Thanh
tịnh
cuộc đời ngậm
ngải tìm trầm
Năm sớm năm muộn
xê xích ít chút nhưng
nói chung hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng mười một, đầu tháng chạp
dương
lịch, khi những chiếc là bàng chuyển dần từ màu xanh sang màu đồng
điếu, thời
tiết bắt đầu ngả hẳn sang mùa đông, trời đất thấm lạnh đôi khi có thể
giá rét
thấu xương - thứ rét ngọt như người ta vẫn nói - thì cũng là lúc dân
làm báo Hà
Nội chúng tôi bắt tay vào một công việc thuộc loại vất vả trong năm là
chuẩn bị
những số báo tết.
Đời làm báo những
năm chống Mỹ, dù
không tất bật và lúc nào cũng bị ám ảnh bởi một cuộc cạnh tranh sôi
động như
thời kinh tế thị trường hiện nay, song so với nhiều nghề khác trong
guồng máy
làm các ấn phẩm có liên quan đến chữ nghĩa, thì cũng đã là bận rộn hơn
hẳn. Lo
làm dâu thiên hạ mà! Tháng nào tuần nào cũng phải tự trình diện trước
dư luận
và cấp trên tất cả phong độ của một kẻ đứng đắn và thành thạo trong làm
nghề,
kể cũng đã mệt lắm chứ. Nữa đây lại là báo tết! ở tạp chí Văn Nghệ
Quân đội
nơi tôi công tác những năm ấy, có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên
trong toà
soạn phải góp một bài để số báo có chất lượng. Thơ thẩn còn không ngại,
chứ đến
truyện ngắn và các mục râu ria như
giai thoại, thơ vui, câu đố, cùng nhiều thể tài
gọi là tạp nhạp khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy
các số
báo cũng không dễ. Hình như hồi ấy, chúng tôi thường bận tâm vì những
suy nghĩ
nghiêm trang, nên tay nghề xoàng xĩnh và không biết làm hàng như về sau
này!
Bởi vậy vừa dọn dẹp bài vở cho số tết, vừa nhăn nhó và cứ nghĩ đến việc
phải vẽ
vời ra cho được dăm ba bài chọc cười mọi người, đã thấy lúng túng, bụng
bảo dạ
mình thì làm cho ai cười được, vì có ai làm cho mình cười được đâu!
Những lúc
ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh trực biên tập
(tức là đang
lo dựng các số báo) một cách thương hại, và tủm tỉm:
- Trông kia kìa,
chắc cụ Thanh Tịnh đã
viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái, đọc
sơ sơ các
báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ, mà đã có đến chục bài ký tên Thanh
Tịnh... ở
nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho
cụ Tịnh
cũng không đáng!
Cố nhiên là
Nguyễn Minh Châu không nói
oan cho Thanh Tịnh chút nào. Đóng góp của ông cho các số báo tết làm
cho chúng
tôi ngạc nhiên, vì như
bắt gặp một Thanh Tịnh khác so với con người
chúng tôi vẫn gặp. Có cảm thưởng như
sau một năm dông dài, ông chợt nhớ ra phải làm
việc nào đó để bù lại tháng ngày đã mất. Và mỗi lần thấy ông vừa thở
phì phì,
vừa bước những bước nặng nề đi lại trong phòng để ngẫm nghĩ, rồi thỉnh
thoảng
lại quay vào bàn ghi ghi chép chép, rồi hào hứng cười thầm như tự
thưởng cho
những ý nghĩ hóm hỉnh của mình thì chúng tôi chỉ còn có cách bảo nhau
rằng -
hẳn ngày xưa, một ông đồ già lọ mọ lục lại đống bồ cũ, lấy ra mấy thỏi
mực, mấy
tờ giấy hồng điều, thử lại vài cây bút mốc meo bấy lâu xếp xó trước khi
ra phố
bò toài trên chiếu viết thuê các loại câu đối tết, chắc cũng có cái vẻ
mải miết
tương tự.
Từ những ngày làm
báo Tết ấy, tôi thường
vân vi nghĩ rộng ra cả cuộc đời Thanh Tịnh để hiểu về một cách tồn tại
độc đáo
trong văn học.
Cuộc sống nhân
loại là một sự phân công
tự nhiên, song bao giờ cũng có. Và ngay trong phạm vi hẹp là từng nghề
thôi,
thì cũng đã có sự phân công đôi khi rất ngẫu nhiên ấy. Có người đóng
góp cho
cuộc đời này những chủ lực như gạo thịt nuôi sống người ta. Lại có
những người
chỉ như trái ớt quả chanh, thêm thắt tô điểm bên mâm cơm, không có
không chết
ai nhưng sự thực là thiếu đi, cũng dễ làm cho đời sống mất hết ý vị.
