tế
hanh,
lời con
đường quê
Nhà Tế Hanh ở bên Nguyễn Thượng Hiền mà
cơ quan tôi ở ngay bên Nguyễn Du, từ nơi nọ qua nơi kia, đi bộ chỉ mất
dăm bảy
phút. Bởi vậy gần như sáng nào, từ bên nhà mình, Tế Hanh cũng rẽ qua
chỗ chúng
tôi một lúc. Mà cái cách đến chơi của ông cũng lạ. Có khi, anh em đang
họp đông
đủ, Tế Hanh chỉ vẫy một người nào đó ra thầm thì một câu rồi đi. Tôi
hỏi người
bạn kia "Có việc gì quan trọng thế? " "Cũng chẳng có gì đặc biệt
cả, nhưng phải hỏi cho được một người cụ mới yên tâm". Lại như khi
chúng
tôi đang ngồi chả làm gì, chỉ chờ người đến góp chuyện. Được một bậc
đàn anh như
Tế Hanh cùng tham gia thì hay quá rồi còn gì! Nhưng trái với sự chờ đón
của mọi
người, nét mặt Tế Hanh vẫn ra chiều ngơ ngác, chả ra vẻ hứng thú đón
chuyện mọi
người, mà cũng chả hứa hẹn rằng có một câu chuyện rất hay, sắp kể. Hình
như con
người này không có thói quen phải đối diện với cả một đám đông cử toạ.
Có mặt
giữa mọi người mà ông vẫn mải mê chạy theo những ý nghĩ của mình, đầu
óc để tận
đâu đâu, chỉ thỉnh thoảng chợt nhớ ra một điều gì đó ông vỗ vai thầm
thì vào
tai người ngồi cạnh, rồi lại ngơ ngác suy nghĩ tiếp, hoặc xách túi lẳng
lặng
chia tay anh em trước. Chắc chắn đó không phải là người của những cuộc
đối
thoại say sưa! Mà trước tiên, đó càng không phải là người của những ý
tưởng
nồng nhiệt, nói ra có thể làm đảo lộn đầu óc, hoặc gây ấn tượng thật
đậm với
những người chung quanh! Thành thử ngay khi Tế Hanh ngồi giữa đám đông,
người
ta vẫn thấy ở ông nhu cầu trao đổi trò chuyện một hai câu với một người
nào đó
thật ra là một biến tướng của nhu cầu độc thoại, kết quả sự đắm chìm
triền miên
của ông vào bản thân mình ngay giữa cuộc sống hàng ngày. Có điều, khi
nhớ lại
những nhận xét bất chợt của Tế Hanh lại được ông nói ra một cách khó
khăn, nói
kiểu nhát gừng, hoặc lụn vụn dang dở - chúng tôi vẫn cảm thấy thường
khi đấy là
những ý kiến độc đáo, của một người có gu, tinh tế và đáng ghi nhớ nếu
không
hơn thì cũng không kém các ý kiến được nói theo kiểu hùng biện và đầy
sức
thuyết phục. ở con người này, sự đơn điệu tẻ nhạt và sự sâu sắc đôi khi
lẫn vào
nhau, tồn tại cạnh nhau, xuất hiện cùng nhau tới mức dễ lầm lẫn, song
khi nghĩ
lại, người ta vẫn thấy có sự phân biệt rành rẽ.
Từ lối nói chuyện
hàng ngày như thế
này, tôi nghĩ đến cả đời thơ đời sáng tác của Tế Hanh. Trong thơ Việt
Nam tiền
chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử
hoặc
Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân
Diệu.
Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn ngào từng được giải
thưởng Tự
Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ
mỏng
mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm
hồn
nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố
Hữu, Chế
Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh. Tô Hoài có lần kể
với tôi:
Có một tay làm văn hoá khá lâu ở Đại sứ quán nọ mới hỏi thăm mình về
một nhà
thơ đáng yêu lắm mà hắn quên mất tên. "Ông ta là loại người như thế
nào?
" "Dáng đi chậm rãi, tay quờ quờ như là đang đi men tường thế
này" "Thế thì ông Tế Hanh? " "à, phải rồi, Tế Hanh".
Cái hình ảnh người đi men tường nói ở đây, có lẽ không chỉ đúng với con
người
rù rì lần bước của một Tế Hanh ngoài đời, mà có lẽ, cả một Tế Hanh
trong thơ.
Tế Hanh thỉnh thoảng cũng có những lúc đi đến tận cùng mọi sự việc,
những lúc
bốc lên:
- Cánh buồm
giương to như mảnh hồn
làng
- Cà phê chạy
tới tương lai
- Nông trường
ta rộng mênh mông
Trăng lên
trăng lặn vẫn không ra
ngoài
Nhưng thường trực
hơn, và đúng chất Tế
Hanh hơn là những nhẹ nhõm "nỗi vui nỗi khổ đều qua vội vàng",
những lơ mơ bất định "thân buông theo gió hồn theo mộng", từ
đó, là những lửng lơ, ngơ ngẩn, những hành động vu vơ, và những dừng
lại bất
chợt.
