Nguyễn Tuân,
người nhập
vai
I
Hè phố Hà Nội vốn
khá hẹp, chỉ có điều
may là ở cái thành phố lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu
này, người
đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường
vắng, bởi
vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi
vừa nghỉ,
thoải mái.
ở tuổi 76, nhà
văn Nguyễn Tuân còn
thích nhập vào hàng ngũ ít ỏi ấy của những người đi bộ trên đường Hà
Nội. Mỗi
buổi sáng, từ nhà mình bên phía Trần Hưng Đạo, ông làm một cuộc đi lại
loanh
quanh một số cơ quan quen thuộc: Hội Nhà văn, nhà xuất bản Tác Phẩm
Mới,
báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Văn học... Những bước ông đi
ung dung
chậm rãi; quần áo ông nghiêm ngắn, chỉnh tề; toàn bộ con người ông trên
hè phố
gợi người ta nhớ một cuộc đời văn học khá thành đạt, tuy không "toà
ngang
dãy dọc" đồ sộ, nhưng tác phẩm viết ra thường có những đường nét riêng
độc
đáo. Người viết văn là một kẻ đi đường không bao giờ mệt mỏi - có lần
Nguyễn
Tuân đã so sánh vậy. Vả chăng, hình ảnh một cuộc hành trình ở đây không
chỉ có
nghĩa bóng, mà còn có thể hiểu theo nghĩa đen của nó. Trước khi có một
tuổi già
ung dung đi lại trên hè phố như thế, gót chân của con người từng trải
ấy đã có
dịp đặt trên hầu hết khắp mọi miền đất nước. Trước Cách mạng, ông từng
là khách
quen của các chuyến tàu xuyên Việt, cứ hứng lên là người lữ hành ấy
xách va ly
đi, và thích đi đâu là dừng lại ở đó: Thanh Hoá, Huế, Hội An v.v... Sau
Cách
mạng, những chuyến lên rừng xuống biển của Nguyễn Tuân càng dày hơn.
Một lần
nào đó, sau khi đặt chân lên một ngọn núi trong dãy Hoàng Liên Sơn, ông
hóm
hỉnh nói đùa với một nhà báo nước ngoài: "Giờ thì ngọn núi đã cao thêm
một
mét vì có tôi ở trên". Một lần khác, ông đi tới Lũng Cú tột bắc. Một
lần
khác nữa, đi một chuyến dọc Cẩm Phả, Cô Tô, Vân Hải, một thứ huyện đảo
"sáu trăm đảo dư"và ông đã xúc động kêu lên: "Chao ôi, thấy như
mình vừa cầm hẳn vào bàn tay của hạnh phúc, một thứ hạnh phúc mà chỉ có
Tổ quốc
tươi đẹp mới ban nổi cho, và đã ban cho ta đúng vào lúc ấy". Hào hứng,
kỳ
thú, có nhiều ấn tượng... không kể với riêng một chuyến nào, mà với mọi
chuyến
đi, Nguyễn Tuân đều có thể bằng lòng mà tự bảo vậy; về phần mình, những
người
đọc, chúng ta cũng có thể mượn luôn mấy chữ ấy để miêu tả cuộc đời của
nhà văn,
một cuộc đời đi dài suốt lịch sử văn học nửa thế kỷ qua.
II
Để nói về những
kẻ sĩ không chịu sống
trong khuôn phép, những trí thức có học mà không chịu ra làm quan,
không để tâm
vào hoạn lộ mà chỉ nhất định lấy cái tài của mình ra trình diện với
đời, trong
xã hội phong kiến, người ta đã có sẵn chữ tài tử, lãng tử. Thường đấy
là những
người có tư cách, không chịu cúi luồn, khinh bạc, ham chơi. Có điều,
cách chơi
của họ rất khác đời. Sự say sưa khi cầm trên tay quân bài lá bạc, hoặc
chén rượu
ngon, đối với họ, không phải là mục đích cuối cùng. Giữa một xã hội
phong kiến
cào bằng nhân cách, trói buộc người ta trong những quy ước tẻ nhạt,
cách chơi
của những bậc tài tử này là lối chơi của kẻ thạo đời, đã đọc đủ sách
thánh hiền
nhưng vẫn chán, đành lấy việc chơi đùa để khẳng định chỗ hơn người và
cả khát
vọng tự do của mình. Chỉ xét trong phạm vi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
người ta
đã thấy nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng ở nước ta trước đây là những
người như
thế nào. Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Chu Mạnh Trinh, Tản
Đà. v.v...
Cuộc chạy tiếp sức của những bậc tài tử này cuối cùng có thêm chàng
Nguyễn. Sở
dĩ Nguyễn Tuân có thể diễn tả thành thục người và cảnh Vang bóng
một thời,
bởi xét trên nhiều phương diện, ông vốn là một tài tử nhà nòi, đã sống
thật
chín, thật kỹ cái nếp sống phong kiến trái mùa kia, tức bản thân ông là
một
kiểu người vang bóng. Thận trọng và tinh tế, hay nghĩ về đời nhưng lại
khinh
bạc quay mặt đi vì biết không làm sao xoay chuyển được cuộc đời, ham
tìm những
cái đẹp tao nhã, sẵn sàng bạn bầu cùng một ánh trăng suông, một nhành
hoa lạ...
