Nguyễn
Minh Châu
người
viết văn và thời đại
Năng khiếu và
thói quen
Vào những ngày
thật rét, ở những khu
tập thể chung quanh Hà Nội người ta thường vẫn bắt gặp những đám trẻ
ngồi lẩn
mẩn bẻ từng mẩu củi khô cho vào những cái ống bơ rồi gầy lửa và cầm sợi
dây đã
buộc hai đầu vào miệng ống bơ, quay lên nhiều vòng cho cháy thành ngọn
lửa để sưởi.
ở nông thôn cảnh trẻ lúi húi bên đám lửa càng hay gặp hơn; bên bờ tre,
ngoài
cánh đồng, chỗ nào có trẻ là chỗ ấy thường thấy lửng lơ vài đám khói
lên. Mỗi
lần được chứng kiến những đám vừa sưởi vừa nghịch đó và hiểu rằng khỏi
lửa mang
lại nhiều niềm vui cho những cô bé cậu bé quây quần chung quanh, tôi
lại nhớ
cái đoạn hai nhân vật chính trong Dấu chân người lính là Lữ và
Khuê lần
đầu gặp nhau.
- Cậu không
thích khói à? - Lữ cười
hồn nhiên và hai cánh mũi phập phồng thở hít một cách khoan khoái -
Mình ấy à,
mình lại rất thích khói, có thể nói mình từng mê nó nữa kia. Hồi còn bé
mình ở
nhà mẹ mình cũng thường mắng mình là thằng ngốc. Mình ra bờ tre, hễ nhà
ai hun
đống dấm, hun chuột đồng, hay là bất cứ người ta đốt cái gì, mình cũng
liền xà
ngay vào hít lấy hít để cái mùi cay cay nồng nồng của khói. Mình cứ
đứng như
thế cho đến lúc hai con mắt đỏ lên và nước mắt chảy giàn giụa chung
quanh mi,
không còn nhìn thấy gì nữa.
Khuê hỏi một
cách thích thú:
- Khói có gì
đáng mê vậy, cậu điên
hả?
- Cậu không để
ý rằng khói lửa là
một mặt rất quan trọng trong đời sống của xã hội loài người? Trong hoà
bình hay
là trong chiến tranh đều có những đám khói riêng của nó! Cậu từng đi
học, cậu
không nhớ có biết bao nhà văn nhà thơ đã tả nó, và chúng mình đã phải
chong
đèn, bò ra phản mà học những câu thuộc lòng như Nửa năm hương lửa
đang nồng hoặc Khói Cam
Toàn mờ mịt thức mây. Đấy, những câu người ta viết hay nhất đều có
khói...
Một chi tiết vui
vui, thể hiện rõ lối
lý sự của một cậu học trò có tư chất nghệ sĩ, nghe ngộ nghĩnh lạ tai,
thậm chí
có một chút nguỵ biện, song rất gợi nhớ. Đọc xong người ta chỉ nghĩ:
phải những
nhà văn rất có năng khiếu nghề nghiệp mới đưa ra được một chi tiết như
vậy.
Một trường hợp
khác: Trong Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu kể một nhân vật phụ
nữ trẻ,
chị Quỳ bỗng dưng thấy chán người yêu, một người con trai "dũng cảm,
đứng
đắn, có tài năng, đẹp trai" chỉ bởi một lần nào đó phát hiện ra anh ấy
có
mồ hôi tay "mỗi lần tôi phải cầm lấy bàn tay anh ấy là lại thấy trên
bàn tay mình một cảm giác dấp dính và lạnh". Và thế rồi hai người
bỏ
nhau thật. Một lý do vớ vẩn - nhiều người chắc không hiểu nổi. Nhưng
không ít
bạn đọc phụ nữ đọc truyện này nói rằng những cảm giác thoáng qua như
vậy, tưởng chỉ các bà các chị biết riêng với
nhau, chứ đâu ngờ có lúc lại xuất hiện trên trang viết của một nhà văn
đàn ông.
Khi khen văn
Hemingway, Garcia Marquez
có lưu ý một vài chi tiết được sử dụng trong Hạnh phúc ngắn ngủi
của Mark
Comber rất hay và ông gọi đó là "những điều ngu ngơ thần tình mà
chỉ
những nhà văn sáng suốt mới viết lên được". Tôi không dám nói rằng các
chi
tiết trong văn Nguyễn Minh Châu hôm nay đã đạt đến mức thần tình, nhưng
đúng là
trong Cửa sông và Dấu chân người lính, Người đàn bà
trên
chuyến tàu tốc hành và Bến quê có không biết
bao nhiêu
chi tiết lặt vặt như vậy. Ngu ngơ, vâng; không đâu vào đâu,
đúng
thế, nhưng nếu thiếu đi thì lại mất hết cả cái gọi là duyên riêng của
văn chương.
Ngược lại, khả năng cảm nhận và nhu cầu nói ra bằng được những điều ngu
ngơ này
chính là khả năng biết nắm bắt cuộc sống với tất cả vẻ xù xì của nó, sự
đa dạng
của nó, và nhất là cái lung linh kỳ ảo của nó, từ đó hình thành cái gọi
là cảm
quan văn học như người ta vẫn nói. Suy cho cùng, thì một lối cảm
nhận đời
sống như thế đã có ở mọi người bình thường, nhưng chỉ ở các nghệ sĩ nó
mới được
khai thác đầy đủ, để rồi kết hợp với năng khiếu vận dụng ngôn ngữ mà
làm nên
những tài năng viết văn, một loại tài năng hiếm hoi mà đôi khi những
người
thông minh hơn, học thức hơn muốn có cũng không có nổi. Ai đã gặp gỡ
chuyện trò
với Nguyễn Minh Châu đều nhớ những nhận xét ngu ngơ này thường được ông
đưa ra
ngẫu nhiên, bất chợt thế nào. Cộng với lối nói, lối trình bày mọi
chuyện một
cách hình ảnh, nó làm cho những câu chuyện hàng ngày, ở Nguyễn Minh
Châu khá
hấp dẫn.
Kể về một người
bạn có thói quen ba
phải đúng hơn là nhút nhát, cầu an, tính toán đủ điều mới có ý kiến,
Nguyễn
Minh Châu bảo:
- Nếu phải viết
về thằng này, mình sẽ
tả nó đứng trong căn phòng lát toàn loại đá hoa nhỏ bằng độ bàn tay, cả
sàn, cả
tường, cả trần đều bằng đá hoa, và nó cứ đứng giữa phòng mà tính, đi
một bước
lại tính một bước - Xem nào, mình đang ở vào hàng thứ mấy rồi? Bước này
sẽ rơi
vào hàng thứ mấy?
Lại có lần nhân
bàn về nhu cầu cần
thiết mà cũng là tính cách tất yếu của sáng tác, Nguyễn Minh Châu phác
ra một
hình ảnh tượng trưng.
- Mỗi lúc nhớ đến
đời sống của bộ đội
ta trong những năm chiến tranh, tôi lại sực nghĩ đến ở đâu đó trên một
chặng đường
miền Tây Trường Sơn. Sau một trận bom, chúng tôi đi qua một cánh rừng
toàn cây
cà-bông - một loại cây có dầu, cháy rừng rực giữa trưa nắng và trong
nắng, lửa
và khói cứ làm bay cuộn lên những tờ giấy trắng. Hình như bom địch vừa
đánh
trúng một kho giấy giữa rừng. Chúng tôi đi qua khu rừng cháy, mãi đến
sẩm chiều
ngày hôm sau vẫn thấy những tờ giấy như
đang bay đuổi theo, có những tờ đã cháy mất
nửa. Những tờ giấy phơi cái mặt trắng giữa trời xanh hoặc đang nằm lẫn
trên cỏ,
trên nền rừng. Tất cả các tờ giấy ấy chỉ nằm chờ chúng tôi những nhà
văn viết
về chiến tranh, đến nhặt lấy.
Trước khi cho nó
hiện hình trong một
thiên tiểu luận (bài Nhớ những cánh rừng đầy giấy bay), những ý
tưởng
này đã được Nguyễn Minh Châu "nháp" trong nhiều lần trò chuyện với
anh em cơ quan. Chẳng trách mà mỗi lần nhắc đến Nguyễn Minh Châu, nhà
thơ Vũ
Cao chỉ chốt lại ở một nhận xét mà nhiều người cùng chia sẻ:
- Thằng cha ấy có
năng khiếu lắm!