- Những ngày
buồn nhớ lại thấy vui
vui
Những ngày vui
sao bỗng thấy ngùi
ngùi
hoặc:
Tôi đi để mặc
cỏ may
Hai bên bờ
biếc ghim dày quần tôi
Dừng chân
trước một quả đồi
Gỡ từng sợi
cỏ, tôi ngồi nhìn thu
Chế Lan Viên,
trong lời bạt viết cho Tuyển
tập Tế Hanh (1987) từng nói tới cái tạng riêng, cái gu riêng nó là
nét độc
đáo của Tế Hanh bên cạnh các nhà thơ khác:
"Dù anh viết khá
hay về biển, biển
trong bão dữ, nghĩ đến anh tôi vẫn nghĩ đến cái êm đềm của những con
sông. Chim
anh viết hay, không phải chim hải âu mà là chim én. Anh có thể tả mùa
hè rực rỡ
nhưng hình như anh xúc động nhất mùa thu. Anh không tả giỏi mặt trời
bằng tả
vầng trăng (... ) Mặt trời của anh khi nào chói quá thì anh kìm nó lại
bằng một
dòng sông hay những bóng cây xanh. Và cây xanh thì có lẽ anh yêu nó
hơn, khi ở
trong vườn (... ) hơn là ở những khu rừng(... ) Nếu vào trong khu vườn,
Xuân
Diệu sẽ ngoạm vào cả các trái hồng lẫn các trái xanh, Huy Cận lắng nghe
chất
nhựa trên cành, người nào đó hì hục tìm thơ trong bộ rễ âm thầm, còn
với Hanh
thì màu xanh của lá cũng đủ cho anh hạnh phúc. "
ở đây không phải
vấn đề tính cân tính
lạng khen chê thuần tuý, ở đây chỉ có chuyện chúng ta, những người đọc
và các
đồng nghiệp, phải chấp nhận một lối sống, một phong cách. Cái phong
cách ở Tế
Hanh không gắt lên như một Nguyễn Tuân trong văn xuôi, một Hàn Mặc Tử
trong
thơ, song vẫn là một phong cách tự nó đã hoàn chỉnh và ổn định.
II
Mảnh đất miền
Trung Trung Bộ từ Quảng
Nam đến Bình Định là một trong những cái nôi lớn của nền thơ Việt Nam
hiện đại,
nơi đã sinh ra Quách Tấn và Chế Lan Viên, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử...
Quê hương
Quảng Ngãi của Tế Hanh nằm ở khoảng giữa của cái nôi đó, trong số các
đồng hương
của ông, có những thi sĩ cũng rất độc đáo như Bích Khê. Có điều, cũng
như mọi
người khi lớn lên và có sự tiếp nhận ảnh hưởng thơ, ông không dừng lại
ở tỉnh
nhà mà có lúc ra Huế, học với Huy Cận, có lúc sát cánh trong Việt Minh
Trung
Bộ, bên cạnh Tố Hữu, Hải Triều, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên... Sự đưa
đẩy của
lịch sử đã khiến cho hầu hết những người thuộc lứa tuổi ông thường có
được
những từng trải dày dạn.
Ví dụ nếu như
trong kháng chiến chống
Pháp, cực nam Trung bộ đã nổi tiếng như một mảnh đất thử thách tức một
thứ
chiến trường ác liệt nhất của miền Trung, thì trong số ít ỏi những đoàn
văn
nghệ sĩ đi vào cực nam những năm ấy, có Tế Hanh (trở về ông viết bài
thơ khá
nhất của ông hồi ấy, bài Người đàn bà Ninh Thuận).
Lại ví như, trong
thời gian chống Mỹ
không đi B. dài như Nguyễn Văn Bổng, song đến đầu 1975, tức là
một thời
điểm cũng khá khó khăn, Tế Hanh lại có mặt trong một đoàn văn nghệ sĩ,
đi dọc
Trường Sơn, cho mãi tới chiến trường Nam Bộ.
ấy là không kể
bao nhiêu thử thách đã
đến, từ thời gian chia sẻ bom đạn với Hà Nội, Nam Định, những ngày ăn
mì sợi,
mua thịt theo phiếu như mọi người dân thường tới những đợt đấu tranh tư
tưởng
trong văn nghệ.
Tuy nhiên, hình
như con người Tế Hanh
có vì những sự tôi rèn đó mà thay đổi thì cũng là rất kín đáo. Trước
sau, ông
vẫn giữ nguyên cái tính cách ngơ ngơ ngác ngác và cái xúc động hồn
nhiên kiểu
học trò của mình – ít ra là ở bề ngoài.