, những đặc tính ấy của Nguyễn Tuân thật ra là một sự thừa kế có phần
tự nguyện
nhưng cũng có phần bất đắc dĩ từ nhiều bậc tiến bối. Ông sống trong
những cung
cách sống xưa một cách tự nhiên, cứ để cho nó tha hồ "hành" mình và
tự nó ngấm vào mình lúc nào không biết. Vào cái thời mà Nguyễn Tuân lớn
lên,
những năm ba mươi bốn mươi của thế kỷ này, loại người giữ được cái chất
tài tử
ấy đi dần đến chỗ tuyệt chủng, nhưng chính vì thế, còn rơi rớt lại ở
người nào
đó, nó càng bền chắc và nhiều khi phô ra của cái vẻ khá sặc sỡ.
Một lý do nữa
khiến cho cái bản chất
lãng tử kia ở Nguyễn Tuân ngày càng được ông giữ gìn là nó có một vai
trò đặc
biệt giúp ông lập nghiệp. Nó cần cho ông trong đời. Bởi vậy, ông phải
để tâm
chăm chút nó và ông đã làm điều này một cách có ý thức. Gắn bó với quá
khứ
trong khi lịch sử đang sôi nổi nhiều biến động, giữ lấy chất lãng tử tự
do
trong lòng một xã hội thực dụng - ở một đôi người, cách sống ấy nhiều
khi đã
gợi nên cảm tưởng về một cái gì trái khoáy, lạc lõng, y như cảnh "bức
sốt
nhưng mình vẫn áo bông" mà Tú Xương đã tự chế giễu. Nhưng Nguyễn Tuân
không ở vào cái thế bị động đó, bởi ông có một nghề lạ, là nghề viết
văn, viết
báo. Quá trình chuyên môn hoá rất mạnh trong lòng xã hội tư sản không
làm con
người nền nã trong bộ y phục cổ này ngần ngại. Ngược lại, với sự hỗ trợ
của
sách vở và kiến thức, với sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh, ông có
ngay sự
thích ứng tối ưu. Nương theo tình thế để sống, lấy ngay sự gắn bó với
quá khứ
làm chỗ mạnh để chọi với đời, con người ông trở thành một thứ hàng cao
giá mà
xã hội lúc đó không phải là không có yêu cầu (dù chỉ là yêu cầu rất
ít).
Nếu có một thứ nghề
sống, nghề làm
người như cách nói của nhà văn ý Pavese () thì Nguyễn Tuân trước
đây quả
thực đã là một tay nghề có hạng, với nghĩa tốt đẹp của chữ "có nghề"
này.
Từ sau 1945, với
thiên lương và tinh
thần yêu nước sẵn có, Nguyễn Tuân lại nhanh chóng phục thiện, để đứng
vào hàng
ngũ Cách mạng. Con người chủ yếu ở ông, từ nay, là con người cán bộ,
con người
chiến sĩ, nghĩa là thành viên của một tập thể có kỷ luật, tập thể ấy
phấn đấu
cho một lý tưởng nhất định, nên mỗi thành viên trong đó phải làm tất cả
để đóng
góp cho sự nghiệp chung. Người ta đã lưu ý tới khá nhiều những rơi rớt
của con
người cũ ở Nguyễn Tuân. Nhưng phải công bằng mà nhận là những sở trường
cũ, khi
được ông khai thác chính xác, lại giúp cho công việc của ông rất nhiều.
Như sự
lịch lãm và những hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực đời sống, những yếu
tố ấy
đã là những võ khí tốt, khiến cho người chiến sĩ văn nghệ Nguyễn Tuân
có được
những chiến công phải nói là sáng chói. Sự độc đáo của Nguyễn Tuân bấy
giờ lại
trở nên đắc dụng. Đứng về tác dụng phục vụ mà xét, thì những bài viết
về Hà Nội
đánh Mỹ của ông thuộc vào loại mà trừ Nguyễn Tuân, không ai làm nổi. Mà
toàn bộ
sáng tác của tác giả Vang bóng một thời sau 1945 cũng cần được
nhìn nhận
theo một tinh thần như thế.
