lưu quang vũ
và một mảng đời
một mảng thơ
thường bị quên
lãng
Trước khi vùng
vẫy tung hoành trên sân
khấu, Lưu Quang Vũ đã được biết tới như
một người làm thơ. ấy là một nhà thơ thuộc loại
bẩm sinh, dễ dàng giãi bày mọi vui buồn của mình trên trang giấy. Những
lúc mở
lòng ra chan hoà tâm tình với người thân, với bè bạn, với cuộc đời, anh
đã có
thơ; những lúc buồn bã quay về một mình đơn độc, anh lại cũng chỉ có
cách tìm
tới thơ để tự an ủi. Nhất là khoảng từ đầu những năm 1970 trở đi, trong
khi
cuộc đời đa đoan phiền phức của mình gặp nhiều khó khăn, Vũ đã làm thơ
như ghi
nhật ký, làm khá nhiều. Vì những nguyên cớ khác nhau, các bài thơ hồi
đó chưa được
công bố, nhưng một số vẫn được ghi trong sổ tay và nhất là đi về trong
trí nhớ
của bè bạn. Hôm nay đây, đối diện với những bài thơ sống sót, những bài
thơ từ
cõi im lặng bước ra ấy, tôi có cảm tưởng như
được thấy lại những vật kỷ niệm của chính mình.
Tôi nhớ lại một thời Hà Nội và một thời văn nghệ mà mình và bạn bè đã
chứng
kiến, đã sống. Quả thật là đặt bên cạnh những bài thơ đã biết, cả những
bài rất
hay của thời chiến, thì những dòng thơ riêng tư của Vũ có được cái vẻ
độc đáo
không gì thay thế được. Chúng - và những gì tương tự như
chúng - là một phần cuộc đời ta, vì lý do nào
đó, có lúc ta đã phải lảng tránh, phải lãng quên, nhưng không phải vì
thế mà
nên chối bỏ chúng mãi mãi! ở đây chúng ta bắt gặp một Lưu Quang Vũ khác
với
thông thường mọi người vẫn nghĩ. Vũ của dằn vặt, đau xót, lầm lỡ, cô
đơn, mà
cũng là Vũ của những tha thiết muốn vượt lên trên mọi mệt mỏi, mọi hoài
nghi để
sống, để tồn tại. Hai chặng khác nhau nhưng đều là của một con người
thống
nhất.
+
+
+
Những bài thơ đầu
tay của Lưu Quang Vũ
được tập hợp lại thành phần Hương cây và ra chung với Bếp
lửa của
Bằng Việt vào cuối năm 1968. Dù có chóng quên đến đâu, thì những ai đã
sống qua
thời đó ở Hà Nội đều biết rằng đại khái đó là thời mà mọi sinh hoạt còn
rất đạm
bạc, chẳng hạn, với một cán bộ nhà nước, việc mua được chiếc xe đạp,
phải được
xem là một việc lớn trong đời, và chỉ những gia đình có máu mặt, mới có
chiếc
radio Melodia Liên Xô nặng nề, hoặc chiếc Orionton của
Hungary
xách tay được để nghe ca nhạc. Không thể tưởng tượng nổi là một tập thơ
lúc ấy
lại gây chấn động đến như thế nào. Bọn tôi, một số anh em mới viết,
muốn ướm
thử đời mình vào nghề văn, chúng tôi nghĩ rằng một tập sách, nó là cái
danh
thiếp tốt nhất, để người ta tự giới thiệu với chung quanh, để khẳng
định mình,
để có bạn. Với việc có một tập sách, chính là Vũ, cùng với Bằng Việt-
trong Bếp
lửa Hương cây, - cùng với Đỗ Chu -
trong tập truyện ngắn Phù sa, - là những bạn đầu tiên trong
chúng tôi
thành người. Thành nhà văn nhà thơ. Thành tác giả. Thành tất cả những
gì, mà
chúng tôi hằng ao ước. Làm sao mà không cảm động cho được!
Lúc bấy giờ, nhà
Vũ đã ở căn gác 96 phố
Huế như hiện nay. Trong
cảnh sơ tán, thành phố những
năm đầu mới chuyển sang thời chiến lại có vẻ thưa vắng đáng yêu riêng
của nó.
Phố xá sạch sẽ. Người không phải chen với người. Dắt cái xe đạp qua
cổng, có
thể khoá tạm rồi lên gác hai, không lo suy suyển gì hết. Giữa cái không
khí dễ
chịu ấy, căn phòng của người làm thơ trẻ Lưu Quang Vũ là một tổ ấm đích
thực.