Về mặt chức vụ mà
xét, trong nhiều năm,
Tế Hanh từng là Uỷ viên Ban chấp hành hoặc Thường vụ Hội Nhà văn (như
Ban thư
ký về sau), từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của Hội, từng có
chân trong
Ban phụ trách nhà xuất bản Văn học những năm nó còn thuộc về
Hội. Nhưng
ông đã dễ dàng thoát ra khỏi các ràng buộc đó để trở về vị trí một
người lao
động có nghề, một nhà thơ lấy sáng tác làm lẽ tồn tại.
Nói vậy, liệu có
nghĩa là bảo Tế Hanh
hoàn toàn thoát tục, và sống khờ khạo, không biết lo liệu những chuyện
riêng?
Còn nhớ ai đó đốp chát hỏi Tô Hoài: "Người ta bảo anh khôn quá, anh
nghĩ
sao? " "Cậu tính, sống được ở trên đời này, ai chẳng phải có chút
khôn, cái chính là đừng khôn lỏi, lộ liễu, đừng tham quá đến mờ cả mắt
mà
thôi". Cái định lý của Tô Hoài quả là đúng với mọi người, kể cả trường
hợp
Tế Hanh chúng ta đang nói. Khi nghe tôi bảo rằng ông Tế Hanh luôn luôn
ngơ
ngác, mấy đồng nghiệp phũ mồm đã bảo ngay là ngơ ngác làm sao, có cái
gì người
khác có mà ông ấy thiệt thòi không có đâu? Lại có người lặng lẽ bổ sung
một
nhật xét "ấy, nhưng một kinh nghiệm của tôi là muốn biết đời sống văn
nghệ
có gì mới cứ gặp ông Tế Hanh, cái ăng- ten của ông ấy thuộc loại cực
nhạy, nói
nôm na là bố ấy cũng ma xó lắm!". Vâng, các nhận xét ấy đều có lý, mỗi
con
người là một thế giới không cùng, và nói chung là chúng ta sẽ thất
vọng, khi
muốn tìm hiểu quá kỹ về một người nào đó. Song tôi cứ thấy trên đại thể
thì Tế
Hanh - , đó vẫn là một người dễ chịu. Người giữ được cái cốt cách thi
nhân. Người
biết điều. Và người có khôn, thì cũng là khôn kín đáo.
Điều này lại cũng
thấy rõ cả trong sáng
tác. Qua cách sống cách viết của Tế Hanh, có cảm tưởng là ông rất hiểu
cái tạng
mà một nhà thơ mang tên Tế Hanh mang sẵn trong mình, và ông có thể là
không cố
ý, nhưng thật ra đã làm mọi cách, để cái tạng ấy được bền chắc và độc
đáo. Khả
năng sống hoà hợp với mình, hơn nữa khả năng giữ mình thật là mình, chỉ
là
mình, đã chi phối việc làm thơ của Tế Hanh trong mọi khâu từ chọn đề
tài, chọn
cách nói, cho đến sử dụng ngôn ngữ, thể loại. Nhưng trước tiên nó ở cái
điệu
tâm hồn của nhà thơ.
Mặc dù cũng trải
qua đủ mọi khó khăn
vất vả như mọi người đương thời, nhưng ông thích nói về những gì êm ả,
dịu
dàng.
Mặc dù nhận ra đủ
mọi sắc thái gắt đậm,
cùng là những cay chua mặn chát của đời sống, nhưng khi làm thơ, ông
chỉ muốn
viết về những sắc màu tươi tắn những tấm lòng nhân hậu.
Mọi việc ở ông
đôi khi như là tự nhiên
mà nói, tự nhiên mà làm, không cần chủ tâm chủ định, mà cũng không cần
lên gân
lên cốt cố gắng.
Một người như thế
sẽ có những thiệt
thòi riêng, nhưng lại có những may mắn riêng, những niềm vui riêng mà
cái niềm
vui lớn nhất là có thể dồn tất cả nghị lực cho sáng tác, và dễ cảm thấy
là chỉ
ở đấy, mình mới được sống trọn vẹn.
III
Lần đầu tôi được
gặp Tế Hanh là vào đầu
1968, tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ tư. Đại hội khai mạc ở Hội
trường
Ba Đình khá long trọng. Nhưng vì hoàn cảnh thời chiến nên làm việc ở tổ
là chủ
yếu. Đại hội kết thúc bằng một bữa cơm thân mật tổ chức tại khách sạn
Phú Gia
để chiêu đãi các đại biểu. May mắn cho tôi là trong bữa cơm ấy được
ngồi cạnh
hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung và Tế Hanh. Mới gặp tôi lần đầu, nhưng Tế Hanh đã
dành
cho tôi sự tin cậy bằng cách đặt ra một câu hỏi mà tôi nhớ suốt đời.
Câu hỏi đó
như thế này:
- Cậu là nhà phê
bình, cậu hãy cắt
nghĩa thử xem tại sao, nhiều tập thơ mình làm trầy trật mãi không xong,
trong
khi hai tập thơ hay nhất của mình, Nghẹn ngào và Gửi miền
Bắc, những
bài chính chỉ làm trong độ nửa tháng.