III
Dù thích hay
không thích phong cách
riêng của Nguyễn Tuân thì những người nghiên cứu văn chương ông thường
vẫn nhấn
mạnh đây là ngòi bút hết lòng với nghề và trải qua nhiều khổ hạnh trong
việc
rèn nghề. Vào cái thời mà các tài tử, lãng tử đã nói ở
trên còn
đang là bộ phận chủ yếu trong lực lượng sáng tác văn học, dĩ nhiên, ở
ta chưa
có các nhà văn chuyên nghiệp, người làm văn làm thơ lúc ấy không ai
sống bằng
ngòi bút, chẳng qua nhàn rỗi thì làm, nên việc rèn luyện tay nghề mới
là một
thú vui mà chưa phải là một bức bách không có không được. Từ đầu thế kỷ
trở đi,
số người sống trực tiếp bằng ngòi bút bắt đầu xuất hiện, song dẫu sao
vẫn là
nghề mới, lại được tiếng là nghề tự do, nên nhiều người đến với nghề
còn tuỳ
tiện, ỷ tài mà viết, viết không ai in thì bỏ tiền túi ra tự in, chán, ế
hàng,
thì cuốn gói, sang làm nghề khác; những người biết sống chết với nghề,
vừa viết
vừa tích luỹ để nâng cao tay nghề và nói chung có một quan niệm nghiêm
chỉnh về
nghề nghiệp, còn là rất ít.
Không những luôn
luôn phải được tính
tới trong đám ngoại lệ ít ỏi này, mà Nguyễn Tuân vẫn còn là một mẫu mực
tiêu
biểu của loại nhà văn chuyên nghiệp. Với ông, nghề văn có được ý nghĩa
của một thứ
nghề có căn có cốt; muốn làm nghề đó chỉ có năng khiếu và say mê không
đủ, mà
người ta còn phải khổ công học hành để tự làm giàu mãi lên, vì biết sự
hoàn
thiện của nghề là vô cùng vô tận. Chẳng hạn riêng về việc đọc. Nguyễn
Tuân thường
nói tới loại người có "dạ dày" sư tử, cái gì cũng ăn và cũng tiêu hoá
sạch. Những người viết văn, theo ông, cũng phải có một thứ dạ dày như
vậy. Ai
cũng biết sức đọc của ông thật là đáng kể, ngày nào không đọc được một
ít thường
bứt rứt trong người. Ông đọc và ông tìm cách thu hút tất cả lên trang
viết. ấy
là chưa tính những phút cặm cụi trước trang giấy trắng viết, sửa chữa,
thêm
bớt, viết lại, cốt sao không thể viết hơn được nữa mới thôi. Có điều,
khi đã có
được sự hướng dẫn của một mỹ cảm tốt, sự khổ hạnh ở đây không bao giờ
đồng
nghĩa với lối hùng hục kéo cày của những ngòi bút bất tài, mà vẫn có
chút gì đó
vui vẻ thanh thoát và trong những trường hợp thành công, tác phẩm có
cái tự
nhiên như hoá công ban cho vậy. Một tinh thần làm nghề tận tuỵ đã ngưng
kết
trong nó toàn bộ bản lĩnh làm người mà một nhà văn như Nguyễn Tuân vốn
có. ở
chỗ này, chúng ta có thể liên hệ tới một nhận xét của nhà văn Xô viết
L.
Léonov:
"Khi nói tới
con người, tôi cho
rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói,
tôi thích
những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách
nhìn
đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó là một chuyện rất
thú vị.
Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại".
Chính Nguyễn Tuân
cũng hiểu nghề nghiệp
một cách sâu sắc và hướng cuộc đời mình vào chỗ gắn bó hết lòng với
nghề như
vậy. Sự liên hệ của ông với thời đại theo nghĩa thông thường vốn được
tiếng là
mỏng mảnh, sơ sài, nhưng nếu hiểu theo nghĩa mà Léonov nêu ở đây, đó
lại là một
sợi dây bền chắc. Sự ham đi, ham quan sát được nâng lên thành bệnh "xê
dịch" ở ông, sự trăn trở trong việc dùng chữ đặt câu ở ông... tất cả
những
thói quen ấy có vẻ đẹp riêng và sự cần thiết không có không được. Nếu
hiểu sự
khinh bạc lộ liễu của Nguyễn Tuân trước Cách mạng chẳng qua cũng là một
cách
nhà văn mài sắc mình để làm nghề cho thật đắt, chúng ta sẽ không quá
thành kiến
với nó, và có thể hiểu tại sao nó lại tồn tại đồng thời với những phẩm
chất ngược
lại, như tinh thần phục thiện và một tấm lòng biết thông cảm. Chẳng
phải từ sau
Cách mạng, khi không còn thật cần thiết cho nghề nữa, thói quen khinh
bạc đó ở
ông đã được gột rửa rất nhiều? !