Nói thế này không
rõ vong linh Thanh
Tịnh ở dưới suối vàng có giận không, chứ quả thật, sự tồn tại của Thanh
Tịnh
thời tiền chiến theo tôi hiểu là thuộc cái dạng một sự thêm thắt không
thể
thiếu ấy.
Đã có lúc ông làm
nghề đạc điền. Đã có
lúc ông dạy học. Nhưng hình như hồi tiền chiến cái nghề ông làm lâu
nhất, lại
là nghề hướng dẫn du lịch, một thứ công việc lang thang đây đó, góp
chuyện với
mọi người, làm cho mọi người vui bằng những câu chuyện nhỏ của mình. Và
cái thú
của nghề này chính là ở biên độ dao động rất rộng của nó. Tán hão cho
vui cũng
được. Mà dày công nghiên cứu để mang lại kiến thức cho mọi người thì
tâm sức bỏ
ra mấy cũng chưa đủ.
Đến như đóng góp
của Thanh Tịnh trong
văn học - một tập truyện ngắn một ít bài thơ, tất cả đều có cái giọng
bùi ngùi,
và càng bùi ngùi thêm vì loanh quanh toàn kể về những con người hiền
lành song
bất hạnh - sự đóng góp ấy cũng chỉ là một sự thêm thắt nếu người ta
tính đến số
lượng ít ỏi của nó. Có điều, nhờ sự thành thật, và cả cái vẻ dịu dàng
nhỏ nhẻ,
không giống một ai mà rồi những trang văn chương ấy sẽ tồn tại trong
tâm trí
nhiều thế hệ. Sau khi đã đọc bao nhiêu ý tưởng quyết liệt nhất của Nhất
Linh và
Vũ Trọng Phụng, sau khi đã biết đến cái đậm đà duyên dáng của tiểu
thuyết Khái
Hưng, cũng như sau khi nghe tiếng nói thâm trầm và điềm đạm của Thạch
Lam, người
ta vẫn có những lý do riêng, để thỉnh thoảng tìm đến với văn Thanh
Tịnh.
Đời xếp anh
tôi với Thạch Lam
Ngồi chung một
chiếu hội văn đàn
Chao ôi! Chiếu
đã hai lần lạnh
Còn lại mình
tôi với thế gian
Hồ Dzếnh đã viết
như thế khi Thanh Tịnh
qua đời. Đọc mấy câu thơ người ta cảm nghe được một cái gì giống như
lời an ủi
về tình thế "cùng một lứa bên trời lận đận" của các ông, những ngòi
bút không thuộc dòng chủ lưu, nhưng lại làm cho không ai quên nổi.
Trong một hồi ký
về quá trình đi theo
kháng chiến, Thanh Tịnh kể: thực ra, hồi ấy (tức là cuối 1946) ông chỉ
tính ra
dự Đại hội văn hoá toàn quốc. Chẳng qua ngày họp kíp quá, mà tiếng súng
kháng
chiến ở Hà Nội diễn ra nhanh quá: vốn tính đận đà ông không quay về
kịp, nên
mới có một sự nhập cuộc như chúng ta đã thấy, tức là mặc dù quê ở Huế,
song
Thanh Tịnh lại theo đoàn người khổng lồ của Hà Nội lên Việt Bắc, rồi có
mặt
trong các hoạt động kháng chiến tám năm liên tục.
Nhưng sự nhập
cuộc này - một sự nhập
cuộc đàng hoàng, bởi chính thức mà nói, ông là một chiến sĩ quân đội -
vẫn có
cái vẻ riêng rất Thanh Tịnh của nó. Thời gian đầu hoạt động văn nghệ
trong các
lực lượng vũ trang còn đang lẻ tẻ tự phát và lẫn vào các hoạt động
khác. Ví dụ,
nhân có một đoàn tuyên truyền chính sách, hay một đoàn kiểm tra đi các
địa phương
các đơn vị, ở trên mới ghép thêm vào một vài chiến sĩ văn nghệ, để gây
không
khí. Nhưng ai ngại không biết, chứ Thanh Tịnh không ngại. Ông thích ứng
ngay được
với lối hoạt động nhỏ lẻ ấy. Tới đâu ông cũng nhanh chóng thâm nhập để
biến
thành người trong cuộc, rồi xem có gì đáng biểu dương thì làm thơ biểu
dương,
hoặc có gì đáng phê phán thì viết bài phê phán. Thứ thơ dễ hiểu với mọi
người
ấy lại được mang "sân khấu hoá" tức không bắt người ta phải đọc thầm,
mà là chuyển thành cảnh diễn, nên thông thường là được quần chúng tán
thưởng.