Người sáng tác
nào chẳng có lúc run rẩy
cảm thấy tự mình không hiểu được mình. Nhưng ở đây, còn hơn là một bỡ
ngỡ thông
thường, nó là một cật vấn, một ám ảnh: có lẽ sáng tác là một cái gì rất
bí mật,
người ta có thể tìm kiếm hoài mà vẫn không ra lời giải đáp. Và như vậy
thì
thành tựu là cái ta không thể sấn sổ đuổi bắt được, mà hãy cứ làm việc
hết
mình, rồi tự nhiên nó sẽ tìm đến.
Hình như đằng sau
cái câu hỏi về thơ
của riêng mình, Tế Hanh muốn truyền sang người đối thoại một nhận xét
chung và
một tâm trạng chung như vậy.
Kể ra, được thúc
đẩy bởi những cơn say
sưa tập thể, con người ấy thỉnh thoảng cũng có những bốc đồng. Không ai
khác,
chính Tế Hanh có lần tự hào nói về thế hệ tiền chiến: " Bọn tôi, từ
thuở
20- 25 đã làm nên Thơ mới... Rồi bọn tôi thay nhau dẫn đầu trong thơ
viết về
chống Mỹ, cũng như có những bài thơ hay nhất ca ngợi chủ nghĩa xã
hội... "
Bọn tôi, Bọn tôi... những nhận xét có tính chất tổng kết ấy có vẻ
hợp với
Chế Lan Viên. Còn theo tôi nhớ, khẩu khí Tế Hanh thường khác. Khi nhìn
lại thơ
mình, và các đồng nghiệp, nhất là phần thơ mình, Tế Hanh có những rụt
rè đáng
yêu mà cũng là những nghiêm khắc biết điều hơn.
- Gặp em câu
cuối cùng chưa nói
Buổi sớm qua
rồi đã sắp trưa
Góc sân ánh
nắng còn lưu luyến
Dừng lại trên
chùm hoa báo mưa
Đấy là mấy câu
thơ bâng quơ Tế Hanh cho
in trong tập Đi suốt bài ca (1970). Khi thấy tôi ngỏ ý thích,
Tế Hanh
tâm sự:
- Cũng là ngẫu
nhiên viết ra thôi. Ngồi
trên xe vào Vĩnh Linh với cụ Tú Mỡ, cụ chỉ vào một giống hoa bên đường
mà không
ai biết tên, hỏi hoa gì đấy, mình nói buột miệng: chắc là hoa báo mưa.
Nhiều người viết
cứ có thói quen thổi
phồng những băn khoăn tìm tòi cùng là những dằn vặt trước trang giấy
trắng. Nào
tôi đã chủ bụng như thế này, quyết phải sáng tạo như thế kia. Nào lúc
viết, cứ
như có ai ốp đồng vào tay mình, một trạng thái thăng hoa kéo dài, mà
bây giờ có
nằm mơ cũng không lấy lại được nữa! Trong khi vẫn giữ nguyên mọi thành
kính với
sáng tác của bạn bè cũng như của bản thân, song Tế Hanh của tôi - nghĩa
là cái
con người Tế Hanh trong những lần nói chuyện riêng với tôi, mà cũng
chính là
con người Tế Hanh bộc lộ qua một số bài viết - cứ hàm cái ý ngược lại.
Tổng kết
đời mình, ông bảo cũng có những thành công, nhưng nhiều thất bại. Đứng
trước
những bài thơ hay, ông bảo ở mình có cảm giác nước đôi, lúc nghĩ như
mình cũng
viết được, lại có lúc nghĩ mình hoàn toàn bất lực. Và giả sử hiếm hoi
có viết
ra được vài câu có người khen hay thì ông cứ muốn thú nhận với mọi
người là
những dòng thơ ấy, ông đã ngẫu nhiên mà bắt được, chẳng qua là ông gặp
may chứ
không tài cán gì. Với một nụ cười ngượng nghịu ông sẵn sàng thú nhận
với chúng
ta rằng, làm thơ dễ sa đà lắm: "Có một hồi, tôi toàn viết lục bát. Lại
có
có một hồi làm bài nào cũng ra thất ngôn. Nghĩ lại thì chẳng qua mình
quen tay
và nếu không cảnh giác với mình, khéo cứ theo mãi những lối mòn có
sẵn".
Không rõ người khác có tin những lời tâm sự ấy của Tế Hanh, song về
phần tôi,
phải nói là tôi tin, cái chính là vì nó là một cái nhìn phải chăng về
công việc
của giới cầm bút. Nó không dẫn người ta tới sự thần bí hoá sáng tác, mà
cũng
không dẫn tới buông thả, lười biếng. Ngược lại nó yêu cầu người ta luôn
luôn
tỉnh táo đánh giá chính mình và các đồng nghiệp. Và tất cả là dựa trên
một nhận
thức cơ bản: nghề này rất khó.