Những ngày
thường của nghề nghiệp
Cuộc đời viết văn
của mỗi người không
chỉ bao gồm những ngày vui vẻ, những phút run rẩy trước trang báo còn
thơm mùi
mực, hoặc cuốn sách giấy trắng nõn nà, mà, giống như phần chìm của
những tảng
băng trôi, ẩn dưới những ngày vinh quang kia, còn cả cuộc đời lầm lũi
làm việc,
suy nghĩ, tranh cãi biện luận bàn nát việc này việc khác cốt tìm ra một
hướng
đi đúng đắn! Nhất là trong những ngày đầu khi người ta mới bắt tay làm
quen với
nghề, có bao nhiêu chuyện phải đắn đo, bàn bạc. Trong những phút tưởng như
lúng túng không cách gỡ nổi ấy, hình như
tự ta không đủ mà rất cần có thêm những người
khác, để ta dò hỏi, họ giống như
tấm gương, ta soi vào đấy, mà tự điều chỉnh.
May mắn cho tôi,
trong giai đoạn học
nghề ấy, tôi được công tác ở một trung tâm văn học rất mạnh là Văn
nghệ Quân
đội, ở đó, tôi tìm được hai người thầy mà cũng là hai người bạn
vong niên
là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Khải với tôi giống như một
thứ cha
đạo. Ông đến để chia sẻ với tôi ít điều đang nghĩ hoặc một ít nhận xét
về người
nọ người kia, nhất là để kháo với tôi ít chuyện về Hội nhà văn, là khu
vực tôi
biết ít, mà ông thì lại đang là một uỷ viên thường vụ, ông biết nhiều
lắm. Nhưng
nói cũng như viết ở
Nguyễn Khải bao giờ cũng là một cách để
thuyết phục người đọc, và thường chỉ sau khi ông xong việc ra về đối
tượng ông
vừa thuyết phục mới có dịp nhẩn nha ôn lại để hiểu điều ông vừa nói.
Còn Nguyễn
Minh Châu thì khác. Ông lầm rầm ngồi nói những chuyện tưởng như
vu vơ mà ai làm nghề cũng phải chạm tới. Có vẻ
nó là chuyện hình như ông đang phải nghĩ mà chưa tìm ra, nhưng chính vì
thế,
chuyện lại có sự hấp dẫn riêng. Và giải thích chuyện đó ra sao thì tuỳ
ở cái
tạng người nghe.
Về cái làng
nơi ông đã sinh ra và
lớn lên, một vùng quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh: Bao giờ rỗi, tôi sẽ
viết kỹ về làng tôi, một cái làng nó còn
thiên nhiên thiên bẩm lắm, dân chỉ biết đánh cá thôi về lại lên làng
trên đổi
bạc lấy rượu. Có anh rượu quá, chủ nó lột hết, chỉ để cho một cái quần
mà về.
Nghĩ cho cùng, một cái làng như
làng tôi, lại nứt ra một thằng viết như
tôi, kể cũng lạ.
Về cách đi
thực tế và lấy tài liệu: Có những người như
ông A, ông B. khi đi thực tế, ghi thật nhiều
thật kỹ... Tôi thì khác. Tôi ghi một phần thôi. Vừa ghi tôi vừa nghĩ.
Chẳng
hạn, gặp một người lính ở chiến trường ra, cái điều mình phải tập trung
soi dọi
là tìm xem giữa người lính ấy với bao nhiêu bạn đọc đang ở chiến trường
và chưa
ở chiến trường, có cái gì chung, thì phải làm bật lên bằng được. Rồi
lại phải
làm sao ghi lấy cả những kinh nghiệm cũ của mình nữa, những kinh nghiệm
mình có
từ lâu rồi nhưng không nhớ, giờ nhân gặp người lính kia, nó mới choàng
dậy.
Trong cơ quan tôi
bấy giờ có anh X. rất
nhạy cảm, bắt được cái gì đó là ngồi viết rất nhanh, máy chữ mổ như mưa
rào,
chỉ phải cái không thể ngồi lâu, cứ ít ngày lại nhấp nhổm chạy tạt sang
những
chuyện khác. Sau khi nhấn mạnh rằng ai có cách sống cách viết của người
đó,
Nguyễn Minh Châu tự nhận mình nghiêng về một cách làm việc từ tốn hơn:
"Quá trình viết truyện dài là quá trình nhà văn tự giam mình vào một
cái
nhà ngục, rồi dỡ ngói dỡ gạch mà ra dần dần. "
Lại có anh Y.
trên trang văn rất hay
chấm than. Khi nghe tôi nêu nhận xét đó, Nguyễn Minh Châu bảo: "Tôi thì
tôi rất sợ những dấu chấm than. Trong văn chương chỉ nên có dấu phảy và
dấu
chấm thôi. Còn những dấu khác đều có thể dùng lời mà thay được".
Những chuyện này
có vẻ như lặt vặt quá,
không nên để ý làm gì?
Nhưng theo Nguyễn
Minh Châu, tất cả đều
thuộc về khu vực nghề nghiệp mà một người viết văn phải quan tâm và có
cách xử
sự nhất quán.
Từ những gian
truân mà bản thân trải
qua trong quá trình viết một cuốn tiểu thuyết, có lần Nguyễn Minh Châu
rút ra
một bài học chung về nghề văn:
- Tôi viết lại
gần xong rồi. Cũng có
những chương mình thích lắm. Cái chính để tin vào những trang viết có
được
không, là ở chỗ có tìm thấy mình trong đó hay không. Với tôi, lần này,
cái sự
tìm ấy đã thấy, tức là con người mình cứ hiện lên sau các trang sách
không sao
giấu được. Tôi cho là nếu đừng chấp nhặt quá mà cho phép bốc đồng một
chút thì
người viết văn nào cũng có thể để vào đầu cuốn sách của mình mấy chữ Thân
tặng tôi, đề một cách nghiêm chỉnh, chứ không đùa bỡn tí nào cả.
Đại khái là thế -
trong cái vẻ cụ thể
rất tự nhiên, mọi câu chuyện của ông đều tìm cách đi tới khái quát cả
quá trình
tự nhận thức của con người. Có những nghệ sĩ chỉ làm mà không tự tìm
hiểu xem
mình đã làm ra sao, Nguyễn Minh Châu ngược lại là loại người vừa bước
đi vừa cố
tìm cách để hiểu rằng mình đang bước như thế nào và đấy chính là lý do
khiến
tôi mê mẩn.
Những người có
dịp sống ở Hà Nội, trong
những năm từ 1975 về trước, hẳn nhớ, bấy giờ đây là một thành phố rất
lặng lẽ.
Ngoài một vài chiếc Von-ga đen và một ít com-măng-ca,
ô tô hồi ấy
gần như không có. Và
những Honda, Suzuki... cũng
không hề có nốt, Hà Nội bấy giờ là thành phố của xe đạp! Mà cũng không
ai phóng
xe đạp vội vã, ngang ngược như
sau này. Tất cả từ tốn chậm rãi, đúng mực và cũng là an phận nữa.
Riêng với khu vực
chung quanh khu thành
cổ là doanh trại dành riêng cho bộ đội, thì đường phố nhiều lúc càng
thanh vắng
lạ.
Những buổi tối,
nhất là quãng từ mười,
mười một giờ trở đi, ngồi trên căn gác nhà số 4 Lý Nam Đế, nhìn sang
những hàng
sấu u u tối tối bên đường, có lúc anh em Văn nghệ quân đội
chúng tôi cảm
thấy mình như đang lạc đến một xứ sở xa xôi nào, và ở đó, sự suy ngẫm
về cuộc
đời của người ta được trở nên hoàn toàn mà không bợn một chút vướng mắc
nào cả.
Thời gian ấy, tôi
mới chưa đầy 30 tuổi,
chưa có gia đình riêng, nên đi đâu thì cũng về ngủ ở cơ quan. Còn
Nguyễn Minh
Châu lại gặp những trục trặc về nhà cửa (vợ con theo cơ quan đi sơ tán)
nên
cũng ăn cơm tập thể như tôi. Từ quãng độ 5 giờ, vác bát sang nhà ăn tập
thể báo Quân đội ăn cơm chiều, cho đến cả buổi tối, trước
khi ngồi vào bàn viết,
bao nhiêu là thời gian rỗi, có chán nhau đến mấy thì chúng tôi cũng cứ
phải tán
gẫu với nhau một lúc!
Thường thì ở nhà
số 4 Lý Nam
Đế này, không khí chuyện trò đã âm ỉ suốt ngày.