Bắt đầu ra đời một thể tài gắn với cái tên Thanh Tịnh hồi kháng chiến
chống
Pháp: thể độc tấu. Và cứ thế, cứ với độc tấu, Thanh Tịnh như
một người
du ca, có mặt ở nhiều địa điểm của căn cứ địa Việt Bắc. Qua năm 1951,
trong khuôn
khổ của việc sắp xếp lại tổ chức nói chung, Thanh Tịnh nghe một cán bộ
chính
trị khuyên "Nên về lại quê hương", thế là ông đi bộ trở vào vùng
trong. Nhưng đến Nghệ An, biết vùng tự do Bình Trị Thiên chật hẹp,
không có đất
hoạt động, ông liền ở lại với Chi hội văn nghệ Khu Bốn. Bên cạnh Hải
Triều,
Hoàng Trung Thông, Bùi Hiển, Chế Lan Viên... ông có làm thơ viết báo,
nhưng chủ
yếu là phụ trách văn công. Và đây một đợt công tác độc đáo: ấy là khi
hoà bình
mới lập lại 1954, ông được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị
em, phần
lớn là mắt kém, đi về hường Bùi Chu Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân
gian để
động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà
hãy ở
lại với quê hương.
Không biết ai đã
có sáng kiến đặt Thanh
Tịnh vào việc ấy?
Song quả thực,
đấy là một trong những
lần tài năng của Thanh Tịnh được sử dụng một cách đắc địa.
Thanh Tịnh là
thế, là cuốn theo
chiều gió là ngọn cỏ gió đùa, là nương theo sự xô đẩy của
hoàn cảnh
mà tìm lấy tính chủ động, ở đâu thì cũng giữ lấy vai nghệ sĩ của mình,
và hình
như càng gặp những điều kiện sống khó khăn, không ổn định ông càng trở
nên sinh
động tự nhiên và nổi bật lên với khả năng thích ứng. Ngược lại sẽ hiện
ra sẽ
sống khó khăn thậm chí ông yếu đuối, lạc lõng lúng túng trong những
hoàn cảnh
ổn định, mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy.
Sở dĩ tôi nói
vậy, vì nghĩ đến hơn ba
chục năm cuối đời của Thanh Tịnh bắt đầu kể từ 1954 khi ông nhận công
tác ở tạp
chí Văn Nghệ Quân đội, rồi từ đó, về hưu.
Bề ngoài mà xét,
thì sau hơn chục năm
kháng chiến, làm người lính từ địa phương đến chủ lực, khi ở Việt Bắc,
khi vào
Khu Bốn, nay ông mới có một đơn vị công tác chuyên sâu, một nơi ở ổn
định. Hơn
thế nữa, từ nay, ông được làm cái nghề mà ông yêu thích, và đã tự
nguyện theo
đuổi, là viết văn viết báo, hỏi còn gì lý tưởng hơn nữa?
Song sự thực mọi
chuyện không suôn sẻ
như thế.