Cũng nên nói thêm
là bề ngoài có vẻ lơ
mơ vậy, nhưng Tế Hanh thường chịu đọc người khác, và có cách đánh giá
độc lập
về sáng tác của người khác. Thỉnh thoảng có điều gì, cần hỏi về ai, tôi
vẫn tìm
gặp Tế Hanh và thường được ông trả lời bằng những nhận xét ngắn gọn,
trực tiếp.
Những cuộc trò chuyện với Tế Hanh không bao giờ thật hào hứng nhưng
thường khi
vẫn có những khía cạnh hữu ích, lý do là ở chỗ ấy.
IV
Không chỉ trong
việc làm thơ mà còn có
một lĩnh vực nữa ở đó, cái lối sống lối làm việc bất chợt, tuỳ tiện, có
lúc như
là thiểu năng bạc nhược ở Tế Hanh có dịp bộc lộ đầy đủ, đồng thời đằng
sau đó,
ở một tầng sâu hơn, lại là một Tế Hanh có vốn học khá rộng, một con
người có
thói quen làm nghề nghiêm túc, đã tự nguyện làm và muốn làm bằng đuợc
những
việc một người cầm bút phải làm. Đó là câu chuyện của Tế Hanh khi đi
dịch, và
rộng hơn, việc tiếp xúc của ông với văn hoá nước ngoài.
Cũng như Xuân
Diệu, Nguyễn Xuân Sanh,
Chế Lan Viên, Huy Cận... Tế Hanh thuộc lớp các nhà thơ được đào tạo kỹ
ở nhà trường
Pháp thuộc. Đối với các ông, cái vốn ngoại ngữ mà các thế hệ đến sau
thường mơ ước,
cái vốn ấy được gây dựng một cách tự nhiên; tiếng Pháp ở các ông gần
như tiếng
mẹ đẻ. Thành thử dịch thơ đối với mỗi người thường là một việc không
đòi hỏi
quá nhiều gắng gỏi.
Nhưng mỗi người
trong họ lại có cái
cách dịch và đọc riêng.
Xuân Diệu chẳng
hạn. Đã làm việc gì, là
Xuân Diệu đào cùng tát cạn. N. Hikmet và P. Neruda, Dmitrova, N.
Guillen... ,
Xuân Diệu đã chạm vào ai là dọn ra một mâm đầy đặn. Những sáng tác của
người
ấy, tức là mỗi tác giả lớn ấy, được ông tổ chức dịch và giới thiệu hoàn
chỉnh
thành một tập riêng, đứng tên ông, ít nhất cũng là góp thêm một dòng
trong cái
mục Cùng một tác giả đặt ở mấy trang đầu các cuốn sách của ông.
Lối làm việc của
Tế Hanh thì hầu như ngược
lại.
Trong khi cũng
lang bạt phiêu lãng giữa
cánh rừng thơ, hầu như chưa bao giờ ông thuộc về ai hoàn toàn. Thuý
Toàn dịch
Puskin ư, ông sẽ gửi tới bài Một bờ bến khác. Bằng Việt dịch J.
Ritsos ư?
Ông cũng có cả một chùm để góp cho tập Tôi muốn nói bằng ngôn ngữ
tình yêu
ấy, nhưng chỉ là một chùm nhỏ. Rồi Hugo, rồi L. Huges, rồi S. Petofi,
rồi B.
Brecht hầu như không có nhà thơ lớn nào mà ông không từng đọc, và giá
ai kia có
làm riêng tập thơ về nhà thơ lớn đó ông cũng có thể góp một hai bài.
Nhưng chỉ
có thế! Rất chật vật là những lần tự ông phải thầu dịch cả một nhà thơ
nào đó.
Thể nào ông cũng cần đến người chi viện. Và tập thơ ấy thường mỏng, lời
giới
thiệu thường ngắn gọn. Ông không yêu ai đến cùng, hay không đủ sức làm
một công
trình dịch thuật trọn vẹn- nói như thế nào cũng được. Thế nhưng không
phải như
vậy mà nói rằng sự đọc nước ngoài của Tế Hanh tuỳ tiện chểnh mảng.
Ngược lại,
trong cái vẻ ngẫu nhiên gặp đâu hay đấy của mình, ông lại có một sự
quan tâm thường
trực với văn học nước ngoài và có thể nói là luôn sống với nó một cách
sâu sắc.
ở đây ông không làm dáng làm bộ, không ra vẻ một tín đồ cuồng nhiệt, mà
cũng
không có lối vụ lợi, đọc đến đâu phải dịch, phải cho in, phải kiếm lời
hoặc
phải vận dụng vào các sáng tác trước mắt ngay lập tức - không, việc đọc
và dịch
với Tế Hanh đơn giản hơn nhiều. Làm nghề gì, thì cũng phải biết bên Tây
bên Tàu
người ta làm nghề ấy thế nào, nữa là nghề cầm bút - ấy, đại khái lý lẽ
thúc đẩy
ông là như vậy. Lâu dần, ông biến đọc và dịch thành một niềm vui một
việc hàng
ngày như phải ăn phải uống, và trong khi cứ đủng đỉnh mà đi, không quá
bị ràng
buộc bởi những chủ đích có sẵn, đôi khi ông lại hái được những trái
đẹp.