Song không phải
ai cũng thích hợp với
đám đông, thậm chí, cũng một con người mình thôi, nhưng có lúc ngồi
trong đám
đông thấy hào hứng mà cũng có lúc cứ thấy bật ra lạc lõng. Có những câu
chuyện
mà chỉ khi ngồi đối mặt hai ba người, nói một cách thật từ tốn, thật
chậm rãi
với nhau, người ta mới thấm thía hết ý nghĩa sâu xa của nó. Trò chuyện
bấy giờ,
trong hoàn cảnh gặp người tri kỷ, thật chả khác chi độc thoại.
Trong những buổi
tối yên tĩnh đó, tôi
đã hỏi Nguyễn Minh Châu đủ chuyện lẩn mẩn.
- Sao có lúc anh như
muốn tránh mọi người?
- Đã làm nghề
này, mà lắm lúc cứ cảm
thấy không gì ngại bằng phải sống cùng nhà với những thằng viết khác.
Ngồi một
mình lại nghĩ được nhiều chuyện.
- Hồi ở đơn vị,
anh nhìn những cây bút
trên này thế nào?
- Lúc ấy chưa có
ý niệm gì cả chỉ thấy
cái gì anh em đã làm thì mình cũng có thể làm được.
- Anh thường nghĩ
về Nguyễn Khải ra
sao?
- Trong cơ quan
có một thằng như thế rất
có lợi. Nó kích thích sự suy nghĩ của
chính mình.
- Trong các nhà
văn trong nước viết từ
trước 1945, anh thích những ai? Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng chứ?
- Người đáng nhớ
nhất ngoài Nguyễn
Tuân, phải kể Khái Hưng. Những cái ông ấy viết thật là tiểu thuyết đấy.
Tiêu
Sơn tráng sĩ rất giỏi, nói tới văn học Việt Nam
không thể không nói tới quyển ấy, không bỏ được
Khái Hưng khỏi lịch sử đâu. Chính Nhất Linh cũng viết không bằng.
Hết chuyện trong
nước, đến chuyện văn
chương nước ngoài. Chân trời của chúng tôi lúc ấy phảỉ nói là chật hẹp
không
rộng rãi như sau này,
thế nhưng nó cũng đủ khối thứ để bàn
mãi không chán.
- Trong các nhà
văn thế gới, anh cảm
thấy gần với ai?
- Cũng chả có ai
cả. Paustovski thích
mà Lev Tolstoy cũng thích. Nhưng lạ nhất có lẽ là Cholokhov với cái
chất hình tượng
trong câu văn. Đọc những người khác, có lúc còn nghĩ là mình sẽ viết
được.
Những trang tương tự Cholokhov thì chịu đấy.
- Có lẽ anh không
thích Ehrenburg?
- Thích chứ,
nhưng mà chả bao giờ mình
sẽ viết như thế. Ngắc ngứ mãi mới nhá hết Cơn bão táp để rồi
đọc xong
thì thấy phục - viết giỏi thật. Rút cục cả quyển sách hơn ngàn trang
ấy, điểm
còn lại chính là nhân vật ma quái mang tên Mado.
...Gorki có lẽ là
nhà văn to mồm nhất
mà mình phải chịu.
Và đây, một nhận
xét khái quát về văn
học nước ngoài, đúng chất một cây bút tự tin như
Nguyễn Minh Châu:
- Đọc những trang
sách hay, lắm lúc
mình cứ buồn cười: đâu như một lần mình đã nghĩ vậy, chỉ có điều, mình
không
kịp viết ra. Còn đằng kia, thì người ta đã cho nó hiện hình trên mặt
giấy.
Thành thử, đọc văn nước ngoài đôi khi cứ thấy tưng tức, như
là tiếng nước mình bị người ta ăn cắp vậy.
Trong những cuộc
đối thoại ngẫu nhiên
và thường xuyên lan man như thế, Nguyễn Minh Châu giảng giải nghề văn
cho tôi.
Sau này tôi mới hiểu rằng những chiêm nghiệm đó lại là những điều cơ
bản của
nghề nghiệp, nhiều nhà văn cả đời sống với nghề cũng chỉ nói tương tự.
Quá trình
trưởng thành
Từ một tạp chí
lưu hành nội bộ, tới đầu
1957, Văn Nghệ quân đội ra công khai, tức là có bán rộng rãi
như mọi tờ
báo khác. Ngoài bộ phận biên tập, Văn nghệ quân đội còn có một
tổ phóng
viên hoạt động theo sự chỉ đạo của ban phụ trách. Giả sử có một đề tài
nào đó,
được coi là quan trọng và tạp chí cần có bài, ban phụ trách liền cử
người đến
đó làm việc tác phẩm viết ra có thể là truyện ngắn, có thể là ký song
cuối cùng
vẫn phải gắn với không khí cái nơi được nói tới. Các nhà văn như
Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyên Ngọc...
lúc đầu đều đã làm việc theo sự chỉ đạo như
vậy và Nguyễn Minh Châu cũng không ra ngoài cái
lệ chung đó.
Trong bản niên
biểu, đặt ở đầu sách Nguyễn
Minh Châu con người và tác phẩm, còn thấy ghi rõ:
1962 - Đi thực
tế trường 400 pháo
binh
1963 - Đi Trà
Cổ
1964 - Đi với
bộ đội hải quân
...
Từ những chuyến
đi theo "đơn đặt
hàng" này, ông đã mang về một loạt truyện ngắn và ký in ra trên Văn
nghệ quân đội trong những năm ấy: Chuyện kể ở đại đội, Vùng
sáng phía
chân trời, Trên vùng đất sỏi.
Riêng Kỷ niệm
hạm tàu, viết sau
chuyến đi với hải quân ở Vĩnh Linh sẽ được đẩy tới, để cùng với kinh
nghiệm mà
Nguyễn Minh Châu đã có ở đồng bằng Bắc bộ, làm nên tiểu thuyết Cửa
sông.
Theo các đồng nghiệp ở Văn nghệ quân đội cũ kể lại, thì ban
đầu Cửa
sông chỉ là một thiên truyện trên ba chục trang gì đó. Khi bản thảo
được
toà soạn truyền tay nhau đọc, những người có kinh nghiệm một chút như
Nguyễn
Khải gợi ý: "Nên triển khai cho rộng ra". Xuân Sách cũng trêu chọc:
"Ông tiêu hoang quá! Tài liệu vừa cho một cuốn tiểu thuyết mà ông chi
dồn
vào có vài chục trang". Nguyễn Minh Châu dỡ cái truyện ngắn kia ra làm
lại. Và thế là Cửa sông ra đời.
Một lần nào đó,
Đỗ Chu nói với tôi (lúc này Đỗ Chu
vừa in
xong tập Phù sa nên tỏ ra khá lọc lõi):
- Lẽ ra tác giả
phải đến tận nơi, bảo
mấy ông bên nhà xuất bản Văn học in Cửa sông cho nhiều
thêm, ít
ra cũng 10.000 bản chứ sao lại có 7.000. Cái lão Châu này hiền quá!
Tôi cũng thấy
Nguyễn Minh Châu hiền
thật. Một hai năm sau khi sách được xuất bản, thỉnh thoảng còn bắt gặp
Nguyễn
Minh Châu lôi từ cái tủ tường ra một hai quyển Cửa sông mang
tặng. Hình
như ai hỏi ông mới đưa, chứ không tặng vung ra như một vài người khác,
nên sách
mới còn lưu cữu như vậy.
Đến như
quá trình Nguyễn Minh Châu làm việc cho tác
phẩm chính của đời mình là cuốn Dấu chân người lính, thì câu
chuyện lại
đáng chú ý ở sự kỹ lưỡng, chắc chắn của ông trong việc xử lý đề tài và
nghiền
ngẫm chọn hướng làm sách.
Nguyên là khi
chiến dịch Khe Sanh vừa
chuẩn bị mở màn, Phòng Văn nghệ quân đội đã cử ngay một tốp
các nhạc sĩ,
hoạ sĩ, nhà văn đi chiến trường, trong đó có Nguyễn Minh Châu và Xuân
Sách.
Giữa hai người, là cả một khoảng cách khá xa trong tốc độ làm việc. Từ
chiến trường
Xuân Sách đã có bài gửi về hết in trên báo, lại đọc trên đài. Xuân Sách
viết được
cả thơ, lẫn văn. Đâu đã có mấy cuốn sách cùng ký tên là Lê Hoài Đăng
(tên ba người
con của Xuân Sách) đã được in ra sau chuyến đi ấy.