Có đi có tới,
có tìm có thấy, có gõ
thì có mở cho, ở cái đầu cùng
của sự hết lòng làm nghề, nhập thân với nghề, người ta còn bắt gặp
những khi
Nguyễn Tuân như mê đi trong ma lực của ngôn ngữ, ngòi bút như bị ốp
đồng để rồi
viết ra những áng văn rờn rợn một thứ chất kỳ quái. Trước Cách mạng,
cộng với
những bế tắc trong tìm tòi nghệ thuật, nhũng giây phút tự mê hoặc này
đã làm nảy
sinh trong ông những trang "yêu ngôn’, như Xác Ngọc Lam, Đói roi,
Rượu
bệnh và đỉnh cao là Chùa Đàn. Sau Cách mạng, với một liều
lượng ít
ỏi hơn, lại được sự kiểm soát của một lý trí tỉnh táo, những thoáng
xuất thần ở
ông thỉnh thoảng vẫn có, song thường dễ chấp nhận. Đó là, chẳng hạn,
trong Sông
Đà, những trang miêu tả ngọn núi Lai Châu, cuộc đời oan nghiệt của
các cô
xoè, hoặc khung cảnh con sông Đà chảy giữa đôi bờ tiền sử. Trong khi
chờ đợi
một sự nghiên cứu đầy đủ hơn về lối viết này của Nguyễn Tuân, điều
chúng ta có
thể nói ngay ở đây: thật ra, cách viết đó không phải một trường hợp
hiếm hoi,
một căn bệnh chỉ ông mới có. Trong nhiều sáng tác của các nhà văn hiện
thực
Đông Tây, người ta vẫn thấy các tác giả nói tới sự thăng hoa của nghề
nghiệp;
vào những phút xuất thần như vậy, sản phẩm mà người nghệ sĩ tạo ra là
tiếng đàn
có ma, những bức tranh lung linh như cảnh thật và những bài thơ thuộc
loại
"thi trung hữu quỉ" (chẳng hạn điều này đã được nói tới trong tiểu
thuyết Kiệt tác vô hình của Balzac hay trong truyện ngắn Cây
vĩ cầm
của Rotsin của Tsékhov v.v... ). Gần với chúng ta hơn, mới đây
thôi, đầu
1986, nhà văn Nguyễn Khải cũng viết rất hay về hiện tượng kỳ lạ này:
"Các cụ thường
nói: nghề dạy
nghề, làm mãi một nghề, làm cho say mê, cho tận tuỵ cho tới tột cùng
thì rồi
cũng có ngày đạt tới cái thần của nghề. Làm nghề gì cũng thế, đã đạt
đến cái
thần của nó tức là đã phá bỏ được mọi điều ràng buộc, là người tự do
hoàn toàn
vì không còn gì có thể ngăn trở giữa mình với cái đích. Viết như chơi
như bời
và văn chương vẫn như mây như sóng, không còn thể loại, không còn chữ
nghĩa,
không còn cả mình với người, riêng với chung, to với nhỏ, cao với thấp,
bi với
hùng. Tất cả đã trở thành một, khêu gợi, lấp lánh, huyền ảo, mỗi lúc
đọc mỗi
khác, mỗi tuổi đọc mỗi khác, như chính nó đã là một hiện tượng tự nhiên
mãi mãi
tồn tại cùng với sự sống "
Từ những nhận xét
loại này, chúng ta dễ
thông cảm hơn với những bột phát của ngòi bút Nguyễn Tuân và cũng trân
trọng
hơn với những tìm tòi chính đáng ở ông.
Cũng cần phải nói
ngay là ở đoạn trích
trên, Nguyễn Khải không chỉ nói riêng tới nghề văn, tuyệt đối hoá nó,
mà bảo
rằng ở bất cứ nghề nào cũng có thể có sự thăng hoa nếu đi tới tột cùng.
Bản
thân Nguyễn Tuân cũng nghĩ như vậy. Với mọi nghề ông đều đề ra yêu cầu
rất cao,
bởi theo ông, nghề nào cũng có chỗ thâm sâu đáng tự hào của nó. Một đầu
sách
nhất của ông mang tên Chuyện nghề in ra đầu 1986. Là người biên
tập đầu
cuốn, sau khi tập hợp bài vở cho tác giả, tôi đặt tạm cho nó một cái
tên ước lệ
là Nói chuyện nghề nghiệp. Theo thói quen hay vặn vẹo chữ nghĩa
của
mình, khi nhìn thấy bốn chữ đó, Nguyễn Tuân lấy bút gạch đi chữ Nói
ở
đầu, chữ nghiệp ở cuối, chỉ để lại hai chữ ở giữa. Cho nó gọn
nhẹ,
Nguyễn Tuân bảo vậy. Và ông nói thêm:
- Thỉnh thoảng đi
với một cán bộ nào
đó, mình mới hỏi: "Ông làm gì? ", "Thưa anh, tôi bên Thanh
niên", "Thưa anh, tôi bên Công đoàn". Mình không hỏi gì nữa, chỉ
nghĩ người kia đã lơ đãng không trả lời đúng vào câu hỏi mình, hay
không có
nghề, chắc lý do sau thì đúng hơn. Bởi chỉ những người không có tự hào
gì về
nghề nghiệp mớí lúc nào cũng chăm chắm nói về cái nơi làm việc của mình
mà thực
ra không biết mình sống ở đấy bằng nghề gì. Lo hành nghề cho lành nghề
đã không
xong, lại còn không nghề ngỗng rõ ràng, bảo đi làm gì cũng được, nghĩ
cũng kỳ
đấy chứ. Mà mình biết, hạng người đó vô khối. Nên ngay trong cái việc
tưởng chỉ
có cảm hứng như viết văn, cũng phải nhấn vào cái chữ nghề cho thiên hạ
thấy!