Ngay từ 1961,
trong tập Thơ Aragon
do nhà xuất bản Văn học cho in, Đào Xuân Quý viết lời giới
thiệu, Tế
Hanh đã đóng góp vào mấy bài: dịch rất hay mà như tôi nhớ trong những
năm chống
Mỹ, Lưu Quang Vũ rất thích, thường đọc đi đọc lại:
- Chuyện nhân
thế nhờ em anh biết được
Anh nhìn đời
theo con mắt của em
- Hỡi em của
anh, em của anh, chỉ em
là còn lại
Trong hoàng
hôn buồn bã của cuộc đời
Khi anh mất cả
dòng thơ êm ái
Cả dòng đời,
cả tiếng nói niềm vui
Vì anh muốn
tiếng yêu em anh nhắc
lại
Tiếng mới đau
sao khi thiếu mất em
rồi.
Vậy là Tế Hanh đã
dịch cả Eluard lẫn
Aragon. Dịch Eluard còn có lý - cái chất của tác giả Tự do,
chắc là Tế
Hanh dễ chia sẻ. Nhưng đằng này, cả cái chất dày dặn, nồng đậm của
Aragon, Tế
Hanh cũng nắm được chắc chắn. Mà việc này có lý do sâu xa của nó! Tế
Hanh thích
Aragon ở cả cái phía con người phức tạp của nhà thơ Pháp, thế mới lạ.
Hồi đó là năm
1982. Nhà xuất bản Tác
phẩm mới nơi tôi làm việc cho in cuốn Mười nhà thơ lớn của thế
kỷ.
Tế Hanh đọc và bảo ngay:
- Mình rất thích
cái ý của bà Alighe:
Thơ Aragon có lúc như những vòm đại lễ cao cả của nhà thờ, có lúc như
những
hành lang tối tăm. Cả hai cái đó mới thành Aragon.
Lại còn một nhà
thơ nữa là René Char,
theo Tế Hanh bảo, thì cũng là một cực khác của thơ Pháp hiện đại. Nhưng
- Tế
Hanh bổ sung - R. Char và Aragon, hai ông này không chịu nhau. Và một
biên tập
viên ở một nhà xuất bản Pháp nhăn nhó kể khổ: khi giữa các ông lớn có
chuyện
thì người hứng chịu là cánh lau nhau chúng mình.
Về Ritsos:
- Hồi tôi chữa
bệnh ở Đức, gặp một người
Hy Lạp biết tiếng Pháp. Nhà thơ đầu tiên mà người Hy Lạp này nhắc tới
là
Ritsos.
Sau một lần tiếp
mấy nhà thơ Liên xô,
cuối 1983:
- Người vừa mất
đi mà họ coi là thiệt
thòi nhất trong năm 1983 là Vysotsky, thế mới lạ. Hoá ra, chính ở thời
bây giờ,
những nhà thơ kiểu du ca vẫn có vị trí của họ.
...
Cứ thế Tế Hanh
lẩn mẩn nhặt nhạnh được
tài liệu trên báo chí, sách vở, và kể với chúng tôi đủ thứ chuyện.
Những chi
tiết tưởng nho nhỏ, không đâu vào đâu người khác có thể bỏ quên. Nhưng
Tế Hanh
thì nhớ. Không những tác phẩm, mà đời sống của người sáng tác, những
mối quan
hệ riêng tư của họ với nhau, cũng được ông lọc ra rất nhanh giữa bộn bề
tài
liệu, để rồi vừa chiêm nghiệm, vừa kể lại với người khác.
V
Sau giai đoạn trẻ
trung sôi nổi, có
những người già đi như một sự đổ sụp. Thế chỗ cho những vùng vẫy bươn
trải là
những chậm chạp mòn mỏi, khiến cho người ta cảm thấy một sự tương phản
rõ rệt,
và dễ sinh ra tiếc nuối khi nhớ lại hình bóng hôm qua.
Lại có những
người hiu hiu uể loải ngay
từ khi còn trẻ, loại người này chuyển sang tuổi già một cách dễ dàng
đến mức tự
nhiên, và người chung quanh sẽ chung sống với cái người đang già đi ấy
không
chút khó khăn, dù khi nhìn lại, vẫn không thể không nhận ra dấu ấn của
thời
gian khắc nghiệt để lại trên dáng đi, trên nét mặt con người mình quan
sát.
Trong số các cây
bút hiện thời, chịu sự
tác động của thời gian theo cái kiểu thứ hai trên đây vừa nói, trong
tâm trí
bọn tôi, luôn luôn có Tế Hanh.