Trong khi Xuân
Sách đã "trả
nợ" xong xuôi, thì Nguyễn Minh Châu còn loay hoay mãi. Có lúc ông cao
hứng
nói đùa:
- Tôi sẽ viết cho
nó thật mùi mẫn, thật
lắt léo, thì mới thích.
Tôi hiểu đằng sau
câu nói đùa này là
một tuyên bố: Ông sẽ viết tiểu thuyết.
Khi người ta đang
ngấm ngầm định làm
cái gì, thì tự nhiên là bị nó hút hết hồn vía, con người bình thường
hàng ngày
trở nên đờ đẫn chậm chạp, bao nhiêu tinh hoa nhanh nhẹn biến đi đâu cả.
Chết
một nỗi là sự hoài thai, sự mang nặng đẻ đau của Nguyễn Minh Châu lần
này to
lớn quá. Ông định có một cái gì bao quát được cả cuộc chiến tranh. Một
con người
vô hình trong ông ngày đêm kiểm tra lại mọi vật liệu đã được chuẩn bị,
rồi tính
toán việc cần phải làm, rồi hạch sách mình điều này, cật vấn mình điều
kia,
khiến người cứ bứt rứt không yên. Có khi đang ngồi nói chuyện giữa đám
đông,
ông cũng đứng lên bỏ về, như là chợt nhớ ra điều gì, phải ghi ngay,
không có
thì quên mất. Nguyễn Khải, người rất quen với tính khí Nguyễn Minh
Châu, có lúc
than phiền: Nói chuyện với ông Châu dạo này hơi khó. Nghiêm trang không
ra
nghiêm trang, nhảm nhí không ra nhảm nhí. Không biết lúc nào ông ấy vào
chỗ nào
cả.
Đỗ Chu
thì nói toạc ra sự nghi ngờ của mình:
- Em thì em cho
là khéo bác Châu bị tài
liệu nó hành cũng nên. Có nhiều anh ở ngoài Hội cũng nổi tiếng nhưng họ
chỉ nổi
tiếng một cách từ từ, đằng này Cửa sông đến với anh Châu trọn
vẹn quá,
đẹp quá. Tự nhiên là con người ta như
mất đà. Mấy tháng nay tâm thần trở nên bất
định, người lúc ấy trở nên mê mê đi rồi. Cái gì nở nhanh quá mà chẳng
chóng
tàn?
Rồi một vài câu
nói kiểu ấy cũng đến
tai Nguyễn Minh Châu. Ông hơi bực. Nhưng tôi biết ở ông có một khả năng
mà
nhiều người chúng tôi không có: sống đơn độc. Và đằng sau cái con người
nhạy
cảm mà chúng tôi mang ra cười cợt đó, trong ông còn có một con người
sắt đá,
đằng sau cái cách sống, đóng vai một kẻ tầm thường ("Việc quái gì
phải
nghĩ" "cũng cố mà viết cho xong, còn phải viết quyển khác, kiếm tiền
nuôi vợ con "... ) là một niềm tin lớn lao - tin vào điều kỳ diệu
của
văn chương.
Cho đến lúc mấy
chương đầu Dấu chân
người lính được in ra trên mặt báo (Văn Nghệ quân đội số ra
4-1970)
với cái tên Hành quân.
Cái ông Nguyễn
Khải của chúng tôi xưa
nay vẫn thế, nói cái gì thì nói đến cùng, lại nữa, giọng lưỡi quả
quyết, mồm
mép sắc như dao. Hình
như sau bao lâu không khen được ai
lần này có cái mà khen, Nguyễn Khải sung sướng lắm, đi đâu cũng nói:
- Phen này như
vậy là văn chương mình có cái mà so sánh nhé.
Nói một cách tóm tắt: Viết hành quân như
thế là không ai hơn được ông Châu này rồi! Tôi
vừa sang bên Hội Nhà văn thuyết một hồi, nghe tôi phân tích, ai cũng
công nhận.
Có người còn bảo không chừng vượt cả văn chương Trần Đăng ngày trước
nữa.
Nhưng đấy mới là
mấy chương mở đầu của
tập sách. Để hoàn thành Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu
còn phải
làm việc có tới một năm nữa.
Một buổi chiều
đầu thu 1972, đang ngồi
ở phòng, tôi được Nguyễn Minh Châu rủ đi chơi. Lâu nay, bọn tôi thường
vẫn
loanh quanh ở các hàng nước bên Quan Thánh, hoặc đầu Phùng Hưng, và ăn
vài cái
bánh rán rồi chiêu chén nước chè mạn là cùng. Lần này, Nguyễn Minh Châu
rủ tôi
đi xa hơn, ra mãi tận Hàng Chiếu, Nguyễn Siêu, chỗ có mấy hàng miến
lươn, bún
ốc. Thì ra, anh muốn khao tôi, sau khi nhận nhuận bút Dấu chân
người lính.
Những người thạo đời hơn, sau khi nhận nhận bút, thường rủ nhau đến các
hiệu
cao lâu. Với chúng tôi lúc ấy, mấy hàng quán bên đường cũng đã là đủ.
So với ngày
thường, vậy là Nguyễn Minh
Châu có bốc lên một tí. Hình như ông đã linh cảm thấy rằng trong cuộc
đời viết
văn của mình, từ đây sẽ có một bước ngoặt. Quả thật trước đó chỉ một ít
đồng
nghiệp gần gũi đánh giá cao nhà văn này, còn đông đảo bạn đọc chưa biết
ông là
ai. Còn từ Dấu chân người lính trở đi, ông đã trở thành một nhà
văn được
nhiều người yêu mến và trong giới sáng tác mọi người cũng bắt đầu nhìn
ông bằng
con mắt khác.
Viết về chiến
tranh từ góc độ hậu
chiến
...Hồi đang chiến
tranh quãng đầu chợ Bưởi
đi xuôi về phía Cầu Giấy có một địa điểm do quân đội quản lý gọi là
công trường
800. Đây là một loạt dãy nhà cao tầng mới được mọc lên trên mảnh đất
từng là
cánh đồng của làng Nghĩa Đô và bởi lẽ lúc này chỉ có nhà cửa mới làm
còn đường
sá chung quanh chẳng ra làm sao nên động mưa một tí là lầy lội. Nói như
Nguyễn Minh Châu, khu nhà chẳng khác gì một anh
chàng vận com-lê mà lại đi đất và như
người phải tội cứ đứng phơi mặt giữa đồng. Đi
sâu vào hỏi han thì thấy ở đây có nhiều cơ quan, do nhu cầu sơ tán mà
các cơ
quan chẳng có liên quan gì đến nhau ấy cứ ở lẫn vào nhau. Có những cái
kho để
trung chuyển hàng trước khi ra tiền phương; có trạm dưỡng thương dành
cho anh
em ở chiến trường về nghỉ tạm; có nơi ở khá tươm tất của một số cán bộ
cấp cục;
lại có cái bệnh viện 354 mà người vợ tần tảo của Nguyễn Minh Châu làm
việc.
Chính đây là nơi
Nguyễn Minh Châu đã
ngồi viết Dấu chân người lính.
Nhưng cũng chính
ở đây ông có dịp tiếp
xúc với cuộc chiến tranh từ một góc độ gần gũi mà ít ai để ý.
Đi trong khu vực
công trường 800, lúc
nào người ta cũng bắt gặp những người lính từ các chiến trường phía
trong mới
ra. Họ chỉ ở Hà Nội it lâu để nhận hàng (quân trang quân dụng cho đơn
vị) hoặc
chữa bệnh. Trong những giờ rỗi rãi, Nguyễn Minh Châu trò chuyện với họ,
và từ
đây ông đã tìm ra cảm hứng và tài liệu để viết Lửa từ những ngôi nhà,
nó
chính là sự thể nghiệm đầu tiên của Nguyễn Minh Châu đối với đề tài mà
về sau
ông sẽ để công theo đuổi: cuộc sống của những con người bước ra từ
chiến tranh.
Nhiều lần trong câu chuyện với tôi Nguyễn Minh Châu dừng lại kể về một
chiến sĩ
đặc công đang nằm an dưỡng. Sau một lần va chạm với một người bình
thường nào
đó mà còn kìm giữ được, cậu ta sung sướng nói với nhà văn:
- May quá anh
Châu ạ, tôi chỉ ra đòn
nhẹ thôi, thì cũng đủ cho lão ta tan nát lục phủ ngũ tạng. ấy vậy mà
tôi không
động chân động tay gì hết, chỉ từ tốn nhỏ nhẹ nói chuyện với lão ta.