Những người quen
biết, khi viết về tuổi
già Thanh Tịnh, thường tả căn phòng của ông trong ngôi nhà số 4, ở đó
rất nhiều
đồ vật lịch sử "cái đĩa thời Lê, viên gạch thời Lý" ngoài ra là ngổn
ngang những vật kỷ niệm "một mảnh máy bay B. 52, viên đạn ở chiến
trường
Quảng Trị, một con vịt nhựa sứt mẻ nhặt được sau một trận bom..." Và có
người
còn bảo là trong hoàn cảnh bấy giờ, Thanh Tịnh đã khéo tổ chức một cuộc
sống
riêng rất hợp lý. Có điều đấy là một cách an ủi cho người đau khổ đỡ
tủi. Nên
biết là ngay từ sau 1954, Văn Nghệ Quân đội là một cơ quan rất
được ưu
đãi, anh em cán bộ chiến sĩ tuy đang tại ngũ, nhưng không phải lúc nào
cũng bắt
buộc mặc quân phục, và giờ giấc cũng không chặt chẽ như các đơn vị hành
chính
khác. Chỉ riêng một việc cơ quan đặt ở ngoài thành lại không có trạm
gác đi về
thoải mái, đã là một ân sủng quá sức chờ đợi! Là những người lính,
nhưng hầu
hết cán bộ trong cơ quan có gia đình ở Hà Nội, và sau một ít giờ sinh
hoạt
chung, ai về nhà nấy, thậm chí viết lách cũng có thể ngồi nhà, chỗ ngồi
viết được
cơ quan bố trí có để mốc ra đấy, cũng chẳng ai có ý kiến. Chính trong
không khí
đầm ấm đó mà sự cô độc của Thanh Tịnh càng nổi lên rõ rệt: Hãy thử
tuởng tượng,
vào những buổi tối, cả ngôi nhà hai tầng thâm nghiêm sang trọng đó vắng
lặng
chỉ có Thanh Tịnh, với một hai đồng chí chiến sĩ khác làm công tác phục
vụ ở
lại. Sau những bữa cơm chiều tẻ nhạt, có đi đâu một lát thì cuối cùng
ông cũng
phải trở về với dãy phố chỉ có hàng sấu lá reo, với cái cầu thang mênh
mông mà
bóng ông không bao giờ lấp kín. Trong khi đó, không cần tưởng tượng
phong phú
gì lắm, cũng có thể hình dung ra cảnh các đồng nghiệp của mình đang vợ
con ríu
rít như thế nào - tất cả những chuyện này, đối với Thanh Tịnh lặp đi
lặp lại
hàng ngày, và một tâm hồn nhạy cảm như ông làm sao không cảm thấy xót
xa cho được?
Chẳng ai có lỗi trong nỗi bất hạnh này của Thanh Tịnh cả - chẳng qua
đất nước
chia cắt, ông lập gia đình sớm, mà giờ vợ con lại ở tận trong kia,
trong khi
bọn chúng tôi trẻ hơn, bấy giờ mới bén mùi hạnh phúc riêng tư, nên tự
nhiên là
có cuộc sống khác hẳn ông như vậy. Tuy nhiên sáng sáng, nỗi hào hứng
của bọn
tôi khi được bắt tay vào một ngày mới, đến với cơ quan với bao náo nức,
quả
thực là có xẹp đi ít nhiều, khi chợt thấy người đồng nghiệp đồng đội
già của
mình lầm lũi xách một xô nước, từ bể chứa dưới nhà lên gác hai. Chính
chúng tôi
cũng muốn lẩn tránh ông, chứ không phải riêng ông muốn tránh chúng tôi.
Lấy đâu
ra lời lẽ, để ngày nào cũng an ủi nhau, và an ủi làm sao nổi - chúng
tôi tự
nhủ. Chỉ hoạ hoằn lắm, có đợt cả loạt anh em cơ quan cùng đi công tác,
những
lần ấy, mọi người như đều bình đẳng với nhau trong sự xa nhà của mình,
và những
buổi tối, ở nhà khách tỉnh uỷ Hà Giang, hay cơ quan Hội văn nghệ Tuyên
Quang gì
đó, chúng tôi cùng quây quần nghe chuyện Thanh Tịnh - chỉ lúc bấy giờ,
cái con
người lớn tuổi nhất cơ quan mới có sự hào hứng, sự thích thảng mà ở Hà
Nội, ông
không bao giờ có.
Về lý thuyết mà
xét, thì sự cô đơn có
thể là điều kiện làm việc lý tưởng cho những ai có niềm say mê lớn.
Nhưng khốn
nỗi, quả thật đấy là chuyện lý thuyết, còn trong thực tế những người
cầm bút ở
ta hiện nay, một sự cân bằng trong tình cảm, lại là một bảo đảm tự
nhiên cho
sáng tác và nghĩ tới một người xa gia đình như Thanh Tịnh ai cũng hiểu
ngay là
"nhiều khi rỗi rãi mà không biết làm gì". Chẳng những thế, lại phải
biết thêm là sinh hoạt văn học từ sau 1954, nhất là từ 1958- 60 trở đi,
rồi
trong chiến tranh, có một vẻ tấp nập riêng chỉ nó mới có. Các nhà văn
Nguyễn
Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Hải Hồ, Nguyễn Trọng Oánh, lúc ấy mới trên
30, đi
khoẻ, viết khoẻ, tháng trước vừa theo đơn vị này đi tiễu phỉ ở Hà
Giang, về
viết một hai tuần nộp bài cho cơ quan xong, tháng sau lại có thể theo
một đơn
vị khác làm kinh tế, và trở về, lại có bài ngay để nộp, cả toà soạn như
một đàn
ong cần cù, hàng ngày hàng giờ toả đi khắp nơi để viết, viết ngay về
cái thực
tế sôi động của miền Bắc lúc ấy. Còn Thanh Tịnh của chúng tôi thì sao?