Tôi nhớ đã gặp ở đấy rất nhiều người quen. Các bậc đàn anh: Trần Việt
Phương,
Nguyễn Khải, Chính Hữu. Các bạn trẻ hơn, Nguyễn Xuân Thâm, Tạ Vũ, Vũ
Quần Phương,
Phan Thị Thanh Nhàn... Rồi Nghiêm Đa Văn, Quốc Anh ở khu Bốn ra, Phạm
Tiến Duật
ở chiến trường về, Thi Hoàng ở Hải Phòng lên... Các bậc đàn anh đến có
việc mà
cũng là để xem xem lớp trẻ ra sao. Còn các bạn làm thơ trẻ, thì đến để
gặp Vũ
mà cũng là để gặp nhau, thời nào mà lớp trẻ chẳng ồn ào và thích đi
thành lũ
thành bọn! Đám cưới Vũ - Tố Uyên chỉ gồm có ít bạn quen, mà sao vui vẻ
lạ!
Trong trí nhớ của nhiều người, đám cưới ấy đồng nghĩa với hạnh phúc,
thứ hạnh
phúc bé nhỏ và trong sáng, mà thời chiến còn dành cho chúng tôi. Với vẻ
mãn
nguyện không che giấu, Vũ tận hưởng sự chiều đãi của mọi người chung
quanh và
gửi gắm niềm tin yêu đời sống của mình vào những bài thơ bồi hồi "hương
cây hương đất" thoang thoảng "lá bưởi lá chanh"
Ta đi giữ nước
yêu thương lắm
Mỗi xóm thôn
qua mỗi nghĩa tình
Đọc trong sự tha
thiết của Vũ một vẻ gì
rất thành thật, người ta đã tưởng tất cả Vũ chỉ có vậy.
Nhưng chúng tôi,
đám bạn bè thường vẫn
đàn đúm với nhau, biết nhau không chỉ qua thơ mà cả những gì sau các
câu thơ,
chúng tôi sớm mang máng nhận ra rằng không hẳn vậy. Mặc dù trẻ nhất
"hội", nhưng bên cạnh con người ngây thơ trong trắng, ở Vũ còn có con
người của thành thạo, từng trải. Từ nhỏ, trong gia đình, Vũ đã sống hết
với mọi
ấm lạnh của giới văn nghệ. Cái nhìn của Vũ về sự đời vượt xa tầm hiểu
biết của
một thanh niên 19 - 20 thông thường.
- Chuyện nhân
thế nhờ em anh biết được
Anh nhìn đời
theo con mắt của em
- Hỡi em của
anh em của anh chỉ em
là còn lại
Trong hoàng
hôn buồn bã của cuộc đời
Khi anh mất cả
dòng thơ êm ái
Cả dòng đời cả
tiếng nói niềm vui
Vì anh muốn
tiếng yêu em anh nhắc
lại
Tiếng mới đau
sao khi thiếu mất em
rồi
Những câu thơ ấy
là của L. Aragon và do
các nhà thơ Tế Hanh, Nguyễn Viết Lãm dịch ra tiếng Việt. ở Hà Nội năm
ấy, việc
giới thiệu văn học nước ngoài còn rất hạn chế, Aragon được dịch đã là
may, chứ
có ai để công kể với đám trẻ chúng tôi về con người tác giả (vốn mang
tiếng là
phức tạp) hoặc giảng giải kỹ chung quanh một ít câu thơ chứa chất những
vui
buồn của cả đời người như vậy. Một người nông nổi như
tôi đã bỏ qua những câu thơ sâu sắc ấy, để rồi
mãi lúc được Vũ chỉ cho, tôi mới ngớ ra vì sự khờ khạo của mình.
- Tôi thở ra
làm nhiều người không
sống được
Giấc ngủ chừng
khuấy động bởi âu lo
Hình như thơ
tôi vang tiếng đồng tiếng
sắt
Làm đứng lên
những người chết trong
mồ
...