Hoá ra
mình vẫn có thể làm chủ được mình.
Sau này, Nguyễn
Minh Châu đã đưa người
chiến sĩ này thành nhân vật Phong trong Lửa từ những ngôi nhà. Theo
dõi
người bạn trẻ với nhiều lo lắng, bao lần ông tự hỏi: liệu người anh
hùng sau
chiến tranh có thể vẫn sống như
người bình thường? Trường hợp của Phong mang
lại cho ông nhiều tin tưởng.
Lửa từ những
ngôi nhà không phải là cuốn truyện hay, nó không được
đánh giá cao như Dấu chân người lính hoặc các truyện ngắn khác
của
Nguyễn Minh Châu, nhưng theo tôi nó là bằng chứng cho thấy một cách làm
việc
của nhà văn là chăm chú quan sát ngay cuộc sống quanh mình và xem trọng
việc
khắc hoạ những sinh hoạt bình thường cùng là cái không khí thời chiến ở
nơi
không có tiếng súng. Một cách lặng lẽ, ngay từ thời gian 1971-1972,
Nguyễn Minh
Châu đã suy nghĩ về cuộc chiến tranh một cách toàn diện và nhất là băn
khoăn
tìm hiểu những dấu vết mà nó để lại trong lòng người. Một hình ảnh mà
ông thường
dùng để liên tưởng chiến tranh là gió ông cụt, thứ gió không đi thành
cơn nhưng
để lại những vòng xoáy ở nơi nó đi qua. Những chuyến long đong dọn nhà.
Máy lần
đạp xe về thăm bà mẹ già ở làng quê Quỳnh Lưu Nghệ An. Hoặc một chuyến
đi công
tác về một địa phương nào đó... Với cái thực tế ở ngay bên mình và có
liên quan
tới mình đó, Nguyễn Minh Châu để tâm quan sát, thăm dò, cắt nghĩa... và
thèm có
dịp trình bày những điều đã chiêm nghiệm trên trang giấy.
Thói quen này còn
theo mãi với nhà văn
khi gia đình ông dọn về khu tập thể phố Ông ích Khiêm. Còn nhớ cái chỗ
đặt bàn
viết của ông những năm cuối đời. Bấy giờ gia đình ông đã được chia một
căn
phòng riêng khoảng chưa đầy ba chục mét. Nhưng căn phòng chính quá
chật, muốn
tự do một chút lúc ngồi viết, ông chỉ có cách cơi ra thêm một đoạn ngắn
đủ kê
cho mình một chiếc giường cá nhân, còn bàn viết của ông thì tiếp ngay
vào đoạn
cuối giường. Với một cái điếu dùng để hút thuốc lào đặt ở dưới chân,
trong
những đêm trường giá lạnh, Nguyễn Minh Châu ngồi đấy, ngẫm nghĩ đủ thứ,
từ sự
lớn lên của những đứa trẻ bên hàng xóm cho đến những con người ông từng
gặp và
trò chuyện trên những ngả đường Quảng Trị. Đây chính là sự chuẩn bị tự
nhiên và
chín chắn cho những tác phẩm như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Chiếc
thuyền ngoài xa, Cỏ lau mà sau 1975, Nguyễn Minh Châu sẽ hoàn
thành những
năm cuối đời.
Không phải chỉ
bằng bản năng
Năm 1968, khi tôi
được chuyển về công
tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội thì bộ phận nghiên cứu phê bình
ở đây
còn rất yếu ớt, trước tôi chỉ có nhà phê bình Nhị Ca, dù có cố gắng đến
đâu thì
hai chúng tôi không thể lo hết việc. Bởi vậy ở toà soạn mới đặt ra cái
lệ là
chính các nhà văn chuyên sáng tác cũng phải tham gia viết cho mục này,
đọc
sách, phê bình, trình bày kinh nghiệm sáng tác và suy nghĩ về nghề
nghiệp thế
nào cũng được miễn sao một năm có đủ hai bài.
Phải nói thật gọi
là quy định thế thôi
chứ bọn tôi cũng biết là nhiều anh em trong cơ quan không thích thú gì
với việc
này. Hoặc các anh khất lần không viết hoặc có viết cũng chỉ hươu vượn
cho qua.
Riêng có hai
người hào hứng viết, chỉ
cần bọn tôi ới một tiếng là có bài đúng hẹn, chẳng những thế theo tôi
là còn
viết với nhiều ý đồ rõ rệt, đó là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
Xin tạm gọi những
bài sổ tay viết văn,
hoặc đọc sách phê bình của Nguyễn Minh Châu là một thứ tuỳ bút nghề
nghiệp.
Những bài viết này được viết theo kiểu những chiêm nghiệm của một nghệ
sĩ đang
trên đường tìm tòi. Tuy ở đó có những điều có phần sơ đẳng hoặc gần như
ai cũng
biết, song người ta vẫn thích được đọc nó, bởi một lẽ đơn giản tác giả
đã sống
với nó một cách chân thành, đã mang vào đây tất cả tâm huyết của một
người cầm
bút nó là những băn khoăn trăn trở thường trực của ông, và ông có nhu
cầu phải
viết nó ra để, trước khi chia sẻ với bạn đọc thì tự ông được đối diện
với nó,
cùng sống với nó mà làm văn chương.
Thơ Phạm Tiến
Duật là một hiện tượng được
cả xã hội chú ý hồi chống Mỹ và nhiều nhà văn nhà thơ thường đã nêu ra
nhiều
vấn đề của sự sáng tác nhân đọc những bài thơ như Lửa đèn, Gửi em
cô thanh
niên xung phong... Nguyễn Minh Châu cũng có bài viết Người
viết trẻ và
cánh rừng già. Mở đầu ông để một đoạn dài tả khá kỹ cái nơi Duật
thường tá
túc những khi từ chiến trường về Hà Nội nào là để vào được căn phòng ấy
ông đã
phải "dắt chiếc xe đạp lách qua hàng dãy xe xích lô dãy hàng vỉa hè
những
dãy gà trống gà mái bày la liệt của những người đàn bà và những anh bộ
đội phục
viên mang từ thôn quê lên bán", nào là "lối đi lên gác phải đi qua
nhà dưới, một cái bậc thềm đổ xuống vỉa hè treo những sợi dây rút, bấc
đèn dầu
hoả và trên cánh cửa có cái biển đề ở đây lộn cổ áo sơ mi". Tác giả Dấu
chân người lính tỏ ra đặc biệt thú vị khi nhận ra rằng Duật đã
ngồi đấy để
viết những câu thơ về chiến trường. Và ông khái quát:
- Không biết có
thể gọi là một kinh
nghiệm nhỏ được không, tôi nghiệm thấy rằng trong những năm qua tôi
không thể
viết nổi cái gì nếu không ra thoát khỏi cái thực tế mà tôi đã lấy tài
liệu. Từ
cái môi trường mới, ta có thể nhìn thấy mọi người mọi vật ở nơi cũ một
cách bao
quát hơn... Nếu xuống biển hay về thành phố chúng ta sẽ nghĩ về rừng
sáng tỏ và
khái quát hơn, tất nhiên trước đó phải có những ngày sống ở rừng sống
lâu dài
và hết mình.
ở đây Nguyễn Minh
Châu đã động đến một
vấn đề mà lý luận văn học trong thế kỷ XX mới đề cập tới đó là sự lạ
hoá trong
nhận thức và khám phá đời sống. Nhưng chỗ xuất phát của ông lại chính
là hoàn
cảnh sáng tác của ông những điều ông phải đối phó hàng ngày, nó là cái
cuộc
sống long đong lật đật không sao lảng tránh nổi. "Cách tốt nhất để tiêu
hoá những khó khăn trong cuộc đời riêng là phải đưa được nó vào trang
viết" - tôi nhớ có lần ông đã nói với tôi như vậy và sự thực là càng về
sau ông càng tỏ ra hào hứng vì đã mang được cuộc đời quanh mình vào tác
phẩm.