Ngoảnh
đi ngoảnh lại tuổi 50 đã đến với ông từ lúc nào. Ông không thể xông xáo
như mọi
người, mà có lao đi khắp nơi, trở về, ông cũng không thể viết nhanh
viết khoẻ
như họ. Hơn thế nữa ở đây, không khỏi còn những phân cách trong thói
quen,
trong quan niệm. Một bên là lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng
chiến, lòng
đầy tự tin, và cái háo hức chủ yếu, là háo hức làm nên một nền văn học
trước
đây chưa từng có; còn bên kia là Thanh Tịnh dẫu sao cũng là còn hơi
hướng tiền
chiến, nghĩa là thuộc về một quá khứ người ta đang muốn chôn vùi. Và
thứ văn chương
như Quê mẹ, dẫu sao cũng là thứ văn hiu hắt buồn tẻ của một
thời đã xa
lắm rồi, một người đã viết nên thứ văn như thế, làm sao có thể bắt ngay
vào cái
nhịp sống mới. Tuy không ai nói ra, nhưng hồi ấy, hầu như tất cả nghĩ
thế. Mỗi
lần bàn về Thanh Tịnh, thường mọi người thầm bảo nhau: Thôi thì cứ để
"cụ" tuỳ nghi viết gì thì viết, còn phần công việc chủ yếu, sẽ phải
là do lớp trẻ gánh vác.
Nhưng khi đã nghĩ
như thế, tức là mọi
người không còn coi Thanh Tịnh như một chiến sĩ bình đẳng với mình. Tức
ông đã sớm
trở thành một thứ cựu chiến binh ngay trong thời gian tại ngũ. Có cái
rỗi rãi
của người được chiều, có cái tuỳ nghi của người không bị ràng buộc.
Nhưng chính
vì thế, lại dễ trở nên lạc lõng. Tiếng thở dài hàng ngày của ông - ông
tập thở
theo lối dưỡng sinh - vẫn cất lên đều đều khi bước chân nặng nề đưa ông
từ gác
xuống nhà, từ nhà lên gác, song đáp lại tiếng ngân vang của nó, chỉ có
một sự
im lặng buồn tẻ. Kể ra, sự xa cách trong lối sống đã được giữ gìn kín
đáo để
khỏi trở thành lộ liễu. Là những cây bút đầy tài năng và hiểu biết,
những Hữu
Mai, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Từ Bích Hoàng, Vũ Cao... đối với Thanh
Tịnh vẫn có
cái tình riêng. "Ông viết văn từ khi ta còn học tiểu học". "Và
bây giờ trong lúc ta vợ con đầm ấm, thì ông cô độc cô quả, xa nhà xa vợ
con"
- hầu như bất cứ ai cũng có lần tự nhủ vậy, để đối với Thanh Tịnh thật
gượng
nhẹ. Riêng Nguyễn Minh Châu lại có cái gì hơn thế. Hình như với cái cốt
cách
riêng của mình, Nguyễn Minh Châu cứ có sự bùi ngùi thương cảm riêng với
các bậc
đàn anh tiền chiến và thường xuyên dậy lên trong ông một tình cảm giống
như sự
biết ơn chân thành. Một lần nào đó, viết xong một truyện ngắn, bên cạnh
nhan đề Những lá thư vui, Nguyễn Minh Châu trang trọng chua
thêm mấy dòng
"Kính tặng bác Thanh Tịnh" (như ngày xưa, Thanh Tịnh đã viết Con
so về nhà mẹ để "Kính tặng hương hồn anh Thạch Lam). Lại một lần
khác,
sau nhiều dịp trò chuyện với Thanh Tịnh, Nguyễn Minh Châu đóng vai nhà
báo,
viết hẳn một bài Phỏng vấn giúp cho Thanh Tịnh giãi bày đủ điều
với mọi
người.
Nhưng cuộc đời
không phải chỉ có những
cái đó.
Cuộc đời trước
tiên là một nhịp sống
bình thường. Hàng ngày cơ quan chúng tôi túm tụm, người đi thực tế về,
người
mới đọc được quyển sách hay, người có cái tin sốt dẻo, cứ gặp nhau là
dính với
nhau, tiếng cười vang lên trong các gian phòng đóng kín, khiến người
qua lại
phải giật mình.
Trong những hội
vui đó, không có Thanh
Tịnh.