IV
Tiến một bước nữa
trong việc làm nghề,
con người Nguyễn Tuân còn là con người trò chơi với ý nghĩa hiện đại
của mấy
chữ ấy.
Chúng hải giai
đông tẩu
Đà giang độc
bắc lưu.
Hai câu thơ chữ
Hán ấy không chỉ đáng
làm đề từ cho bài viết ở cuối tập Sông Đà mà lẽ ra, có thể dùng
làm đề
từ cho mọi sáng tác ký tên Nguyễn Tuân và cho toàn bộ cuộc đời con
người đó
nữa. Trong khi mọi con sông khác xuôi sang đông thì sông Đà một mình
ngược lên
hướng bắc, tinh thần của con sông ở đây là tinh thần đi ngược thói
thường, sẵn
sàng phiêu lưu tới những miền chưa ai biết, miễn sao đạt được những
niềm vui
lạ. Chơi là thế! Cũng như chơi là đặt ra quy tắc rồi lại tìm cách phá
bỏ quy
tắc; là kết hợp những cái tưởng như không thể kết hợp được với nhau: là
cảm
giác đóng kịch, cảm giác hội hè; là những hoạt động kèm theo nỗ lực,
rồi từ nỗ
lực mà sinh ra niềm vui và một nhận thức về cuộc sống. Khi bàn về
Picasso, một
nhà nghiên cứu Xô- viết từng đưa ra một khái quát: "Con người nói
chung,
con người hiện đại nói riêng, không chỉ là homo sapiens (con
người trí
tuệ), homo faber (con người làm việc), mà còn là homo
ludens (con
người chơi nghịch). Và đây không chỉ là mặt yếu mà còn là sức mạnh tinh
thần
của hắn, sự đảm bảo cho tự do của hắn". Một khái quát như thế, không
chỉ
đúng với Picasso mà còn đúng với nhiều nhân vật lớn trong nghệ thuật
thế kỷ XX,
như Charlie Chaplin, Stravinsky. Chúng tôi nghĩ rằng ít nhiều ở Nguyễn
Tuân,
cái chất con người trò chơi đó, cũng có. Viết chữ đẹp và giỏi cầm trống
trong
những khi đi hát ả đào, thạo về tranh, về tượng, biết nhiều về kỹ thuật
sân
khấu và kỹ thuật điện ảnh, ông sống nghiêm chỉnh mà lại như đang dễ
dàng đùa
bỡn với đời, đấy là một lẽ. Riêng trong việc viết lách, hầu như không
bao giờ
ông muốn đi theo cái nếp bình thường, mà cứ luôn luôn muốn tạo một ấn
tượng
khác lạ. ở chỗ người ta quen dùng chữ Hán, ông tìm bằng được một chữ
nôm cùng nghĩa,
để rồi những khi khác, người ta chỉ hạ những chữ thông thường, thì ông
trương
lên những chữ thật hiếm gặp, những chữ gốc Hán mà phải thuộc loại thông
thái
bặt thiệp lắm mới biết dùng. Ông không nghiêng hẳn về một lối viết nào,
khi
giản dị, thì giản dị không ai bằng mà khi cầu kỳ, thì cũng cầu kỳ không
ai
bằng. Thế thì bản sắc của ông ở đâu? Thưa, ở chính lối ham chơi kia,
lối ham
chơi như là sẵn sàng từ bỏ mình để đóng sang những vai khác, không phải
là
mình, càng lạ càng thú. Một ví dụ: Đọc văn cũng như tiếp xúc riêng với
Nguyễn
Tuân, người ta biết rằng ông ghét cay ghét đắng việc buôn bán và ông
từng định
nghĩa nghệ thuật là một công việc: "mà những con buôn quen sống với đổi
chác hàng họ và buôn Tần bán Sở đều gọi là vô ích". Nhưng thỉnh thoảng
vai
một người bán hàng vẫn len đến, mời gọi con người thích tìm những cảm
giác lạ
ấy. Lần đầu tiên đọc cái tít bài ký của Nguyễn Tuân trên một số báo Văn
nghệ:
Tôi bán năm cành hoa tết, tôi hơi ngờ ngợ, sau mới hiểu ra trò
nghịch của
ông già và tự cắt nghĩa được rằng tại sao, báo chí vẫn muồn mời ông
viết ít
dòng cho các số Tết. Có một lần, ông giải thích về một cái bìa mà ông
đề nghị
hoạ sĩ làm cho một cuốn sách:
- Cuốn sách chỉ
có nhan đề là ký,
ắt chữ ký phải đậm. Và trong hai chữ tên tác giả, mình muốn lèo thêm
một sự
nhấn mạnh nữa là cho chữ Tuân nó cũng đậm ra. Thế là nhìn vào bìa thật
nhanh người
ta thấy hai chữ Ký và Tuân, người ta đọc ký Tuân, ký Tuân như
khi ra
chợ, người ta hỏi mua ký thịt bò, ký đường vậy.