Sự đời có những
chuyện rất lạ mà nếu nó
không xảy ra thì chẳng ai dám hình dung là có. Chẳng hạn vào khoảng
1979-1980,
nổi lên một cuộc tranh luận chung quanh bài viết của Hoàng Ngọc Hiến
nhan đề Về
một đặc điểm của văn học nghệ thuật nước ta trong giai đoạn vừa qua,
mà nội
dung chủ yếu là phê phán cái gọi là chủ nghĩa hiện thực phải đạo do
Hoàng Ngọc
Hiến khái quát. Song có một điều nhiều người không để ý ấy là luận điểm
này của
Hoàng Ngọc Hiến được gợi ý từ một ý tưởng của Nguyễn Minh Châu. Trong
khi suy
nghĩ chung quanh việc viết về chiến tranh, ông lờ mờ cảm thấy "Hình như
trong ý niệm sâu xa của người Việt Nam chúng ta, hiện thực của văn học
có khi
không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người
đang hy
vọng đang mơ ước" bởi vậy các nhân vật trong các tác phẩm viết viết về
chiến tranh "thường khi có khuynh hướng được mô tả một chiều thường là
quá
tốt, chưa thực". ý Nguyễn Minh Châu muốn có một sự thay đổi và nói sao
viết vậy, ông đã thực hành trong sự sáng tác của mình. Thử đọc lại
những trang Cỏ
lau của ông, người ta sẽ thấy ở đó có nhiều nhận xét về chiến tranh
được
phát biểu từ gan ruột của người trong cuộc, thực tế ở đó là cái đang
tồn tại
chứ không phải là cái người ta mơ ước.
Hoá ra, Nguyễn
Minh Châu không chỉ là
một nhà văn viết theo bản năng một người rất có năng khiếu như
mọi người thường nhận xét. Mà đấy còn là một
nhà văn có nhiều suy nghĩ trước khi đặt bút viết và không thôi suy nghĩ
khi
nhìn vào sáng tác của các đồng nghiệp đồng đội khác. Đôi khi cái thiện
ý đưa
mọi chuyện lên một tầm ý thức cần thiết có làm cho truyện của ông mang
tính
chất luận đề gò bó. Song sự nỗ lực của ông thì không ai có thể phủ
nhận.
Sống giữa giới
cầm bút
Khi một cây bút
còn đang trong cảnh hàn
vi, với anh ta chỉ có mỗi một việc duy nhất là viết, tác phẩm làm nên
nhà văn,
người ta có thể đọc văn anh mà không biết anh là ai. Còn sau khi đã cho
in ra
những tác phẩm được xã hội thừa nhận thì những việc phải giải quyết bề
bộn hơn
nhiều. Không những phải lo viết tiếp mà còn phải lo sống sao như
một nhà văn - cái đó mới khó. Thời đại này
không chấp nhận loại nhà văn ở ẩn, nhà văn sống riêng ra theo cái cách
sống
riêng của mình. Nói ra thì nghe có vẻ to tát nhưng sự thực là có cả mối
quan
hệ trực tiếp của anh với xã hội và nó phải được giải quyết đúng
với tầm vóc
nhà văn đang có. Ngoài ra, mối quan hệ với những người cùng nghề là một
mắt
xích quan trọng trong công việc mà anh phải liệu trước tiên là trong
khuôn khổ
cái hội nghề nghiệp mà anh là một bộ phận.
Từ sau Dấu
chân người lính, vấn
đề này bắt đầu đặt ra với Nguyễn Minh Châu và ông đã chứng tỏ bản lĩnh
của mình
trong việc theo đuổi một quan niệm về nhà văn vốn đã âm thầm tự hình
thành nơi
ông từ thuở mới cầm bút. Nếu như
hồi đầu chống Mỹ, ông chỉ được coi như
một người viết chăm chỉ và có năng khiếu thì
vào những năm chiến tranh đi dần đến kết thúc, ông đã trở thành một
trong những
nhà văn nổi tiếng nhất của đời sống văn học Hà Nội. Sau hơn hai chục
năm đứt
đoạn mãi tới 1983, Đại hội nhà văn VN lần thứ ba mới được triệu tập và
tại Đại
hội này, Nguyễn Minh Châu mới được bầu vào Ban chấp hành. Nhưng từ
khoảng
1974-1975 trở đi, ông đã thường được mời tham dự nhiều cuộc họp mở rộng
của Ban
chấp hành khóa hai, và được tham gia bàn bạc nhiều việc có ý nghĩa
quyết định
với đời sống văn chương ngay khi mọi người có trách nhiệm còn đang cùng
nhau dò
dẫm tính toán. Ông có mặt trong ban giám khảo các cuộc thi. Rồi ông
nhận hướng
dẫn cho một vài bạn trẻ nào đó trong một trại viết do Hội nhà văn VN
hoặc Phòng
Văn nghệ quân đội tổ chức. Nếu hiểu danh và lợi theo nghĩa thông thường
thì có
vẻ như Nguyễn Minh Châu
sớm tính chuyện tránh những
cái đó. Thực thà là ông không có ham hố nào khác ngoài ham hố viết.
Song có một
cái vai mà hình như ông không ngại hơn nữa còn tự nguyện đảm nhận, đó
là cái
vai một nhà văn lý tưởng, một nhà văn nói lên tiếng nói của những người
lương
thiện, nhà văn như là tiêu điểm của cả nhân dân, đất nước. Trở thành
lương tri
của xã hội - cái điều nhiều cây bút thời nay trong thâm tâm cũng thấy
đúng, nhưng
lại cho là xa vời cao siêu quá - chính là điều Nguyễn Minh Châu cảm
thấy một
cách máu thịt và muốn lấy cả đời văn của mình ra để thực hiện.
Những ngày cuối
cùng của ông ít nhiều
gợi lại không khí của một bi kịch hào hùng khi mà cái chết ập đến song
cái chết
đó chẳng có ý nghĩa gì với những tư tưởng đang bừng sáng trong lòng
người. Từ
Nguyễn Khải, Thái Bá Lợi tới Nguyễn Kiên, Nguyễn Trung Thu..., người
nào có dịp
gặp Nguyễn Minh Châu trước khi chết đều ghi nhớ những lời căn cặn của
ông về
những việc phải làm cho cả nền văn học cũng như cho xã hội. Nguyễn Đăng
Mạnh
từng ghi lại mấy câu tâm huyết ông nói trên giường bệnh: "Tư tưởng bảo
thủ
từ đất đùn lên, nó chủ yếu là nội sinh chứ không phải là ngoại nhập. Nó
chi
phối cả chính trị, triết học, khoa học văn hoá văn nghệ... Nghĩa là lắt
nhắt,
thiển cận, không nhìn xa, nước đến đâu thuyền dâng đến đấy. Nông dân
rất tình
nghĩa nhưng cũng có lúc rất tàn bạo đấy. Nông dân rất thích vua, thích
trời và
thích cát cứ. To làm vua nhiều nước, cả thế giới. Bé, làm vua một tỉnh,
một
huyện, một xã, một phường, một nhà (...) Nhà văn muốn có tầm cỡ thời
đại thì
lại phải ngụp sâu vào dân tộc mình nhân dân mình. Nhưng phải rất tỉnh
không được
sướt mướt. Tôi ghét cái lối tình cảm làng xóm không biết gì đến thiên
hạ chỉ
tâng bốc lẫn nhau, con hát mẹ khen hay. Marquez rất thời đại rất lớn mà
Colombia
rất nhỏ..."
Có thể xem đây là
một dịp cho thấy cái
tầm vóc nhà văn mà theo Nguyễn Minh Châu, mỗi người cầm bút phải vươn
tới và
bằng cuộc đời của mình ông đã vươn tới.
Cũng nên nói thêm
là thời gian Nguyễn
Minh Châu gặt hái được nhiều kinh nghiệm trong sáng tác cũng là những
năm mối
quan hệ văn học Việt Nam Liên xô được mở rộng. Nguyễn Tuân và Tô Hoài,
Nguyễn
Đình Thi và Nguyễn Khải... những nhà văn hàng đầu của Việt Nam
có tác phẩm dịch ra tiếng Nga và sau đó thông
qua tiếng Nga được dịch in ở Hungary,
Ba lan, Bungari... Nhiều người cầm bút ở Việt Nam
chỉ đơn giản tự hào rằng như
thế tức là văn học Việt Nam
có dược đường ra với thế giới. Song cũng có một
số người trong đó có Nguyễn Minh Châu muốn đẩy ý nghĩ đi xa hơn: Luôn
luôn ông
băn khoăn tự hỏi sách của mình dịch ra có ai đọc, liệu những trang sách
ấy có
giúp bạn đọc ở những phương trời xa xôi kia sống tốt hơn và có ý nghĩa
hơn. Ông
thừa hiểu rằng một số dịch phẩm ra đời chỉ để làm chứng cho tình hữu
nghị, và
ông không muốn cái đặc ân đó rơi vào đầu mình. Có những lần đi công tác
nước
ngoài trở về, ông tỏ ý không vui, vì hình như các nhà văn bên nước bạn
người ta
chỉ đón mình như một nhà văn Việt Nam
nói chung mà không ai biết mình đã viết những
gì. Bởi vậy khi nhà văn Xuân Sách tỏ ý khen Khách ở quê ra, xem
như một
"truyện cỡ thế giới" thì Nguyễn
Minh Châu còn cố gặng hỏi lại "Có thật ông Sách khen tôi như
vậy không?" Có thể dự đoán trong khi viết
nên thiên truyện này tác giả của nó cũng đã thoáng cảm thấy không chừng
lần này
mình đạt tới cái đích cao vời mà mình hằng ao ước và khi nghe điều đó
toát lên
từ miệng một người đọc sành sỏi như Xuân Sách thì ông vui sướng vô hạn.