Tôi nghĩ rằng một
người nhạy cảm như
tác giả Quê mẹ rất biết tình thế của mình. Ông không chống chọi
nổi với
thời gian, song ông hiểu. Bằng cái từng trải của một chiến sĩ quân đội
lâu năm,
không phải ông không thấy mọi người có lý. Thành thử, ông cũng không
buồn vất
vả xoay xoả viết lấy được - một việc có lẽ ông cho là vô ích - mà cùng
với
những bế tắc trong hoàn cảnh riêng, ông sống như sống cho xong, buông
thả, vui
chơi qua ngày, đến đâu thì đến.
Những ấn tượng
trên đến với tôi ngay từ
những ngày mới đặt chân về công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội,
tức
khoảng 1968. ở vào cái tuổi chưa đầy sáu mươi mà Thanh Tịnh những năm
đó trông
đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều. Hồi ấy, một tờ báo ra hàng tháng
như chúng
tôi chưa có ô tô riêng, bởi vậy, trừ những trường hợp đi các tỉnh xa,
xin được
xe Tổng cục, còn đi đâu loanh quanh Hà Nội, thì các thủ trưởng như Vũ
Cao, Từ
Bích Hoàng, hoặc các nhân vật trụ cột trong cơ quan cỡ như Hữu Mai,
Nguyễn
Khải, Hồ Phương cũng cứ xe đạp cá nhân mà đạp. Thanh Tịnh - người cao
tuổi nhất
cơ quan - cũng không ra khỏi thông lệ đó. Với một xe đạp cũ, ông tự
mình có mặt
ở khắp nơi, buổi họp này, dịp vui kia, và mặc dù đi bên cạnh mọi người,
song
cái dáng cao lớn trên cái xe loại vành 680 lại cứ làm cho ông tách hẳn
ra. Nhưng
muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào, phải nhìn những lúc ông đi bộ.
Trên đường
Phan Đình Phùng, dưới những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi
như
không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ
đẫn. Không
trù tính định liệu, không ham muốn, ông nhìn thẳng về phía trước mà hoá
ra
chẳng nhìn gì cả. Đến cả bước chân của ông cũng không ai nghe tiếng
nữa. Chỉ có
tiếng thở dài của ông là có thật.
Trong các hồi ký,
nhiều người đã nói về
khả năng hài hước của Thanh Tịnh. Tất cả đều nói đúng, và chỉ quên một
điều:
đấy là cái hài hước của một người đã quá buồn! Con người vốn được nuông
chiều,
mà nay phải sống xa gia đình. Con người vốn ham chơi, mà nay phải sống
trong
không khí khổ hạnh. Trước khi chọc ghẹo thiên hạ, ông cần làm cho mình
vui cái
đã. Ông cười, cũng y như ông làm báo tết ở trên tôi nói, tất cả là để
tạo nên
một chút vang động giữa cái vắng lặng mà ông đã triền miên phải chịu.
Nhìn ông
vọc vạch những bài báo tết - mấy đoạn ca dao nôm na dễ hiểu, mấy mẩu đố
vui,
cũng như nhìn ông phát biểu giữa đám đông - , đôi khi tôi nhớ tới một
hình ảnh
mà những ai ở Hà Nội từ 1960 về trước đều biết. Đó là những ông già
ngồi nặn
những Tôn Ngộ Không, Quan Công, Trương Phi, bằng các loại bột xanh đỏ
cắm trên
một chiếc tăm tre, bán cho bọn trẻ nhỏ.
Những ông già ấy
làm vui cho mọi người,
cốt để khuây khỏa nỗi buồn trước sự xô đẩy của thời gian, và Thanh Tịnh
của
chúng tôi cũng thế. Tôi nhớ những ngày mùa rét, Thanh Tịnh hay bận ra
ngoài một
cái áo dạ màu cổ vịt, một màu rất chua, và chói hẳn lên giữa đám người
nâu sồng
hoặc toàn quần áo màu xám chung quanh. Đấy cũng là một cách để tỏ rõ
cái khác
biệt với chung quanh chăng? Cũng có thể Thanh Tịnh không cố ý, nhưng
cái cách
của ông cứ xui người chung quanh nghĩ thế. Vả chăng, cái con người thật
của
chính mình, thì mỗi người làm sao giấu được! Một cảm tưởng chung chúng
tôi vẫn
hay trao đổi với nhau: Ngoài mùi cao Sao vàng hắc hắc - cái mùi
phổ biến
của những người già - riêng ở Thanh Tịnh tuổi sáu mươi hồi ấy lại còn
thường
hay bốc lên mùi nước hoa. Chắc chắn đó là thứ nước hoa thật rẻ, anh em
nhà văn
đi nước ngoài (chủ yếu hồi ấy là đi Liên Xô) gửi tặng. Thứ xa xỉ phẩm
này, cũng
như màu áo cổ vịt, khiến cho Thanh Tịnh nổi bật lên giữa những người
khác. Trước
mặt Thanh Tịnh nhiều người khen lấy lòng "Anh Tịnh vẫn galant
quá", nhưng sau lưng, tôi biết người ta vẫn thầm thì với nhau: cụ phải
làm
thế vì già rồi, lại dân nghiện cũ, lâu không tắm, không đổ nước hoa lên
quần áo
thì còn dám đi đâu nữa!