Thời trẻ, tức là
những năm tuổi mới bốn
mươi, ông đã thuộc lớp nhà văn sống qua hai chế độ. Cộng với bản tính
sẵn có
ông trở nên sớm đơn độc, sớm quay về với sáng tác, nghĩa là sớm có cách
sống
của một người già. Nhưng từ ấy, gần như ông không già thêm nữa. Hàng
ngày, ông
đi về trước mắt mọi người như một cái bóng - bảo có cũng được, mà không
cũng được,
không gây một ấn tượng gì thật đậm. Thỉnh thoảng Tế Hanh chỉ nói một
hai câu,
nhưng người ta lại lập tức cảm thấy lâu nay, ông biết tất cả, ông nghe
được hết
những gì là quan trọng, là cái chính mọi người cần nghe, và hoá ra ông
vẫn hiện
diện bên chúng ta, hiện diện với đúng mọi nghĩa của nó. Nghĩa là có
chứng kiến,
và có phát biểu, có tìm cách nói lên sự lắng lại của lòng mình trước
điều đã
chứng kiến.
Từ khi bước sang
tuổi 70, Tế Hanh yếu
hẳn. Không phải chỉ đi chậm, nói chậm, mà nhìn cũng chậm - một con mắt
của ông
phải mổ. Trong khi bằng trạc tuổi ấy, Tô Hoài còn hóm hỉnh tinh nhanh
không kém
ngày xưa thì Tế Hanh như nẫu đi, tóp lại. Bây giờ người đi men tường
không chỉ
sang chỗ nhà xuất bản chúng tôi vào các buổi sáng mà hầu như cả ngày,
đi đâu về
cũng ghé vào. Ông cũng không cần gọi ai ra nói riêng nữa: thấy chúng
tôi đang
họp, ông loay hoay tìm một cái ghế ngồi cạnh. Dù chẳng hào hứng nghe
ngóng gì
và chỉ ngồi một chốc một lát lại đi, song ông vẫn thích làm thế, còn
chúng tôi
cũng xem là chuyện tự nhiên. Những hôm cơ quan không họp, chỉ quây
quanh bàn nước
trò chuyện, giao ban đời sống văn nghệ, thì Tế Hanh ngồi lâu hơn. Ông
nhờ ai
đó, đọc hộ một cái thư, hoặc mấy tài liệu mới nhận được. Và ông chia sẻ
với mọi
người những ý nghĩ nảy sinh giữa cuộc sống lẩn mẩn hàng ngày.
- Đứa con mình ở
Tiệp vừa về. Nó bảo
vừa được chứng kiến tổng thống Mỹ đến thăm Praha. Và ai có thể tưởng
tượng là
ông tổng thống quan trọng ấy cầm lấy một cây kèn để thổi, quan khách
cùng nghe.
- Hàng xóm nhà
mình có một thằng bé ăn
dưa lê phải vào viện đấy. Dưa có phun thuốc sâu!
- Chỗ này thì
mình đồng ý với Nhàn,
trong số những người được giải Nobel văn chương mươi năm nay, thì
Octave Paz là
người gây ấn tượng nhất. ở ông ta có 100% văn hoá bản địa mà lại cũng
100% văn
hoá phương Tây.
Nhưng mình nhớ có
đọc đâu đó, Octave
Paz và G. Garcia Marques rất không thích nhau.
- Mình vừa viết
một mẩu hồi ký ngắn, kể
chuyện sang Trung Quốc dự lễ kỷ niệm Lỗ Tấn với Phan Khôi. Lúc đến thăm
một cái
đài cao ở Thượng Hải, ông ấy bảo ông ấy già, ông ấy không lên. Nhưng
lúc ở chân
tháp nói chuyện, ông dẫn một bài thơ cổ Trung Hoa khiến các bạn bên ấy
rất
phục.
- Đây! Mình tặng
ông cái này, bài báo
của Nhất Linh viết về tập Nghẹn ngào, khi tặng giải thưởng cho
nó. Ông
Chế Lan Viên viết lời bạt cho Tuyển tập Tế Hanh có dẫn ra rằng
trên báo Ngày
nay có viết về Tế Hanh thế này, thế này, chính là dẫn ra từ bài báo
của
Nhất Linh, chỉ không dẫn tên tác giả ra thôi.
- Công của Chế
Lan Viên với thơ ta sau
45 rất lớn, ông ấy mang vào cái chất chính luận, mà thơ cũ không có.
Nhưng đọc lại thì
thấy văn xuôi của Chế
Lan Viên không được, nhiều lý sự quá, đọc mệt. Văn xuôi của Xuân Diệu
tự nhiên
hơn.
Phải cái ông Diệu
nhát quá. Có lần ông
bảo mình: Tế Hanh dám viét về Phạm Thái là dũng cảm đấy. Mình cũng yêu
Phạm
Thái mà chưa dám viết.
- Sao người ta cứ
bảo truyện Cu Lặc
của Tô Hoài là một vết nhọ với lại những vô nhân đạo gì gì nữa ấy? Tôi
thì tôi
lại thấy ở chỗ ấy, Tô Hoài đi rất gần với một quan niệm hiện đại của
phương Tây
về con người.