Năm 1978, sau khi
cùng với Nguyễn Minh
Châu đi thăm Liên xô trở về, nhà thơ Xuân Quỳnh chỉ kể với tôi một chi
tiết
nhỏ. Là cái ông Châu này buồn cười lắm, chả biết lạ là gì cả, gặp ông
Tây bà
đầm nào cũng trò chuyện tự nhiên y như
là cánh đồng nghiệp mình ở nhà vẫn đùa với nhau
mà tự nhiên thế đâm ra tây họ lại thích". Tôi hiểu rằng như vậy là với
Nguyễn Minh Châu, cái điều gọi là "gia nhập vào đời sống văn học thế
giới" (lời ông nói với Nguyễn Kiên) hoặc "hoà đồng cùng nhân
loại" (tên một bài viết cuối cùng của ông) không phải chỉ là lời kêu
gọi
chung chung mà là những điều tự ông cảm nhận một cách sâu sắc, ông sống
như ông
đã nghĩ.
Nghệ sĩ và
thời đại
Nhân đây tôi muốn
phác họa lại vài nét
về con người nhà văn mà đối với tôi, như sinh ra để viết văn và dù chưa
xác
định là nhà văn nhỏ hay nhà văn lớn thì chắc chắn đã là một nhà văn
theo đúng
nghĩa của hai chữ ấy.
Xuân Thiều - cây
bút có thời gian là
bạn nối khố của tác giả Dấu chân người lính - kể lại rằng lần
đầu gặp
Nguyễn Minh Châu chỉ nhớ đó là một chàng trai tầm thước trắng trẻo có
nụ cười
rất tươi tuy dáng vẻ còn bẽn lẽn.
Quả thật chất thư
sinh là một cái gì
thấy rõ ở nhà văn này, chất thư sinh mà chúng ta thường bắt gặp ở những
chàng
trai gia đình không hẳn là giàu có nhưng ngay trong thời Pháp thuộc đã
được cắp
sách tới trường và biết say mê với vẻ đẹp tinh thần của con người: họ
sinh ra
để cảm thụ đời sống hơn là để hành động. Còn nhớ một trong những nhân
vật chính
của Dấu chân người lính chính là anh chàng Lữ một cậu học sinh
có nhiều
chất thi sĩ. "Những nét trên khuôn mặt Lữ thật là khó nắm bắt vầng
trán
có lúc tối sầm rồi có lúc lại thanh thản và dưới vầng trán ấy là một
cặp mắt
nằm rất xa nhau đen màu chì với vòm mắt rộng luôn luôn thay đổi màu sắc
đậm
nhạt và lúc nào cũng đang nhìn một vật gì đó hoặc đuổi theo một ý nghĩ
gì đó".
Có thể thấy là Nguyễn Minh Châu đã vô tình tự khắc hoạ chân dung của
mình trong
đoạn miêu tả Lữ như vậy.
Cái chất thư sinh
này còn mãi ở Nguyễn
Minh Châu, khi vui chuyện ông còn kể với tôi là những ngày mới nhập
ngũ, có lần
xách bát đi ăn thấy người xếp hàng đông quá đã quay về.
Nhưng cuộc chiến
đấu đã dung nạp tất
cả, con người thư sinh này đã đi qua cuộc chiến đấu làm tròn mọi nghĩa
vụ của
mình như một chiến sĩ đồng thời vẫn giữ được cái bản chất nghệ sĩ đáng
yêu.
Đó là một con
người lơ mơ sự đời, sống
giữa mọi người mà hồn vía để ở tận đâu đâu. Ngay giữa đám đông ông vẫn
có thể
chìm đắm trong những suy nghĩ riêng, có nói năng gì cũng ngúc ngắc mãi
mới phụt
ra một câu lạc lõng.
Sự vô tâm của
Nguyễn Minh Châu kéo dài
tới mức thỉnh thoảng nhà thơ Xuân Sách lại đặt câu hỏi không hiểu sao
có lúc
ông lại có thể trở thành cán bộ tham mưu thuộc một sư đoàn tác chiến ở
đồng
bằng sông Hồng.
Có điều, khi
thanh thản tính chuyện
quan sát sự đời, thì ông lại trở nên một người đối thoại thú vị, loại
người mà
người ta một khi rỗi rãi thích mò đến trò chuyện.
Thường ông vẫn tự
nhận "Tôi cũng
tẻ lắm đóng quân ở đâu xong, trở lại không ai người ta nhớ mình cả".
Song
lúc cao hứng lại tự hào:
- Mình chỉ nói
vài câu thế là cậu chủ
nhiệm thấy tin kỳ nào đi thăm đồng cũng rủ đi cùng.
- Hồi tôi ở đấy
cậu giám đốc nông trường
rất thích tôi vừa giải quyết xong chuyện gì lại tong tóc kể ngay với
mình.
Cái tài của một
người biết đối thoại là
đặt mình vào địa vị người đang nói chuyện để khéo léo lần ra những đầu
mối mà
người ấy quan tâm. Nguyễn Minh Châu chính là một người như thế ông biết
đến với
người đối thoại với mình một cách tự nhiên, không cần một chút dụng tâm
cố
gắng. Hơn thế nữa, ông còn biết mang lại cho đối tượng cái cảm giác như
đang tự nói với mình. Hoạ sĩ Quang Thọ, có thời
rất mê Nguyễn Minh Châu nôm na tổng kết "Không thể nói dối với thằng
này được".
Chất văn trong
con người Nguyễn Minh
Châu bắt nguồn từ một khả năng rất cần cho các nghệ sĩ: Luôn luôn ông
biết nhìn
sự vật xảy ra chung quanh mình một cách mới mẻ.
Ông hết lòng với
đời sống theo cái cách
riêng của mình. Có thể bảo ông là một người rất có trách nhiệm với
chung quanh
với nghĩa luôn luôn ông muốn tìm ra ở thực tại những bí mật, những gì
tốt đẹp.
Và khi đã tìm ra thì ông dứt khoát không bỏ qua và phải nói to lên cho
mọi người
cùng thấy.
Chẳng phải là
khiêm tốn vờ vịt gì
Nguyễn Mịnh Châu tự kể: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè
và
nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt đến ma quỷ. Sau này lớn lên đến gần
sáu
chục tuổi, đến một nơi đông người, tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và
chỉ có như thế mới cảm
thấy dược yên ổn và bình tâm như
con dế đã chui tọt được vào lỗ." Phải nhận
đó là một nét tính cách có thực. Nhưng nên nói thêm rằng đằng sau sự
nhút nhát
đó lại là khả năng chăm chú theo dõi cuộc đời chung quanh vui sướng
giận hờn vì
nó như trên tôi vừa nói,
và nhất là cái quyết liệt
trong việc đi đến cùng trong suy nghĩ. Trong sự lắng nghe mọi người,
ông vẫn
giữ riêng cho mình những ý kiến riêng, thậm chí trong một lần nói
chuyện riêng
với tôi ông còn tự hào một cách chính đáng rằng vẫn luôn luôn giữ được
một khả
năng hoài nghi. Dường như
sau những phút giao cảm với đời sống ông lại để hết tâm sức vào cái
việc quay
về với thế giới riêng của mình trước khi cho nó hiện hình trên mặt
giấy.
Một khía cạnh nữa
làm nên khí chất nhà
văn của con người này: Ông có một cảm quan ngôn ngữ tinh tế. Trong
những lúc
xuất thần, ông nói đầy thuyết phục, giá kể có cách nào đó ghi ngay được
những
điều ông nói thì nó cũng đã duyên dáng tự nhiên như
một thứ văn viết điêu luyện. Bản thảo ông gửi
cho cánh biên tập chúng tôi thường chỉ được ông viết một lần tuy có
gạch xoá
song nói chung vẫn sáng sủa mạch lạc.