Ai đã quen đọc
văn Nguyễn Tuân đều biết
đấy là lối chơi chữ nhiều khi đã thành một cái tật ở tác giả. Tuy
nhiên, khi
nhà văn đã lấy tên tuổi mình ra mà đùa như thế này, thì có nghĩa con
người trò
chơi đã thành một thứ bản thể thứ hai nơi ông. Lại nhớ đến Nguyễn Công
Trứ tương
truyền về già còn thích bận áo lụa xanh, quần vải đỏ, đi đâu đủng đỉnh
trên lưng
con bò vàng. Lại nhớ Tú Xương với những lời ỡm ờ khi đi hát mất ô và
lời tự
giễu "ở phố hàng Nâu có phỗng sành- Mắt thời thao láo mặt thời xanh".
Lại nhớ Tản Đà, đề ở Khối tình con thứ nhất:
Chữ nghĩa Tây
Tàu trót dở dang
Nôm na phá
nghiệp kiếm ăn xoàng
...
Chẳng lề,
chẳng lối, cũng văn chương
Còn non, còn
nước, còn trăng gió
Còn có thơ ca
bán phố phường.
Những người như
thế, già từ khi còn ít
tuổi, và cho đến già, cũng vẫn còn một đứa trẻ con trong lòng, cho nên
việc ham
chơi đối với họ, cũng là sự thường. Trong một tài liệu viết về tâm lý
học, tôi
đọc được những nhận xét:
"Chơi là một cách
để trẻ tự thích
ứng, tự giáo dục".
"Trò chơi chính
là một hình thức
hoạt động tự do nhất và cũng là tự nhiên nhất của trẻ".
"Trong trò chơi,
trẻ có dịp phát
biểu suy nghĩ của mình".
"Trò chơi trước
hết là một sự tự
thực hiện; đứa trẻ không bộc lộ cái gì khác ngoài chính mình".
...
Lẽ nào những nhận
xét ấy không thể áp
dụng cho "đám trẻ" kỳ lạ này, những nghệ sĩ lớn trong lịch sử nghệ
thuật mà chúng ta hết lòng yêu và kính.
V
Nếu như trong văn
học sau 1945, có một
nhà văn nào tạo ra chung quanh tên tuổi mình cả một huyền thoại, thì
người đó
chính là Nguyễn Tuân. Trong khoảng hơn hai chục năm cuối đời từng dòng
chữ ông
viết được soi ngắm và từng cử chỉ lời nói của ông được đồn đại rộng
rãi. Luôn
luôn những người trong giới văn học đã bàn về ông và đến hôm nay, những
lời bàn
ấy cũng chưa ngớt. Ghi lại những tiếng dội của cuộc đời và văn chương
Nguyễn
Tuân trong lòng người khác, tưởng cũng là một cách để hiểu con người
ông cũng
như không khí văn học một thời:
- Nguyễn Tuân rất
độc đáo và tạo ra
nhiều bất ngờ ngay trong cách sống hàng ngày. Người quen được người
khác chiều
và ít khi chiều ai, rồi quá đáng, rồi cực đoan, cái đó có cả. Nhưng sao
vẫn có
nhiều người ngưỡng mộ ông? Hình như ngoài chuyện tài năng người ta vẫn
nhận ở
con nguời đó có cái thực rất đáng trọng.
Còn như đến gần
Nguyễn Tuân ấy ư?
Chuyện ấy đôi khi ngại thật. Trong người ông cùng lúc có cả sức hút lẫn
sức đẩy
người khác, mà đẩy cũng mạnh lắm.
- Phải công nhận
là Nguyễn Tuân có cái
sòng phẳng của ông, ông không giấu cái tật mê thanh, mê sắc hồi xưa,
song những
duyên nợ dềnh dàng ấy, nay cái gì thấy cần phải dẹp đi, là tự ông dẹp
đi liền.
Một chuyện như thế này, không phải tự mồm Nguyễn Tuân nói ra, thì ai mà
biết được.
Đầu tháng 10- 1954, ông có chân trong bộ phận cán bộ về tiếp quản thủ
đô. Địa
điểm tập kết là Hạ Hồi, Hà Đông. Trong khi những anh em khác chờ xe ô
tô thì
Nguyễn Tuân mượn bằng được chiếc xe đạp của ông chủ nhà trọ để đạp về
Hà Nội.
Về đến Bờ Hồ ông đang đi quanh quẩn thì nghe có tiếng chào: "Kìa, ông
đã
về". Thì ra một bà chủ cô đầu. Bà hẹn ông đến chơi. Nhưng từ bấy đến
khi
ông qua đời, cái hẹn ấy ông vẫn chưa trả.