Tôi nói tình
yêu tình tôi làm các
ông nhăn nhó
Tôi nói trời
trong, các ông bảo trời
mưa
Các ông nói
đồng tôi nhiều hoa quá
Đêm tôi lắm
sao trời tôi chẳng xanh
vừa
- Tôi nghe
tiếng gà trong cùng tận
đau thương
Trong đổ nát
tôi vẫn mang chiến
thắng
Dù khoét mắt
những vì sao xa vắng
Trong đêm dài
tôi vẫn chói vừng dương
Aragon
là vậy, si mê, cuồng nhiệt, sẵn sàng gây sự
thách thức mọi người. Aragon
luôn có chút gì đó quá đáng. Và, Vũ của chúng
tôi, thường cũng quá đáng. Tôi có cảm tưởng rằng sau giai đoạn thơ mộng
(mang
dấu vết của thơ tiền chiến), trong những bài thơ đau đớn của Lưu Quang
Vũ về
sau, luôn luôn có cái âm hưởng mà Aragon đã để lại trong tâm hồn anh.
Và không chỉ thơ,
mà cả cuộc đời Vũ
cũng giống như thơ Aragon,
cũng là minh chứng cho sự đa đoan phức tạp của
cuộc đời, mặc dù lý do khiến cho có sự phức tạp ấy thì khác hẳn.
Những phiền toái
đã đến với Vũ khá
nhanh chóng, những phiền toái do lỡ lầm hư hỏng của chính anh gây ra
cũng có,
mà do cái ngặt nghèo của hoàn cảnh cũng có.
Tôi không nhớ
thật rõ, nhưng hình như
ngay vào khoảng đầu những năm 70, khi Vũ mới 22 - 23, trong đầu óc một
số chúng
tôi, cái hình ảnh mơ mộng của một nhà thơ được ái mộ nơi anh đã nhoà đi
gần
hết. Thay vào đấy là hình ảnh một kẻ long đong giữa cuộc đời vô định.
Những
hoang tưởng ngớ ngẩn đã đẩy Vũ đến chỗ vượt ra khỏi những quy định
thông thường
mà một người làm thơ trẻ phải tuân thủ. Và Vũ bị trả giá đích đáng. Báo
chí
không in thơ Vũ nữa. Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu như lạc lõng giữa
dòng người
sôi nổi. Một điều khốn khổ nữa là chính lúc ấy, cái gia đình riêng của
Vũ cũng
rạn vỡ. Nếu hồi trước với Lưu Quang Vũ, ngày nào cũng là ngày vui, sau
khi đèo
người vợ mới cưới đi làm, chàng thi sĩ trẻ rẽ vào một quán cà phê sang
trọng,
ngồi làm thơ, đến giờ lại rẽ lên Xưởng phim đón vợ về, thì về sau, tất
cả đã
thay đổi. Nơi người ta thường gặp anh là những quán nghèo "quán cà
phê
dưới gầm cầu xe lửa" người con gái đi bên cạnh anh là một cô bạn
gày
guộc "em gầy như huệ trắng xanh", cô gái như hiện thân của
cuộc đời vất vả phiền phức mà Vũ không thể lìa bỏ. Và "phố Hạ Hồi
bữa
ấy mưa rơi" - những ngày ấy sao mà trời hay mưa:
- Thành phố
nghèo mù mịt những mưa
rơi
Cánh hoa nhoè
trong mưa tơi tả
- Chiều nay
bốn bề mưa xám
- Nay một mình
trở lại ngoại ô mưa
- Anh chỉ sợ
rồi trời sẽ mưa
Xoá nhoà hết
những điều em hứa.
Trong các thi sĩ
đương thời, Vũ là người
nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai hết. ở anh, mưa cho thấy sự
trôi
qua của thời gian mà con người bất lực, không sao níu kéo nổi. Mưa làm
cho hiện
tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ mờ, không xác định. Sở dĩ
Vũ nói
nhiều đến mưa vì cảm giác bao trùm trong anh lúc này là ngán ngẩm, thất
vọng,
không tin vào điều gì, không biết hướng đời mình vào việc gì.