Phần lớn các
thiên truyện Thanh Tịnh
viết trong Quê mẹ là những truyện buồn. Cô Duyên trong Bên
con đường
sắt chịu sự đàm tiếu của mọi người mà đâu có hạnh phúc. Cô Sương
trong Tình
thư không nuôi nổi mối tình thuần hậu qua những bức thư. Cô Hoa
trong Con
so về nhà mẹ thường xuyên sống trong cái tâm trạng chán nản rồi ao
ước hão.
ở nơi này thì bảo rằng ở nơi kia khá hơn. Cho đến cô Thảo trong Quê
mẹ
cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà sống, luôn luôn ra vẻ rằng mọi người
trong gia
đình mình quý mến nhau lắm. Nhưng có lẽ thiên truyện gần với con người
Thanh
Tịnh về sau, mà cũng là đậm chất Huế của quê hương ông là truyện Con
ông
Hoàng. Trước cảnh gia đình túng đói, ông Hậu, con ông Hoàng vẫn
phải cố giữ
lấy chút tiếng hão. Tương tự như ông Hậu con ông Hoàng, Thanh Tịnh của
chúng
tôi cũng không bao giờ có thể sống hết cái con người buồn rầu đau đớn
của mình.
Ông phải giữ tiếng cho mình và cho mọi nguời, vì cái tiếng của ông đã
quá lớn.
Chung quanh và chính ông đã ép ông thành một thứ phượng hoàng nhồi rơm
nhồi
trấu rồi treo trên tường, ông phải giữ lấy cái vai đã có.
Lại nhớ cái phòng
bảo tàng những thứ cổ
vật mà Thanh Tịnh xây dựng cho mình, trên cái phòng số 14 gác 2 nhà số
4 Lý Nam
Đế những năm ấy. Nghèo thế, Thanh Tịnh của chúng tôi lấy đâu ra tiền để
mua cổ
vật? Mà cũng buồn thế, cô độc thế, một người ít nghị lực như Thanh Tịnh
lấy đâu
sức lực để mang lại cho bộ sưu tầm của mình một vẻ hoàn thiện dù là chỉ
trên phương
diện công phu thuần tuý? Chẳng qua buồn tình quá, ông nhặt nhạnh một ít
đồ cũ,
xếp cho ra bộ, trong lúc không ai biết chơi thì cách chơi của ông đã là
độc
đáo, thế thôi. Song giá kể chỉ dừng lại ở chỗ ấy, thì Thanh Tịnh lại đi
hơi
quá: Từ lúc nào không biết, một cách tự nhiên, ông hay kể lể về cái bộ
sưu tầm
của mình. Toàn đám tinh ma, cố nhiên là chúng tôi có biết cái sự tô vẽ
của
Thanh Tịnh. Nhưng sự lịch sự tối thiểu không cho phép ai nói chuyện đó
ra trước
mặt ông làm gì. Rút cuộc là một cuộc chung sống hoà bình, Thanh Tịnh cứ
nhặt
nhạnh và mang ra khoe, nghĩ chẳng ai tin thì cũng buồn quá, nên tự nhủ
rằng
biết đâu sự bày biện rất thành thực của mình vẫn có tác dụng. Còn chúng
tôi thì
lúc nghe ông nói, phải giữ bộ mặt nghiêm trang cho khỏi bật cười, và
lâu dần,
việc đó cũng chẳng khó khăn gì với chúng tôi, vì ra ngoài, chúng tôi
lại giễu
ông ngay lập tức.
Trò chơi hơi buồn!
Nhưng nó là trò
chơi duy nhất, một ông
già tạo ra được cho mình, và cũng là trò chơi độc đáo, dù không được
đẩy đến
cùng. Nó không làm hại làm phiền ai cả. Nó có thể được chấp nhận, ngay
cả lúc
người ta quá bận rộn.
