?
LMH: Rồi có
thể lại thấy phải cãi vã với mình trước một huyền thoại Việt nào đó
trong một
điều kiện cụ thể nào đó chăng? Ví như vừa rồi viết Gióng là nhân thư
của cậu
cháu ruột sinh viên, kể rằng một giảng viên trẻ ở trường Tổng hợp đã
đoan chắc
tôi sẽ viết lại câu chuyện này, vì đó là một câu chuyện đặt lại nhiều
vấn đề
trong thời ta đang sống. Cách suy luận huyền thoại của anh ấy - Nguyễn
Xuân Thạch
- rất thú vị. Tuy nhiên, tôi đã viết lại câu chuyện này theo cách cảm
của tôi,
khác hẳn. Cũng vì thế mà tôi chưa đóng mạch, nhưng cũng không định cắm
cổ viết
tiếp. Bản thảo mới cuả tôi không phải là giã
sử.
Là bởi vì
câu hỏi Có nguy cơ gì nếu đi tiếp mạch ấy cũng là câu tôi hỏi mình.
Chẳng cứ mạch
ấy mà mạch nào cũng đặt trước ta một nguy cơ. Tôi đã học được qua nghề
giáo một
điều: nói và viết hay mấy mà dai quá cũng thành lảm nhảm, và cần tập
đổi chỗ với
người nghe người đọc. Là người đọc của mình, tôi ngấy tôi rồi.
talawas: Trước
khi viết văn chị là giáo viên Văn tại một trong những trường PTTH danh
tiếng ở
Hà Nội. Vì sao chỉ một việc bình thường như viết đúng ngữ pháp cũng là
khó
khăn, ngay cả với nhiều người đang hoạt động trong khu vực báo chí
truyền thông
và thậm chí với không ít nhà văn Việt Nam? Chương trình dạy Văn trong
trường phổ
thông đã thất bại chăng?
LMH: Phải
nói lại: trước khi hiện diện như một người viết, chứ không phải là
trước khi viết.
Có thể có người rất thành công ở nhiều phương diện và đột nhiên lại
nhận ra
mình sẽ thành công tiếp trong nghệ thuật chữ. Tôi không có cái may mắn
ấy bởi
thực ra hì hục với văn chương từ bé. Mười mấy năm đi học, mỗi năm đến
trường
nhiều lắm được ba tháng, đọc liên miên rồi tập tễnh viết, chẳng sướng
sao. Ra đời
với nghề giáo, dạy chuyên văn Hà Nội Amsterdam, tôi phải kể thế để nói
ngay rằng
học trò trường tôi rất giỏi, giỏi trước khi là học trò của chúng tôi.
Cho nên
chưa bao giờ tôi phải băn khoăn về kết quả lao động của giới mình nếu
không có
hai năm dạy ở một trường trung học bình thường và không có những mùa
chấm thi.
Dĩ nhiên, ngành giáo dục đang có rất nhiều vấn đề, nói như cô bạn thân
là quan
chức của tôi mới gọi điện cho từ Thụy Sĩ, vấn đề có nghĩa là vấn đề, là
khó
khăn ấy mà. Nhưng vấn đề đó đâu phải mới phát sinh, tôi coi đó là hậu
quả của một
cách định hướng, yêu cầu, thẩm định mấy chục năm rồi ở Việt Nam, chẳng
cứ trong
một ngành, càng chẳng cứ trong phạm vi hẹp là dạy và học văn. Chúng ta
hay thở
dài nói tới chuyện dạy và học văn, khi đặt nó trong tương quan chất
lượng với dạy
và học toán học lí học hoá, những mũi nhọn trong công nghệ tuyển thi
đại học.
Thế nhưng nếu rà xét lại toàn bộ việc xây dựng và thực hiện chương
trình của
các bộ môn, như sử địa, như tin học, như kĩ thuật, nữ công, thể dục,
đặc biệt
là tin học, nữ công, thể dục thì... Có thể hình dung thế này không nhỉ:
giáo dục
quyết định tương lai xa và động chạm hiện tại gần của hầu hết mọi gia
đình ở Việt
Nam mình, lúc này giống như bộ phận đầu tiên văng ra khỏi một cỗ máy.