- Thành phố
thời anh 17 tuổi
Viển vông cay
đắng u buồn
Tôi còn nhớ rất
rõ cái cảm tưởng nước
đôi giày vò bản thân mình khi nghe những bài thơ đó của Vũ: một mặt e
ngại, cảm
thấy nó đi ngược với tâm trạng chung, cái lạc quan chung nên không cần
ai bảo,
đã thấy là không phải. Nhưng mặt khác lại thích thú, cảm thấy ở đó có
một phần
vui buồn của mình nên tìm kiếm vụng trộm, tán thành vụng trộm, thèm
muốn trở
lại với những dòng thơ đó, như thèm muốn nhìn thấy chính hình ảnh của
mình. Từ
đầu 1970, cuộc sống Hà Nội đã bắt đầu phô ra tất cả cái khó khăn phiền
phức mà
thời chiến phải có. Thành phố như
một người ngấm bệnh. Mỗi lần còi báo động, phố
xá hiện ra đơn côi bé nhỏ đã đành, ngay những lúc yên lành, thành phố
tài hoa
của chúng tôi cũng quá lầm lụi nhem nhuốc. Các tường nhà lâu không quét
lại,
phô ra hết vẻ mốc meo. Những hầm cầu thang trú ẩn tăm tối. Túp lều che
tạm trên
gác thượng, tơi tả trong gió. Chỉ có trời mây trong xanh, nhưng trời
mây xa xôi
quá, có ích lợi gì đâu trong việc giải quyết những việc lặt vặt hàng
ngày! Đáng
sợ hơn nữa là cũng do cuộc sống khó khăn, những thói xấu cố hữu của con
người
như nhút nhát tham lam vụ lợi có dịp thức dậy, càng giấu giếm càng đê
tiện. Từ
đủ mọi phía, hoài nghi len lỏi tới, những hoài nghi đủ sức làm bủn rủn
con người
và không cho người ta vững tâm làm việc gì cả. Thơ Vũ bắt lấy những cái
đó rất
nhanh. Từ hoàn cảnh riêng, Vũ suy ra cả cuộc đời chung và diễn tả những
tan nát
đổ vỡ với tất cả cái đắm đuối của tuổi trẻ. Chúng tôi đã thử tìm cách
chống lại
thứ thơ ấy. Chẳng phải là đôi lúc, Vũ đã không khỏi có chút huênh
hoang? Đã vay
mượn chắp vá? Đã tố cái khốn khó của mình lên? Đã rên rỉ nhiều hơn là
kiên nhẫn
chịu đựng và dìm nỗi đau của mình trong nước lạnh? Chúng tôi biết cả.
Nhưng tận
trong thâm tâm, mỗi người vẫn biết là có lòng mình, tâm trạng của mình
ở trong
những dòng thơ rách xé đó. Vốn xa lạ với mọi thứ giáo huấn, dạy bảo, Vũ
không
hẳn cố ý làm lây truyền cái nôn nao buồn bã của mình. Nhưng có lẽ chính
vì thế
mà tiếng kêu của anh càng tội nghiệp. Nó giống như
một tiếng nức nở.
ở đây, sở dĩ đôi
lúc người viết bài
này, xưng "chúng tôi" bởi lẽ: do cái cái giọng riêng độc đáo của
những dòng Vũ viết lúc ấy, thơ anh đã được mang ra để anh em bạn bè
cùng lứa
bàn bạc tranh cãi. Làm sao không luôn luôn nghĩ về nhau được khi hàng
ngày gặp
gỡ chia sẻ mọi vui buồn, và hiểu nhau từ mọi chuyện nhỏ nhặt trong gia
đình đến
những dự định ao ước lớn lao? Tôi nhớ một lần nào đó, Vũ Quần Phương
khái quát:
- Nổi lên ở Vũ là
một cái gì rất đau
đớn, thấy cuộc đời cay cực mà vẫn yêu đời và quyết bám lấy cuộc đời thô
nhám
này.
Xuân Quỳnh - khi
đó còn là một người
hàng xóm, một đồng nghiệp - Xuân Quỳnh thông cảm:
- Giá kể Vũ thích
một cái gì đó thì có
thể Vũ cũng làm được. Đằng này Vũ không thích gì hết, đấy mới là điều
đáng sợ.
Với bản tính
chừng mực, đi sát với một
quan niệm trung dung, Bằng Việt chép miệng:
- Ông Vũ này, lúc
chiều đời quá lúc
khinh bạc quá, đều là không phải. Thực ra, cuộc sống luôn luôn là một
cái gì
cân bằng, phải chăng...
Bàn bạc vậy thôi,
song các ý nghĩ đều
để ngỏ, và một điều mà mọi người thường xót xa trong lòng, khi nghĩ đến
Vũ, là
thấy Vũ già đi rất nhanh.