- Người nặng căn
như thế, mà khi đi
theo cách mạng, chuyển cũng đã ghê đấy chứ. Bởi văn chương Nguyễn Tuân
vốn ghi
lại trung thực những gì mà ông đã sống, nên đọc Tuỳ bút kháng chiến
đã
có thể thấy ông đã đi sát mặt trận thế nào. Trong Giữa hai xuân,
ông
từng nói qua về cảm giác lần đầu cầm quả lựu đạn. Và đây, một đoạn
trong Lửa
sinh nhật: "Tôi ngóng giờ khai hoả. Nắm cơm chiều qua dắt theo thắt
lưng,
suốt một đêm hành quân giờ đã thiu. Nhưng thôi, cứ bỏ vào mồm. Tôi gối
lên đàn
kiến càng, cố nhắm mắt. Tai áp sát đất, càng nghe rõ tiếng dội của
thuổng đào
công sự".
- Ngay đoạn sau
này đi viết Sông Đà
lại chả ghê à. Hồi ấy từ Quỳnh Nhai sang Than Uyên đâu đã có đường cái,
ông
phải xin hẳn một con ngựa và một dân quân, cứ theo đường mòn mà đi, ba
ngày
không gặp người đi ngược. Với hoàn cảnh bấy giờ, đi và viết Sông Đà
phải
nói là một chiến công.
- Kể đi thôi thì
còn nhiều người khác
đi bạo hơn ông, nhưng đây là việc đi của nhà văn, nó phải kèm vào việc
viết. Sở
dĩ Nguyễn Tuân viết được về Tây Bắc vì ông biết nhìn ra ở đấy vẻ đẹp;
ông xem
Tây Bắc là một công trình nghệ thuật. Ngay viết về đường sá, ông cũng
lấy tiêu
chuẩn một cái gì đang hình thành ra xét.
- Cũng trên
phương diện nhìn nhận sự
khổ hạnh ở Nguyễn Tuân, tôi thấy phải nói đây là một trong số ít nhà
văn ở ta
nhạy cảm về hình thức và có được cách hiểu toàn diện về bản chất cái
đẹp trong
hình thức nghệ thuật. Đọc văn Nguyễn Tuân luôn luôn cảm thấy hình thức
đứng ra
thách thức với nội dung, giữa hình thức với nội dung vừa sóng đôi nhau,
vừa
đuổi bắt nhau. Luôn luôn cảm thấy ông viết rất đặc biệt, mình không thể
nào bắt
chước nổi.
Nhưng nhiều khi
Nguyễn Tuân cũng đi quá
đà, dày vò chữ quá, không được tự nhiên như chính ông muốn. Cũng là cái
tật như
trong cuộc đời hàng ngày của ông.
- Lại nói chuyện
con người Nguyễn Tuân ư?
Những ai từng được làm quen với sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội trước Cách
mạng đều
biết ông rất có duyên với nghề diễn kịch; dù ông chỉ đóng những vai
phụ, nhưng
thông thường, đó là những vai phụ khó quên. Từ chuyện sân khấu, tôi
muốn liên
hệ sang chuyện đời. Hiểu nhập vai theo một nghĩa tốt đẹp, thì trong
cuộc sống
hàng ngày, Nguyễn Tuân cũng rất nhập vai, tức là đã định làm cái gì thì
làm
bằng được, làm đến cùng. Chẳng hạn như khi cần vận động quần chúng,
người cán
bộ ấy cũng giỏi lắm. Đã ai từng đi với ông Tuân trong một chuyến công
tác xuống
một đơn vị nào chưa? Chưa hả. Các anh có thể tưởng tượng được không,
khi nói trước
công chúng, đấy là một nhà thuyết giáo thực thụ. Thành thử, trong
Nguyễn Tuân,
bên cạnh một người lãng tử cuối mùa, một người làm nghề tự do rất cao
tay nghề,
như các anh đã nói, còn thấy có một chính uỷ nữa. Lưu ý tới điều đó,
xem nó như
một yếu tố chủ đạo, ta sẽ cắt nghĩa được Nguyễn Tuân sau Cách mạng.
VI
ở trên, khi cần
phác ra một ít nét đại
thể về con người Nguyễn Tuân, chúng ta đã nhớ lại các hình ảnh mà ông
thích
thú: Nhà văn như kẻ đi đường không bao giờ mệt mỏi. Nhưng chữ đi
ở
Nguyễn Tuân vốn không chỉ bó hẹp vào sự di chuyển trong không gian mà
có nghĩa
rất rộng: "Ngay cả lúc anh đăm đăm ngồi trứoc trang giấy trắng lạnh
phau
giữa phòng văn, anh cũng vẫn là một con người đang đi. Đi vào cái đêm
làm việc
của mình. Đi cho đến chỗ tận cùng của đêm mình". Cái dạng đi này của
Nguyễn Tuân còn ít được nói tới, nhưng thật ra, chính nó lại là khía
cạnh quan
trọng bậc nhất trong con người Nguyễn Tuân mà những người yêu mến văn
ông cần
biết.