Tuy
nhiên, tôi không tuyệt vọng, khi nhớ rằng chúng ta đã toàn từ mái
trường xã hội
chủ nghĩa mà đi, khi nhận được thư của, ví dụ như con gái bạn tôi. Viết
hay đến
thế ở tuổi ấy thì xứng đáng là nỗi kinh hoàng của giáo viên văn. Nếu có
điều gì
làm tôi sợ, là áp lực dạy và học ở nhà mình hiện nay, là việc học trò
bây giờ
không còn một không gian thời gian nào ngẫm nghĩ hoặc để làm rỗng đầu
một cách
cần thiết bằng việc chơi, chơi thật sự. Nếu có điều gì làm tôi mong, là
được đọc
trên báo chí trong nước không phải chỉ những suy nghĩ tâm huyết và đầy
trí tuệ
mà là những quyết định đầu tư cải cách giáo dục một cách cụ thể như là
bấy lâu
nay tôi đọc được từng ngày trên báo chí Ðức bên này. Nói thật, tôi chán
ngấy việc
ở nhà mình người trí tuệ tâm huyết cứ phải nên chăng, còn người chịu
trách nhiệm
thì chỉ thấy phải, cần toàn việc trên trời.
Còn chuyện
chỉ một việc bình thường như viết đúng ngữ pháp cũng là khó khăn, ngay
cả với
nhiều người đang hoạt động trong khu vực báo chí truyền thông và thậm
chí với
không ít nhà văn Việt Nam, tôi chỉ có một câu trả lời: tại sao những
người chỉ
một việc bình thường như viết đúng ngữ pháp cũng là khó khăn lại được
thừa nhận
là nhà văn hay nhà báo? Trả lời câu trả lời này của tôi e chúng ta lại
phải
vùng ra khỏi cái khuôn văn chương ta đang cố ép mình vào.
talawas: Từ
hơn một tuần nay, độc giả tại Việt Nam không còn truy cập được trang
talawas nữa
và dư luận cho rằng talawas đã bị tường lửa...
LMH: Nghe
kinh nhỉ, hai chữ tường lửa. Ai cũng biết rằng những hoạt động chính
trị thì
chưa chắc có văn hoá. Nhưng hoạt động văn hoá văn nghệ thì bao giờ cũng
là biểu
hiện của một thái độ chính trị, đi theo hay vỗ vai nhau cùng tiến thì
tùy vị thế
mà nghĩ. Mấy hôm nay theo dõi talawas, đọc được suy nghĩ nhiều chiều,
tôi thích
sự thẳng thừng của nhà văn Châu Diên khi bình về hạ sách này (chữ dùng
của nhà
thơ Dương Tường). Tôi cũng thú vị với phỏng đoán rằng có thể đây chỉ là
đòn hạ
độc của một ai đó khi thấy tên mình hiện diện trên talawas không gây ấn
tượng
như mình muốn. Chứ không à? Nếu chỉ một cán bút của một ai đó không
thích thấy
tên mình trên talawas nữa đủ làm xoay cả cái đầu văn hóa tư tưởng của
chế độ
nhà mình!
Thế talawas
đã định vị lại mình chưa mà hỏi tôi câu này? talawas là báo trong luồng
hay
ngoài luồng? Các tác giả trong nước xét về mặt hành chính thì là người
ngoài luồng
hay trong luồng? Ta là ai? Thời nào con người công nhiên hỏi mình câu
đó nếu
xét lịch sử Việt Nam hiện đại? ta-là-was, ta là cái gì? Ngoài luồng
trong luồng
cùng thống nhất đặt mình trước câu hỏi này, xác lập mình trước câu hỏi
này, điều
ấy đã bao giờ được coi là chỉ dấu dương trong sự vận động của tâm trạng
xã hội ở
Việt Nam mình?
Bão xa thì
chưa thật đáng ngại. Tôi là ngưòi rất quan tâm tới tin thời tiết, vì lí
do sức
khỏe.
talawas: Xin
cảm ơn chị Lê Minh Hà.
Lê Minh Hà
sinh năm 1962 tại Hà Nội, tốt nghiệp khoa Ngữ Văn trường Đại học sư
phạm 1 Hà Nội
1983, dạy học tại Hà Nội 1984-1994, hiện sống tại Limburg (Đức).
Tác phẩm:
Trăng goá (Thanh Văn, California), Gió biếc (Văn Mới, California),
Thương thế...ngày
xưa (Văn Mới, California), Những giọt trầm (Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội).
Cộng tác với
các tạp chí Văn Học, Hợp Lưu, Văn (California), Diễn Đàn (Paris), Tia
Sáng (Hà
Nội)...
© 2004
talawas