Không rõ bây giờ
có ai đang làm việc
cho những tập hồi ký viết về những năm chống Mỹ. Nhưng dăm bảy năm trở
lại đây,
có dịp sống với cái tốc độ chóng mặt và những chương trình quảng cáo
gây ấn tượng
đậm của kinh tế thị trường, lớp người cả một thời trai trẻ sống trong
chiến
tranh và bom đạn như bọn tôi càng hay nhớ về những năm ấy. Hà Nội trong
chống
Mỹ là một cái gì lạ lắm, không phải là một thủ đô hoà bình - tất nhiên
rồi, nhưng
một thủ đô của chiến tranh cũng không hẳn. Tuy mấy năm 1966- 67, thỉnh
thoảng
cũng có bom Mỹ bắn phá, nhưng với cái tính gan lì của người Hà Nội thì
không
thấm thía gì hết. Rồi từ cuối 1968, mọi chuyện đâu đóng đấy, chúng tôi
nhởn nhơ
sống, trẻ con vẫn đi học, người lớn vẫn "tất cả cho sản xuất", mà vẫn
vui vầy sống đủ mọi hệ luỵ của kiếp người. Ngoài kia là mặt trận, mọi
người đều
có con em mình ở ngoài ấy, và có thể mai kia đây, đến lượt mình đi, có
sao! Nhưng
hôm nay, hãy cứ vui vẻ với cái hạnh phúc trần thế, mà mình đang có. Tôi
đạp xe
với bạn dong nhan các phố. Anh nhâm nhi vại bia bên mấy củ lạc. Anh kia
nữa
thành kính ngồi nghe một bài hát dân ca theo chương trình ca nhạc theo
yêu cầu
thính giả sáng chủ nhật của Đài tiếng nói Việt Nam. Vào những ngày tết,
bên
cạnh bánh chưng xanh và những hộp mứt ọp ẹp cung cấp theo ô phiếu, thì
lại vẫn
còn những cành hoa đào Nhật Tân bán trên Hàng Lược, nó là một thứ xa xỉ
được
chiến tranh cho phép, bởi nó là dấu hiệu về một đời sống bình thường,
mà mọi người
thấy cần tỏ ra cho kẻ thù biết. Có lẽ đời sống văn nghệ của chúng tôi,
mà được
phát triển, thì lý do cũng tương tự thế chăng, chỉ biết trông vào những
số báo
tết, cũng có chút tươi tỉnh lên thật. Trên trang thơ, Xuân Diệu cho
đăng những
bài thơ tình tha thiết và đôi khi hơi buồn nữa, mà có thể là ông làm đã
từ lâu,
nhưng chỉ vào các dịp Tết mới tìm thấy lý do công bố. Tế Hanh đứng tên
sau các
bài thơ viết về con. Còn nhà hùng biện Chế Lan Viên thì trưng ra một
nét mặt
mới: thay cho các bài thơ chính trị, là thơ về hoa, về quả, hoặc thơ
về... thơ.
Chính trên cái nền rộng rãi ấy mà Thanh Tịnh trong những dịp Tết trở
lại với
cái nghề cũ của mình là nghề làm báo, và đặt bên cạnh bọn ngọng nghịu
chúng
tôi, thì đấy vẫn là một tay nghề có hạng. Hoàn cảnh những năm chiến
tranh đã
tập cho chúng tôi một thói quen là không sưu tầm gìn giữ gì hết, gia
đình tôi
cũng chật hẹp như mọi nhà, nên chả làm sao giữ được những số Văn
nghệ Quân
đội mà tôi đã góp phần làm trong hơn chục năm từ 1968 đến 1979 (và
suốt
thời gian ấy, mỗi tháng, tôi được phát hai số), nhưng mỗi lần có dịp
thấy lại
những số báo ấy, nhất là những số Tết dày dặn hơn một chút, màu sắc loè
loẹt
hơn một chút, thì tôi lại nhớ ngay đến Thanh Tịnh. Chút quà mọn là
những số báo
của chúng tôi, hình như là quá bé bỏng so với cái vóc vạc cao lớn của
ông, nhưng
ông đã đổ vào đấy tất cả tâm sức, và bên tai tôi lại vẳng lên tiếng nắc
nỏm của
Nguyễn Minh Châu:
--Trông kìa, cụ Tịnh chắc đã
viết được
hơn chục bài rồi... ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau
cứ gọi là
xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!
LMH giới thiệu