Trước 1945, một
nhà thơ có quen Nguyễn
Tuân đã tả ông là một người sống cẩn thận, đủng đỉnh, cử chỉ nhỏ nhẹ,
đàng
hoàng, làm gì cũng đắn đo và có cái vẻ cặm cụi khác hẳn với những trò
chơi ngông
khinh bạc mà chúng ta vẫn nghe kể trong văn ông. Thói quen làm việc ấy
vẫn còn
lại ở Nguyễn Tuân cho đến cuối đời. Sau những chuyến đi rất dữ: đi
dọc, đi
ngang, đi lên, đi xuống, đường đi nước bước như kẻ bàn cờ trên sông hồ
trăng nước.
. nhà văn trở về căn buồng của mình, ở đó, ông đọc, ông ghi chép,
ông lập
hồ sơ cho những tài liệu cần thiết, nhất là ông suy nghĩ và làm công
việc cuối
cùng của nghề viết là cho tác phẩm hiện lên trên trang giấy. Nguyễn
Tuân viết
như thế nào? Theo lời kể của những người thân của nhà văn, thì ngồi đâu
ông
cũng viết được, không cần bàn. Nhưng tâm linh ông thì tôi tưởng, phải
nói là
một sự "nhập thiền" hoàn toàn, không thể khác được. Những ai đó có
dịp đến thăm Nguyễn Tuân ở nhà riêng đều biết buồng văn của ông là cả
một kho
chứa ở đó ngổn ngang sách vở cổ kim đông tây, từ những cuốn sử ký, địa
dư, sách
du ký, sách dạy nghề, in từ những năm nảo năm nào, tới những tờ báo về
nghệ
thuật hoa viên rồi những bản tin nhanh và tài liệu in rônêô nào đó nói
về hoạt
động của Việt kiều ở nước ngoài mà bạn đọc xa gần mới gửi cho ông. Rồi
tượng,
an- bom và các loại sách kỷ niệm sau các chuyến đi nước ngoài. Rồi
chính ông
nữa, ấy là, ngoài những ấn bản in rải rác ở trong nước và nước ngoài
nửa thế kỷ
nay, còn không ít hình ảnh Nguyễn Tuân trong quá khứ, Nguyễn Tuân khi
đóng
phim, đóng kịch, Nguyễn Tuân trong ảnh của Trần Văn Lưu, Hoàng Kim
Đáng, Nguyễn
Tuân trong nét vẽ của những hoạ sĩ từng giao du với ông và đến thăm
ông, những
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Trọng Kiệm, Nguyễn Trung v.v. . và v.v...
Ngồi viết
giữa một cảnh tượng văn hoá như thế, là cả một sự thách thức. Sự cặm
cụi của
Nguyễn Tuân, đúng hơn, sự đơn độc của ông lúc này mới có được cái ý
nghĩa mà nó
phải có: ông muốn đối mặt với tất cả, ông muốn thêm vào một cái gì xứng
đáng
với tinh hoa văn hoá đang vây bủa quanh ông và đã là một phần sự sống
trong
ông.
Giả kể có đoán
khi viết, Nguyễn Tuân thường
thắp lên mấy nén hương, chắc cũng chả ai ngạc nhiên!
Giữa một cuộc
sống trần tục xô bồ, trước
sau ông vẫn là một nhà văn xem trọng sự thiêng liêng nghề nghiệp và
sống với nó
thành kính thật sự.
Nhìn lại cả đời
văn Nguyễn Tuân, chúng
ta thấy gì? Chúng ta nghĩ đến sự công bằng. Ai đối xử với nghề nghiệp
ra sao,
sẽ được nghề nghiệp đối xử lại như vậy. Cố nhiên, rộng hơn câu chuyện
tác phẩm
còn có câu chuyện về chính con người đã tạo ra các tác phẩm này nữa.
Trong sự
độc đáo của mình, cuộc đời Nguyễn Tuân có hấp dẫn chúng ta, nhưng suy
cho cùng,
đó không phải là lối nêu gương để chung quanh bắt chước. Không, Nguyễn
Tuân
không thể làm thế. Với tất cả cái hay cái dở, cái tài cái tật vốn có,
lời kêu
gọi của ông giản dị hơn: Mỗi người hãy sống đúng với bản sắc của mình.
Thật vậy, sau khi nói rằng sự
làm người
là nghiêm chỉnh, rằng chúng ta phải sống đúng sống tốt, như cái phần
lương tri
trong chúng ta vẫn yêu cầu, cuộc đời Nguyễn Tuân như còn muốn nhắn nhủ
thêm một
điều này nữa: muốn hay không muốn mỗi chúng ta đều là một thực thể đơn
nhất,
riêng biệt, không giống một ai khác và không ai thay thế nổi. Khi điều
đó không
phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai mà là một cái gì tất yếu "không thể
sửa
chữa" thì tại sao chúng ta không tạm bằng lòng với mình, yên tâm là
mình,
nó là điều để ta tự vệ tức tránh bớt được những dằn vặt vô ích, mà biết
đâu đó
chẳng phải là một cách giúp ta để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng đồng
loại và
do đó trở nên có ích hơn hết?
LMH giới thiệu