Đi dần tới một
tư duy văn học hiện
đại
Một lần nào đó
trong câu chuyện tạt
ngang với tôi, nhà thơ Lê Đạt ngẫu nhiên nhận xét: "Quái, mình để ý thì
thấy Nguyễn Khải không chịu thay đổi gì trong cách viết, chứ đọc Nguyễn
Minh
Châu mà xem, tay ấy có thay đổi". Tôi không cãi lại Lê Đạt, trong bụng
nghĩ nhận xét trên là oan cho Nguyễn Khải, song với Nguyễn Minh Châu
thì lại
quá đúng. Trong mấy chục năm liên tục cầm bút, tác giả Dấu chân
người lính đã
thay đổi khá nhiều, tuy rằng cũng chỉ thay đổi trong điều kiện mà con
người ông
có chuẩn bị.
ở trên, tôi đã kể
là Nguyễn Minh Châu
đến với các buổi "giao ban" của anh em đồng nghiệp với đủ bộ mặt khác
nhau. Có lúc ông im lặng ngồi nghe. Lại cũng có lúc thao thao bất tuyệt
mọi
chuyện. Với năng khiếu văn học bẩm sinh, nói cái gì Nguyễn Minh Châu
cũng hay
ví von, để tạo nên hình ảnh. Kể ra, lúc rỗi ngồi nghe cũng thú vị.
Nhưng cũng
có lúc không hợp. Trong cơ quan tôi hồi đó, có nhà phê bình Nhị Ca vốn
rất từng
trải, lại có cách sống thiết thực nên rất nhạy với chuyện này. Thấy
Nguyễn Minh
Châu bắt đầu mơ màng như người say thuốc lào loạng choạng trong lối nói
lối
nhận xét rất chủ quan của mình, Nhị Ca tủm tỉm không nói gì, chỉ quay
ra làm
nốt ít việc riêng đang làm dở, như biên tập nốt mấy trang bài, hoặc dọn
dẹp
ngăn tủ, chờ cho Nguyễn Minh Châu nói hết mới buông một câu nửa nạc nửa
mỡ:
- Cái ông Châu
này mải sống trong cái
thế giới văn chương ông ấy đang viết nên quên hết cả lối nói thông
thường hay
sao ấy, anh em ạ.
Có lần, chưa để
Nguyễn Minh Châu kịp
bắt sang một câu chuyện mới, Nhị Ca đã hoa tay ngăn lại, và "phang"
một đòn vỗ mặt:
- Thôi đi ông.
Lại sắp làm văn tả cảnh.
Sốt cả ruột!
Trong lúc Nguyễn
Minh Châu vẫn thản
nhiên, chỉ há hốc miệng cười trừ thì Nguyễn Khải ngồi cạnh mới thật
sung sướng
vì lối trừng trị thẳng tay của Nhị Ca, cứ gọi là rũ ra mà cười. Chả
Nguyễn Khải
dạo này đang chủ trương phải viết cho thật trực tiếp. Anh ấy đi ra
cửa. Gió
thổi mạnh... Thế là đủ, chứ không phải uốn éo gài thêm những hình
dung từ
cho thêm văn hoa. Và Nguyễn Khải dẫn chứng: đọc bản thảo của các nhà
văn lớn người
ta thường nhận thấy những đoạn văn chương véo von lại là những đoạn bị
gạch đầu
tiên. Còn Nguyễn Minh Châu, điểm xuất phát của ông là một cảm quan văn
học
nhiều phần cổ điển.
Cái lý của Nguyễn
Khải không ai bác bỏ
được.
Song lại phải nói
ngay rằng ở tác giả Dấu
chân người lính còn có một phương diện khác như
ở trên chúng ta vừa thấy, và hoàn toàn có thể
bảo đó là một biểu hiện khác của tinh thần hiện đại. Luôn luôn nghiền
ngẫm về
nghề và tự tin ở con đường độc đáo của mình, có lúc ông đã đi tới những
quan
niệm mà những người khác phải nhiều năm lăn lộn với sách vở mới đi tới.
Quá trình hiện
đại hoá tư duy văn học
của Nguyễn Minh Châu đánh dấu một quá trình làm việc tự nhiên song phải
nói là
vất vả của một người tự học. Ông không có may mắn là qua tiếng
Pháp đọc
rộng ra nhiều tác phẩm nước ngoài như
Nguyễn Khải. Nhưng các bản dịch có giá trị thì
không cần ai mách, ông nghiền ngẫm rất kỹ. Một trong những cuốn sách
ông thích
từ hồi ấy là Những người chân đất của Zaharia Stancu và do
Trần Dần dịch
ra tiếng Việt. Còn bản dịch tiểu thuyết Tấc đất của G. Baklanov
thì là
cuốn sách ông đút trong ngăn kéo hồi đang viết Dấu chân người lính.
Có
thể nói do sống kỹ sống hết lòng với trang viết của mình, ông lại tìm
thấy sự
hỗ trợ ở cả những trang sách tưởng rất xa lạ ấy.
Cái mạnh của ngòi
bút Nguyễn Khải là
cái gì cũng phải rạch ròi sáng rõ. Nguyễn Khải không biết tới những
hoàn cảnh
mù mờ những nhân vật lửng lơ mà người ta chỉ biết mô tả chứ không cắt
nghĩa
ngay được. Nhưng đó cũng là chỗ yếu của tác giả Xung đột. Nguyễn
Minh
Châu thì khác. Loại nhân vật như lão Khúng lôi cuốn sự say mê
của ông.
Trong đời sống hàng ngày ông đã thích những con người có hình có khối
kỳ lạ
những khung cảnh mù sương mà bản thân ồng chỉ biết đi theo và thích thú
quan
sát bằng tất cả bản năng sẵn có. Trong hoàn cảnh của những năm từ 1985
về trước,
ông không tiện nói nhiều về những hình ảnh đa nghĩa cũng như quan niệm
về sự kỳ
dị của đời sống. Nhưng đó là một lối tư duy có thực ở ông và nó là một
cái gì
bẩm sinh chứ không phải học đòi đâu hết.
Nhân nói đến khả
năng bùng nổ tự nhiên
tự phát trong quan niệm nghệ thuật ở Nguyễn Minh Châu tôi nhớ tới câu
chuyện
của một tiến sĩ văn học tốt nghiệp bên Pháp. Theo bà trong số các văn
phẩm của
Nguyễn Minh Châu, thì Cỏ lau có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Khi
tôi hỏi
ngay rằng có phải ý ở đây muốn nói truyện vừa này nêu ra một cách nhìn
khác đi
về chiến tranh thì bà bảo không phải. Hãy đọc lại những trang sách đầu
tiên.
Điều thú vị là ở đó tác giả tả một hiệu ảnh mọc lên ở một vùng hôm qua
bom đạn
dày đặc và con người ta phải mất công lắm mới tìm thấy khuôn mặt của
mình. Vậy
là thấy đặt ra cái nhu cầu là phải có văn học, một chủ đề chỉ có ở văn
học hiện
đại và có lẽ phải trong chặng cuối của quá trình sáng tác Nguyễn Minh
Châu mới
đi tới. Có thể mạnh dạn nói về mặt quan niệm sáng tác, tác giả Cỏ
lau đã
đi xa nhất trong số các nhà văn đương thời? Đúng vậy. Thế nhưng tôi
biết một sự
thực khác: Sự kiện B. 52 Mỹ đánh vào Hà Nội (tháng chạp 1972) từng để
lại trong
Nguyễn Minh Châu một ấn tượng sâu sắc. Có đến mấy tháng sau, mỗi khi
hồi tưởng
lại sự kiện ghê gớm này, Nguyễn Minh Châu vẫn thường nói với tôi:
- Những ngày ấy,
vô tình thế nào, mình
lại đi chụp một cái ảnh. Lúc ra lấy, lão thợ ảnh bảo làm chưa xong, chỉ
thấy
thằng con lão bưng ra một chậu nước, trong đó những mặt người cái nổi
cái chìm,
cái lật lên, cái úp xuống, còn ảnh của mình thì lẫn vào đâu, không tìm
thấy.
Tức là, nếu
coi đây như một thứ mô típ thì Nguyễn Minh
Châu đã trở đi
trở lại với nó nhiều lần trước khi đưa nó vào Cỏ lau. Trong khi
mải mê hướng
ngòi bút viết ngay về đời sống trước mắt, tư duy nghệ thuật ở nhà văn
vẫn có
những sự vận động tự thân như
nó phải có.