Dáng người béo
đậm, Vũ của tuổi 19, môi
đỏ, má lông tơ, hiện thân của một tuổi thanh xuân đầy thơ mộng. Nay
bước sang
tuổi 20 - tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi - tuổi tai ương dằng dặc
trận mưa
dài; trong một bài thơ nào đó, hình như nay đã thất lạc, Vũ viết
vậy - bước
sang tuổi 20, giờ đây người anh đanh lại, xạm đi, trên nét mặt nhiều
khoảng tối
u uất. Lúc nào Vũ cũng như
đăm chiêu không bằng lòng một điều gì, để rồi khi chịu không được, lại
buột ra
một câu thật suồng sã, láo lếu. Ngay ngồi giữa đám đông mà trong Vũ vẫn
có
những thoáng buồn xa vắng. May là ngoài đám bạn thơ quen từ mấy năm
trước, từ
đầu 1970, Vũ có thêm nhiều bạn thơ mới. Hải Phòng lúc ấy là một thứ Sài
Gòn bây
giờ. Hải Phòng là một cái gì đó, không phải Hà Nội, nhưng sẵn sàng chào
đón người
ta, khi người ta muốn từ bỏ Hà Nội. Hải Phòng có cuộc sống của than
bụi, lại có
biển, có trùng khơi, rất hợp với Vũ. ở Hải Phòng, Vũ tìm thấy những
người bạn
vừa phóng túng, vừa bao dung, như
đạo diễn điện ảnh Đào Nguyễn (Đào Trọng Khánh), như
Nguyễn
Khắc Phục. Nhiều bài thơ Vũ làm hồi này
nhắc tới Hải Phòng, hổn hển kể chuyện Hải Phòng, là từ những chuyến
lãng du đất
Cảng với các bạn ấy. Còn ở Hà Nội, người bao dung hơn cả, là Nguyễn
Lâm. Căn
phòng nhỏ của Lâm ở Triệu Việt Vương là nơi Vũ thường xuyên lui tới.
Những lúc
vui, Vũ đi những đâu đâu, khi buồn quá, lại trở về với Lâm. Lâm có thể
nghe Vũ
kể đủ chuyện, có thể nghe Vũ chửi bới kêu than, lại có thể lặng đi chờ
đợi khi
Vũ đờ đẫn không nói gì. Lần ra ga Hàng Cỏ cùng Vũ trong một đêm trời
lạnh, đó
là Lâm. Ngồi xe xích lô cùng Vũ đi rong, để rồi lại trở về trầm ngâm
bên chiếc
điếu cày hay chén rượu nhạt, lại cũng là Lâm, "Lâm rùa" như chúng tôi
đã đặt tên. Bao nhiêu ngang ngược của Vũ, Lâm chịu được hết. Trong
những năm
tháng tơi tả của Vũ, Lâm là hiện thân của sự chứa chấp thông cảm mà Vũ
khao
khát, nhưng lại thường tự đánh mất. Cố nhiên, nói về thơ Vũ lúc này,
còn phải
nói về gia đình và những người đàn bà, nơi nương tựa về tâm lý của Vũ,
những
khi đặc biệt cơ cực. Đó là những chuyện mà ở ta ít có thói quen nói ra
công
khai, song thật ra, lại liên quan trực tiếp đến nhiều sáng tác cụ thể
của các
nghệ sĩ nói chung và Lưu Quang Vũ nói riêng. Đọc những bài thơ tình hay
nhất
của Vũ viết khoảng sau 1970, tôi nhớ tới lời tự thú của Picasso: "Cũng
như
tất cả các hoạ sĩ khác, tôi trước tiên là hoạ sĩ của phụ nữ, và với
tôi, phụ nữ
trước tiên là một cơ chế của sự đau khổ".
+
+
+
Vào thuở mới bắt
tay viết lách, phần
lớn những người cầm bút ở ta đều có làm thơ, sau đó mới bỏ đi sang các
nghề
khác. Vì những lý do gì mà bỏ? Có thể mỗi người là một trường hợp
riêng, ở mỗi
người có nguyên cớ riêng. Như với Nghiêm Đa Văn - một người bạn chung
của chúng
tôi, cũng có làm thơ vào những năm 1965 - 70, sau đi viết chuyện thiếu
nhi, và
làm nhiều nghề đa tạp khác - ngay từ trước 1975, một lần tình cờ, tôi
nghe
Nghiêm Đa Văn trầm ngâm kể:
- Một trong những
thằng khiến tao bỏ
làm thơ là Lưu Quang Vũ.
ý Văn muốn nói
tài năng ở Vũ có một vẻ
gì tự nhiên, mà không sự dụng công nào có được, và ai không có, thì nên
từ giã
thơ cho sớm.
Về phần mình, tôi
có những kỷ niệm yêu
thơ Vũ theo một cách khác. Cũng như nhiều người trong tâm trí tôi,
thỉnh thoảng
lại vang lên những câu thơ đâu đâu, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, không
cần nhớ
tên tác giả, không thuộc cả bài, nhưng cứ nhớ và khi gặp hoàn cảnh
tương đồng
thì lại ngâm ngợi.