Đại khái như vậy.
Tế Hanh hôm nay cũng
như Tế Hanh hôm qua, chuyện đời lẫn với chuyện văn chương, và văn
chương trong
nước lẫn với văn chương thế giới. Vẫn như xưa, mọi chuyện được ông nói
ra nhát
gừng, đứt đoạn. Song khi đã sống cả một đời người với văn học, khi về
già không
có chuyện gì khác ngoài chuyện văn học, thì điều nói ra dù có vu vơ lặt
vặt đến
đâu, thường đấy cũng là những chi tiết văn học sử, mà lớp sau nên biết.
Năm 1982, Tế Hanh
có viết Tủ sách
của cha tôi, bài thơ nói chuyện tủ sách, mà hiểu rộng ra là nói
chuyện
những biến chuyển trong đời sống văn học mấy thập kỷ vừa qua khi xã hội
chuyển
từ nền văn hoá còn sử dụng chữ Hán của lớp người cũ, qua nền văn hoá
ảnh hưởng
Pháp của lớp người như Tế Hanh, tiếp đó đến lớp trẻ đua nhau học tiếng
Nga hồi
nào và lao vào tiếng Anh hiện nay. Sự thể thì có vẻ hơi buồn buồn: cái
tủ ngày
một hỏng "con rồng cụt mất đuôi - chuột chui vào cắn phá" và
bao nhiêu sách vở rồi cũng tiêu tán:
Có lần tôi tìm
mãi
Một tập A ragon
Ra chợ trời
lại thấy
Đề giá năm
mươi đồng
Lòng tràn đầy
cảm thương
Tôi lặng nhìn
tủ sách
Thơ Đường đem
gói đường
Thơ Pháp làm
giấy nháp
Đề tài về sự dâu
bể đổi thay vốn quá
quen thuộc với văn học, khi lùi ra xa một chút để nhìn đời, người ta dễ
có sự
cám cảnh như vậy. Nữa đây lại là Tế Hanh, người ngay từ năm 20- 21 tuổi
đã cảm
thấy mình là một con đường quê, "kéo nỗi buồn không dạo khắp làng",
đã thấm thía rằng ở đời có cả mất và được vui và buồn:
Tôi đã từng
đau với nắng hè
Da tôi rạn nứt
bởi khô se
Đã từng điêu
đứng khi mưa lụt
Đất lở thân
tôi rã bốn bề
San sẻ cùng
người nỗi ấm no
Khi mùa màng
được, nỗi buồn lo
Khi mùa màng
mất - tôi ngây cả
Với những tình
quê buổi hẹn hò
Và thế đời tôi
hết cái buồn
Trong lòng cực
khổ đắm say luôn
Tôi thâu tê
tái trong da thịt
Hương đất
hương đồng chẳng ngớt tuôn
Tế Hanh ấy, khi
về già, viết Cái tủ
sách của cha tôi, có gì là lạ?
Khi nghe tôi nhắc
đến Lời con đường
quê, Tế Hanh nói ngay:
- ấy đấy chính là
bài thơ đầu tay tôi
viết.
Và ông liên hệ
đến những bài thơ ở tuổi
70.
- Hoá ra cuối
cùng mình lại trở về
chính mình.
- Thế nhưng rút
cục thì anh vẫn cảm
thấy thế là mình cũng được nhiều và đời cũng đáng sống chứ?
- ờ, cả Aragon
chua chát là thế, rồi
Aragon cũng phải bảo: Tôi xin thưa thật đẹp cái đời này.
Thường những câu
chuyện rời rạc của
chúng tôi đến đoạn ấy là bí, không còn gì để nói nữa. Mọi việc không
như ý
muốn! Đời thật lắm chuyện! Nhưng trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn
được
sống được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác thế là được rồi.
Có vẻ như đấy
cũng chính là những ý
nghĩ mang tính cách tự an ủi thường đến với Tế Hanh sau khi đã chất lên
vai một
cuộc sống trong ba phần tư thế kỷ!
Kể ra nghĩ như
thế cũng là mòn, là sáo.
Nhưng xem thế này thì biết: vĩ đại như tác giả Truyện Kiều, rồi
cũng
phải cho Kim Kiều tái hợp, và phác ra cảnh đoàn viên rất cải lương. Nữa
là tất
cả chúng ta, tránh sao được một sự thoả hiệp? Có lẽ bởi vậy, mà Cái
tủ sách
của cha tôi được kết lại bằng mấy câu:
- Tôi tự nhủ
ngày kia
Cháu con dùng
cái tủ
Đựng thơ khắp
nơi nơi
In trong nhiều
thứ chữ
Một cái tủ con
con
Trải qua bao
thời đại
Những thơ hay
cổ kim
Vẫn lưu truyền
mãi mãi
Nếu có bảo đấy là một thứ di
chúc của
Tế Hanh cho các thế hệ đến sau thì tôi biết, Tế Hanh cũng không phản
đối.
LMH giới thiệu