Một kỷ niệm tưởng
không đâu mà lưu
luyến mãi trong lòng:
- Có lẽ nào có
thể quên được nhỉ
Cuộc đời mình
còn có cỏ tóc tiên
Những lúc run rẩy
xúc động:
- Trời xanh
quá, tim tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi,
tiếng Việt ân tình
Nỗi ước nguyền
được hết lòng cho một người
con gái:
- Không làm
thơ, anh sẽ làm lá cỏ
Chỉ xanh thôi,
cũng mát mắt em nhìn
Từ một chi tiết
có vẻ nhỏ nhặt:
- Ngày hạnh
phúc có nụ cười mỏi mệt
Đến một cái gì
giống như là cảm giác
chung về cuộc đời này, nó đã làm
khổ ta, mà ta không dứt bỏ được:
- Có ai nói
cho lòng ta hiểu nổi
Về cuộc đời
ghê gớm ta yêu
Tất cả những câu
thơ đó là Lưu Quang
Vũ, Lưu Quang Vũ của Hương cây và nhất là Lưu Quang Vũ sau Hương
cây,
Lưu Quang Vũ của những năm bảy mươi hào hùng và cay đắng. Nên đánh giá
những
bài thơ này của Vũ như
thế nào? Tôi nhớ một câu nói của Chế Lan Viên
đại ý: nếu tất cả văn học chúng ta viết như Nguyễn Tuân thì chắc chắn
không được,
thậm chí còn phát chán nữa. Nhưng nếu trong toàn bộ nền văn học, không
có một
Nguyễn Tuân, thì cũng rất thiếu sót. Cũng tương tự như
vậy, báo chí những năm chiến tranh không thể
cho in những dòng thơ mang tâm sự cá nhân, điều ấy là đúng, giọng thơ
chủ yếu
của những năm chiến tranh phải là giọng thơ hùng tráng. Nhưng cùng với
sự lùi
xa của thời gian, sẽ là công bằng hơn nếu giờ đây chúng ta dành "một
chỗ
đứng dưới ánh mặt trời" cho những bài thơ xé lòng lâu nay chỉ chép
trong sổ
tay của nhiều người - đại loại như
những bài thơ của Vũ.
Nói bản chất của
con người là luôn luôn
vươn tới sự hoàn thiện, niềm vui, ánh sáng tức cũng có nghĩa con người
không
bao giờ thoát khỏi lầm lỗi, nỗi buồn, bóng tối, nhất là đôi khi trong
những hoàn
cảnh đặc biệt, ánh sáng càng rực rỡ, thì bóng tối càng nặng nề và trông
thấy
ánh sáng trước mắt đấy mà con người vẫn không vươn tới được. Có lẽ vì
rất hiểu
điều đó, nên một người như
thi nào Đức B. Brecht, trong bài thơ nổi tiếng mang tên Gửi người
mai sau
đã nói rất hay về sự độ lượng. Sau khi kể lại những nỗi khốn khổ mà thế
hệ mình
phải gánh chịu, nào nạn đói hoành hành, nào con người cướp giật của
nhau để
sống, nhiều người lang bạt "thay đổi nước như thay đổi giày" nhất là
sau khi kể lại những yếu hèn của thế hệ mình, Brecht viết tiếp:
Nhưng các anh,
khi đã đến cái thời
ao ước đó
Khi con người
là bạn của con người
Hãy nghĩ đến
chúng tôi
Cho độ lượng
Ngay từ những năm
chiến tranh, sống
trong cái tranh tối tranh sáng nửa hậu phương, nửa chiến trường của Hà
Nội, đám
bạn mới bắt đầu làm văn chương thuở ấy, khi nghĩ về thơ Vũ đã thường
tìm chỗ
dựa ở bài thơ nói trên của Brecht. Còn như giờ đây khi mà những người
20 - 25
hôm qua đã sang tuổi 50 - 60, cái ý tưởng về sự độ lượng càng có sức
kêu gọi,
như một ám ảnh: Chúng ta vốn chẳng giàu có gì, đừng làm cho chúng ta
nghèo thêm
đi một lần nữa, ngay trên phương diện tinh thần(*)./.
(*) Gần đây một
số bài thơ nhắc trong
bài này đã được in lại trong các tập thơ tuyển của Lưu Quang Vũ.
[Lê Minh Hà giới
thiệu]